Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

(TIỂU LUẬN) TIỂU LUẬN đề tài mô hình hofstede về lý thuyết các chiều văn hóa và ứng dụng trong thương vụ đầu tư giữa KKR và vinhomes

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.07 KB, 34 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
VIỆN KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
000

TIỂU LUẬN
Đề tài: Mơ hình Hofstede về lý thuyết các chiều văn hóa và ứng
dụng trong thương vụ đầu tư giữa KKR và VinHomes

Trình bày:

Nhóm 6

Giảng viên hướng dẫn:

TS. Trần Bích Ngọc

Hà Nội, tháng 2 năm 2022


Danh sách thành viên nhóm 6
Tên thành viên
Nguyễn Thị Hà (Nhóm
trưởng)
Nguyễn Phương Quỳnh
Nguyễn Thị Hải Dương
Triệu Thị Hải Yến
Nguyễn Hồng Anh
Trần Thị Dun
Nguyễn Khánh Chi

Mã sinh viên


1911120032
1911120103
2014110060
1815510147
1911120005
1911120027
1911120014

% hồn thành cơng việc


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................... 1
PHẦN NỘI DUNG.................................................................................................. 2
Chương 1.
1.1.

Lý thuyết về mơ hình 5 chiều văn hóa của Hofstede.......................2

Tổng quan về văn hóa..................................................................................2

1.1.1. Khái niệm văn hóa.......................................................................................2
1.1.2. Các yếu tố cấu thành....................................................................................2
1.1.3. Vai trị của văn hóa trong đàm phán thương mại quốc tế...........................4
1.2.

Mơ hình Hofstede về lý thuyết năm chiều văn hóa.....................................5

1.2.1. Lịch sử hình thành Lý thuyết chiều văn hóa...............................................5
1.2.1.1.


Vài nét về Hofstede..................................................................................5

1.2.1.2.

Lịch sử hình thành học thuyết................................................................5

1.2.2. Mơ hình năm chiều văn hóa của Hofstede..................................................6
1.2.3. Ứng dụng của mơ hình Hofstede.................................................................8
1.2.4. Giới hạn của mơ hình Hofstede.................................................................10
Chương 2.

Ứng dụng mơ hình 5 chiều văn hóa của Hofstede trong thương vụ

đầu tư giữa KKR và Vinhomes...............................................................................11
2.1.

Tổng quan thương vụ.................................................................................11

2.1.1. Diễn biến:...................................................................................................11
2.1.2. Kết quả:...................................................................................................... 12
2.2.

Phân tích mơ hình 5 chiều văn hóa giữa Việt Nam và Mỹ.......................12

2.2.1. Mơ hình 5 chiều văn hóa ở Việt Nam........................................................12
2.2.2. Mơ hình 5 chiều văn hóa ở Mỹ..................................................................16
2.3.

Tác động của các yếu tố văn hóa đến thương vụ......................................20


2.3.1. Chủ nghĩa cá nhân – Identity dimensions (IDV)......................................20
2.3.2. Chỉ số khoảng cách quyền lực – Power distance index (PDI)..................21


2.3.3. Giới (Gender) – Chỉ số nam tính (MAS)....................................................22
2.3.4. Chỉ số phòng tránh rủi ro – Uncertainty Avoidance Index (UAI).............23
2.3.5. Định hướng dài hạn – Long term Orientation (LTO)...............................23
Chương 3.

Đề xuất các giải pháp đối với khác biệt văn hóa trong đàm phán

thương mại quốc tế................................................................................................25
PHẦN KẾT LUẬN................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................30


PHẦN MỞ ĐẦU
Đàm phán, trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh q trình tồn cầu hóa,
hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới, là một khâu vô cùng quan trọng, là tiền
đề thiết yếu để tổ chức và triển khai các hoạt động kinh doanh, là yếu tố quyết định
cho thành công của các doanh nghiệp khi tham gia vào môi trường quốc tế. Thông
qua hoạt động xuất nhập khẩu và kinh tế đối ngoại, đàm phán đã cho thấy sự phức
tạp của nó. Đây là một q trình địi hỏi khơng chỉ kiến thức, kinh nghiệm lâu năm
trong nghề mà còn là sự khéo léo, tinh tế của các bên tham gia.
Khi nhắc tới những yếu tố ảnh hưởng tới đàm phán, văn hóa dường như chiếm
một vị trí vơ cùng quan trọng vì mỗi quốc gia có một nền văn hóa khác nhau, hình
thành nên những phong cách, quy tắc đàm phán khác nhau. Tuy vậy chìa khóa giúp
một nhà đàm phán thành cơng đó là phải hiểu thấu đối tác đàm phán của mình trước
khi ngồi vào bàn đàm phán. Vậy làm như thế nào để có thể hiểu thấu được những

con người từ những quốc gia, thậm chí là lục địa khác chúng ta trước khi đàm phán
với họ? Liêuk có nguy cơ xảy ra hiểu lầm hoặc cư xm sai lêch
k về văn hóa gây ra
nhầm lẫn?
Những câu hỏi trên đã được nhà tâm lý học Geert Hofstede đề ra và giải đáp
qua một bộ quy chuẩn về các chiều văn hóa. Nhận thức được tính thực tiễn ứng
dụng của nghiên cứu này, nhóm chúng em quyết định thực hiê nk đề tài: “Mơ hình
Hofstede về lý thuyết các chiều văn hóa và ứng dụng trong thương vụ đầu tư
giữa KKR và VinHomes”. Đề tài chia thành 3 nội dung chính:
Chương 1: Lý thuyết về mơ hình 5 chiều văn hóa của Hofstede
Chương 2: Ứng dụng của mơ hình 5 chiều văn hóa của Hofstede trong
thương vụ đầu tư giữa KKR và VinHomes
Chương 3: Đề xuất các giải pháp đối với khác biệt văn hóa
Do sự hạn chế về kiến thức cũng như thời gian nghiên cứu, bài tiểu luận của
chúng em khơng tránh khỏi những sai sót. Chúng em mong nhận được sự giúp đỡ
của cô để đề tài này được hoàn thiê nk một cách xuất sắc nhất. Chúng em xin chân
thành cảm ơn!

1


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1.
1.1.

Lý thuyết về mơ hình 5 chiều văn hóa của Hofstede

Tổng quan về văn hóa

1.1.1. Khái niệm văn hóa

Các học giả chưa bao giờ có thể thống nhất một định nghĩa đơn giản về văn
hóa. Theo quan điểm của Hofstede, Namenwirth và Weber, văn hóa là một hệ thống
các giá trị vật chất và tinh thần được chia sẻ giữa một nhóm người và khi tập hợp lại
thì tạo nên khn mẫu cho cuộc sống. Văn hóa là của con người, vì lợi ích của con
người và do con người sáng tạo, tích lũy trong hoạt động thực tiễn qua quá trình
tương tác giữa con người với tự nhiên, xã hội và bản thân. Văn hóa được con người
giữ gìn, sm dụng để phục vụ đời sống con người và truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác.
Trong đàm phán quốc tế, mỗi chủ thể tham gia sống trong những hoàn cảnh
địa lý và lịch sm khác nhau, từng nhóm dân cư khác nhau đã tạo nên những giá trị
văn hóa riêng biệt, in đậm dấu ấn của họ từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bởi vậy,
văn hóa đàm phán là tất cả những giá trị, chuẩn mực, hành vi, thái độ các bên phải
chú ý trong q trình đàm phán. Văn hóa đàm phán có thể biểu hiện ra ngồi mà
cũng có thể khơng biểu hiện ra ngoài.
1.1.2. Các yếu tố cấu thành
Như chúng ta đã biết, văn hóa có phạm vi vơ cùng rộng, chính vì vậy có rất
nhiều yếu tố cấu thành nên nó, như: cấu trúc xã hội, hệ thống tơn giáo và đạo đức,
giáo dục, ngôn ngữ, triết lý về kinh tế, triết lý chính trị, .... Trong giới hạn cho phép
của bài tiểu luận, chúng em xin nêu ra 4 yếu tố cấu thành nên văn hóa trong đàm
phán thương mại quốc tế như sau:
-

Hành vi (Behavior)
Hành vi là những biểu hiện hoạt động bên ngoài của con người, được thể hiện

ở suy nghĩ và cách ứng xm của con người đối với những người xung quanh trong
công việc và mơi trường hoạt động hằng ngày. Mỗi nhóm người ở nền văn hóa khác
nhau có những hành vi tương đối tương đồng dựa trên những chuẩn mực và giá trị
2



của nền văn hóa đó, từ đó góp phần hình thành nên một phần tính cách trong họ.
Thực tế, việc nhận diện hoặc đánh giá về tính cách của con người qua chỉ vài lần
tiếp xúc là điều không đơn giản. Tuy nhiên qua việc quan sát hình dáng, tướng mạo,
quan sát phịng làm việc, nghe ngóng cách nói chuyện, cách đặt câu hỏi trong quá
trình đàm phán, chúng ta cũng có thể có được những hiểu biết ban đầu về đối tác
của mình. Để xác định phong cách hành vi của đối tác có thể kết hợp các cách sau:
Quan sát tổng thể qua cách ăn mặc, tác phong đi đứng, vật dụng xung quanh,...;
Lắng nghe cách nói chuyện, đặt vấn đề trực tiếp hay gián tiếp; Đặt nhiều câu hỏi và
lắng nghe câu trả lời cả họ.
-

Thái độ (Attitude)
Thái độ là những khuynh hướng không thay đổi của sự cảm nhận hành xm theo

một hướng xác định đối với một đối tượng. Trong giao tiếp liên văn hóa mỗi cá
nhân mang trong mình những nét riêng biệt về thái độ, nó có thể là yếu tố mang tính
cá nhân nhưng nó cũng có thể là đặc trưng cho văn hóa của một vùng văn hóa.
Những nét khác biệt ln làm chúng ta khó khăn trong giao tiếp vì mỗi cá nhân ở
vùng văn hóa khác nhau mang trong mình những thước đo và chuẩn mực về thái độ
khác nhau. Ví dụ như nền văn hóa Nhật đã dựng lên một bức tường vơ hình, thường
là khơng thể vượt qua để chống lại người nước ngoài. Rất nhiều quan chức và các
công ty của Nhật cho rằng dùng hàng nước ngồi là khơng u nước. Tương tự như
vậy, những cơng ty nước ngồi tại Nhật thường gặp khó khăn trong việc thuê nhân
viên do ý thức chống đối ông chủ nước ngoài của những người này. Trong đàm
phán, cần chú ý và tìm hiểu thái độ của đối tác thông qua nghiên cứu, thảo luận.
-

Chuẩn mực (Norms)
Chuẩn mực là những quy định và quy tắc xã hội đặt ra những hành vi ứng xm


phù hợp và đúng mực trong những tình huống cụ thể. Chuẩn mực có thể chia thành
hai nhóm chính: lề thói và tập tục. Lề thói là những quy ước xã hội liên quan đến
những thứ như cách ăn mặc thích hợp trong từng trường hợp cụ thể, hành xm đúng
mực, cách ăn uống với dụng cụ phù hợp,... Tập tục là những chuẩn mực được xem
là tâm điểm vận hành xã hội và các hoạt động xã hội, nó có ý nghĩa và quan trọng
hơn nhiều so với lề thói. Trong nhiều xã hội tập tục được ban hành thành luật. Cả lề

3


thói và tập tục đều có nhiều khác biệt giữa các nền văn hóa. Ví dụ như tại Mỹ và
các nước Bắc Âu, đúng giờ là rất quan trọng nhưng đối với các nước Châu Phi, thời
gian có tính co giãn cao hơn và giữ đúng lịch trình được coi là ít quan trọng.
-

Giá trị (Values)
Giá trị là những quan niệm mang tính trừu tượng về những thứ mà một cộng

đồng tin là tốt, là đúng, và mong muốn thực hiện hoặc có được. Nói cách khác, giá
trị là căn cứ để con người đánh giá đúng sai, tốt xấu. Giá trị là yếu tố quan trọng
hình thành nền tảng của văn hóa. Đó là ngữ cảnh theo đó hình thành và điều chỉnh
chuẩn mực xã hội. Giá trị không chỉ là những khái niệm về lý thuyết mà còn bao
gồm cảm xúc. Con người tranh luận, chiến đấu, thậm chí hy sinh vì những giá trị
như sự tự do.
1.1.3. Vai trị của văn hóa trong đàm phán thương mại quốc tế
Văn hóa có vai trị đặc biệt quan trọng trong đàm phán thương mại quốc tế.
Văn hóa quyết định cách thức giao tiếp trong đàm phán. Mọi người dựa vào văn hóa
để dịch ra ý nghĩa của các câu nói và hành động của đối tác. Mỗi chủ thể sinh sống
ở hoàn cảnh khác nhau mang những nét văn hóa khác nhau và từ đó các cm chỉ hành

động của họ cũng có những ngụ ý khác nhau. Khi chúng ta nắm bắt được những đặc
trưng cơ bản trong nền văn hóa của đối phương, có nghĩa rằng chúng ta đã xây dựng
được một hệ thống các quy tắc trong việc truyền đạt, lưu trữ và xm lý thông tin.
Điều đó giúp chúng ta dễ dàng lựa chọn được địa điểm, phong cách và ngôn ngữ
phù hợp với từng cuộc đàm phán, từng đối tác đến từ nhiều quốc gia trên thế giới.
Văn hóa là đặc trưng cơ bản của một nhóm xã hội và liên tục thay đổi. Bởi vậy
văn hóa cũng hướng dẫn tiêu dùng trong thương mại quốc tế ở những mặt như mẫu
mã sản phẩm, cách thức phân phối sản phẩm, biện pháp xúc tiến và hỗ trợ kinh
doanh, giá cả... Thực tế đã cho thấy nhiều rằng có những trường hợp một sản phẩm
của cùng một hãng, khi đưa vào hai nước khác nhau, một sản phẩm thì bán rất chạy
cịn nước khác thì ngược lại. Ngun nhân chính là do khơng hiểu biết về văn hóa
hay hiểu sai lầm về văn hóa.

4


Văn hóa đảm nhiệm vai trị tạo nên sự đa dạng trong các kiểu đàm phán. Bởi
văn hóa rất phong phú và đa dạng, đàm phán quốc tế phải trải nghiệm sự đa dạng đó
và hình thành nên các kiểu đàm phán khác nhau.
1.2.

Mơ hình Hofstede về lý thuyết năm chiều văn hóa

1.2.1. Lịch sm hình thành Lý thuyết chiều văn hóa
1.2.1.1.

Vài nét về Hofstede

Gerard Hendrik (Geert) Hofstede (2/10/1928) là một nhà tâm lý học xã hội
người Hà Lan, cựu nhân viên IBM (một tập đồn về cơng nghê kmáy tính đa quốc

gia có trụ sở tại Mỹ) và Giáo sư danh dự về Nhân chủng học tổ chức và Quản lý
quốc tế tại Đại học Maastricht ở Hà Lan, nổi tiếng với nghiên cứu tiên phong về sự
giao thoa giữa các nền văn hóa và các tổ chức. Thơng qua các hoạt động học thuật
và văn hóa đa dạng, phong phú của mình ở nhiều quốc gia khác nhau, Hofstede có
thể được coi là một trong những đại diê nk hàng đầu của nghiên cứu liên văn hóa.
Những phát hiê nk trong nghiên cứu và ý tưởng lý thuyết của ơng được sm dụng trên
tồn thế giới trong cả nghiên cứu tâm lý học và quản lý.
1.2.1.2.

Lịch sm hình thành học thuyết

“Lý thuyết về chiều văn hóa” - Cultural dimensions theory là nghiên cứu lớn
nhất mà Hofstede đã thực hiê n.
k
Năm 1965, Hofstede thành lập một trung tâm nghiên cứu cá nhân của IBM
châu Âu. Từ năm 1967 đến 1973, ông thực hiênk một cuộc khảo sát quy mô lớn
nhằm nghiên cứu các sự khác biê tkvề giá trị dân tộc tại các cơng ty con trên tồn thế
giới của tập đồn đa quốc gia này. Ơng đã cho khảo sát 117,000 nhân viên IBM và
so sánh câu trả lời của họ trong cùng một mẫu khảo sát tương tự ở các nước khác
nhau. Đầu tiên, ông tập trung nghiên cứu tại 40 quốc gia lớn nhất, sau đó mở rộng
ra 50 quốc gia và 3 vùng lãnh thổ. Tại thời điểm đó, với nghiên cứu của mình,
Hofstede sở hữu cơ sở dữ liêuk mẫu thm đa quốc gia có quy mơ lớn nhất. Đó cũng là
một trong những lý thuyết định lượng đầu tiên có thể sm dụng để giải thích các khác
biêtkquan sát thấy giữa các nền văn hóa.

5


Sau khi chắt lọc và phân tích kỹ càng những kết quả, Hofstede đã đưa ra mơ
hình lý thuyết đầu tiên với bốn khía cạnh: Power Distance (Khoảng cách quyền

lực), Individualism (Chủ nghĩa cá nhân), Uncertainty avoidance (Mức độ e ngại rủi
ro), Masculinity (Nam tính). Sau đó, trong một cuộc nghiên cứu tách biê tkở Hồng
Kông, Trung Quốc, Hofstede đã đề ra khía cạnh thứ năm là Long term orientation
(Định hướng dài hạn) nhằm bao quát các khái niê m
k chưa được đề ra ở mơ hình ban
đầu. Ngồi ra trong năm 2010, Hofstede đã đưa ra thêm một chiều thứ sáu
Indulgence (Tự Thỏa Mãn và Tự Kiềm Chế) nhằm mô tả sự thỏa mãn so với sự
kiềm chế của con người. Song trong thực tiễn, mơ hình bao gồm 5 chiều đã có thể
phản ánh cụ thể và khách quan về văn hóa của một quốc gia nên trong bài tiểu luận
này chúng em xin phép được trình bày về mơ hình 5 chiều văn hóa đầu tiên.
1.2.2. Mơ hình năm chiều văn hóa của Hofstede
Chỉ số khoảng cách quyền lực (PDI): được định nghĩa là “mức độ mà những
thành viên ít quyền lực của một tổ chức hoặc thể chế (hoặc gia đình) chấp nhận và
tin rằng quyền lực được phân bổ khơng cơng bằng”. Trong khía cạnh này, sự bất
công bằng và tập trung quyền lực tập trung được những người ít quyền lực hơn
nhận thức một cách hiển nhiên. Vì vậy, chỉ số PDI cao thể hiện sự phân bổ quyền
lực được thiết lập và thực thi rõ ràng trong xã hội mà không vướng bất cứ sự nghi
ngờ hay chất vấn nào. Chỉ số PDI thấp thể hiện mức độ chất vấn cao về phân bổ
quyền lực cũng như nỗ lực phân chia quyền hành đồng đều.
Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể (IDV): Chỉ số này thể hiện “mức độ
hòa nhập của cá nhân với tập thể và cộng đồng”. Một xã hội có tính cá nhân cao
thường có mức độ ràng buộc khá lỏng lẻo và một cá nhân có xu hướng chỉ gắn kết
với gia đình của mình. Họ chú trọng đến chủ thể “tôi” hơn là “chúng tôi”. Trong
khi đó, chủ nghĩa tập thể, thể hiện một xã hội với các mối quan hệ hòa nhập chặt
chẽ giữa gia đình và những thể chế, hội nhóm khác. Những thành viên trong nhóm
có sự trung thành tuyệt đối và ln hỗ trợ những thành viên khác trong mỗi tranh
chấp với các nhóm, hội khác.
Chỉ số phịng tránh rủi ro (UAI): được định nghĩa như “mức độ chấp nhận
của xã hội với sự mơ hồ”, khi mà con người chấp nhận hoặc ngăn cản một thứ gì đó


6


không kỳ vọng, không rõ ràng và khác so với hiện trạng thông thường. Chỉ số UAI
cao cho thấy mức độ gắn kết của thành viên trong cộng động đó với các quy chuẩn
hành vi, luật lệ, văn bản hướng dẫn và thường tin tưởng sự thật tuyệt đối hay một sự
“đúng đắn” chung trong mọi khía cạnh mà tất cả mọi người đều nhận thức được.
Trong khi đó, chỉ số UAI thấp cho thấy sự cởi mở và chấp nhận những ý kiến trái
chiều và gây tranh cãi. Xã hội có UAI thấp thường mang tính ít quy định, quy chế
mà họ có xu hướng để mọi thứ được tự do phát triển và chấp nhận rủi ro.
Nam quyền và Nữ quyền (MAS): ở khía cạnh này, “nam quyền” được định
nghĩa là “sự ưu tiên của xã hội cho thành quả, phần thưởng vật chất và định nghĩa
thành công dựa trên những thành quả vật chất mà cá nhân đạt được”. Ngược lại,
nữ quyền ám chỉ sự coi trọng tính cộng tác, khiêm tốn, quan tâm đến những cá nhân
khó khăn cũng như chất lượng cuộc sống. Phụ nữ trong xã hội được tôn trọng và thể
hiện những giá trị khác nhau. Trong xã hội ấy, họ chia sẻ sự khiêm tốn và quan tâm
đến sự bình đẳng giới. Trong khi đó, xã hội trọng nam quyền, phụ nữ dù có được
chú trọng và cạnh tranh nhưng thường vẫn bị kém coi trọng hơn so với nam giới.
Nói theo cách khác, họ cũng nhận ra khoảng cách giữa những giá trị về nam giới và
nữ giới. Khía cạnh này chính là sự cấm kỵ trong những xã hội trọng nam quyền.
Định hướng dài hạn và định hướng ngắn hạn (LTO): khía cạnh này miêu tả
sự kết nối giữa quá khứ với hiện tại và các hành động/ khó khăn trong tương lai.
Khi chỉ số LTO thấp, nó biểu thị định hướng ngắn hạn của một xã hội khi mà những
truyền thống được trân trọng gìn giữ và sự kiên định được đánh giá cao. Trong khi
đó, xã hội có chỉ số LTO cao thường chú trọng vào quá trình dài hạn, quan tâm đến
sự thích ứng và thực dụng khi giải quyết vấn đề. Một nước nghèo, nếu giữ định
hướng ngắn hạn sẽ khó trong việc phát triển kinh tế. Trong khi đó nước có định
hướng dài hạn thường thuận lợi hơn trong việc phát triển.
Tự Thỏa Mãn và Tự Kiềm Chế (IND): khái niệm này chính là thước đo mức
độ hạnh phúc, liệu có hay khơng sự tự thỏa mãn những niềm vui đơn giản. Tự thỏa

mãn được định nghĩa như “sự cho phép của xã hội trong việc tự thỏa mãn một cách
tự do các nhu cầu cơ bản và tự nhiên của con người, ví dụ như hưởng thụ cuộc
sống”. Trong khi khái niệm “tự kiềm chế” lại thể hiện “sự kiểm soát của xã hội,

7


bởi những định kiến, chuẩn mực nghiêm ngặt, trong việc hưởng thụ của cá nhân”.
Một xã hội cho phép hưởng thụ thường tạo niềm tin cho cá nhân rằng chính họ,
quản lý cuộc sống và cảm xúc của mình, trong khi đó xã hội đề cao tính kiềm chế
tin rằng có những yếu tố khác, ngồi bản thân họ, điều khiển cuộc sống và cảm xúc
của chính họ.
1.2.3. Ứng dụng của mơ hình Hofstede
“Văn hóa ln là ngun nhân của phần lớn các cuộc tranh cãi. Những khác
biệt về văn hóa thường tiềm tàng rắc rối hoặc thậm chí chúng có thể trở thành thảm
họa.”
Geert Hofstede được biết đến như một nhà nghiên cứu đa dạng văn hóa và
nhân chủng học vĩ đại nhất, nhất là với những ứng dụng từ lý thuyết của ông trong
vận hành của kinh doanh quốc tế. Mơ hình năm chiều văn hóa được sm dụng rộng
rãi trong nhiều lĩnh vực của đời sống và con người, cũng như trong những mơ hình
kinh doanh quốc tế. Các ứng dụng thực tế của lý thuyết này gần như được phát triền
ngay lập tức sau khi được cơng bố. Trên thực tế, trong kinh doanh, văn hóa là một
khía cạnh nhạy cảm, nhưng hiệu quả trong việc giúp con người giao tiếp và hòa
nhập từ những nền văn hóa khác nhau. Điều này cực kỳ hữu ích trong việc bảo đảm
sự thành công của các giao dịch kinh tế.
-

Giao tiếp quốc tế
Trong kinh doanh, giao tiếp được coi là một trong những quan tâm hàng đầu.


Vì vậy, dành cho những chuyên gia làm việc trong môi trường quốc tế và hàng ngày
phải giao tiếp với những người từ các nền văn hóa khác nhau, mơ hình của Hofstede
đã thực sự giúp ích cho họ rất nhiều. Trên thực tế, giao tiếp đa văn hóa yêu cầu sự
nhận thức rõ ràng các khía cạnh văn hóa qua: ngơn ngữ (lời nói), phi ngơn ngữ (cm
chỉ, biểu cảm) và nhận thức của những việc nên hoặc không nên (quần áo, tặng quà,
ăn tối, tập quán và cách thức). Và những lý thuyết này cũng áp dụng được cho sự
giao tiếp bằng văn bản.
-

Thỏa thuận quốc tế

8


Trong thỏa thuận quốc tế, phong cách giao tiếp, sự kỳ vọng, mức độ vấn đề
được ưu tiên cũng như mục tiêu có thể thay đổi dựa theo những thỏa thuận của quốc
gia sản xuất. Nếu được áp dụng chính xác, sự nhận thức về các khía cạnh văn hóa sẽ
giúp các cuộc đàm phán đi đến thành công cũng như giảm thiếu những mâu thuẫn
và thất vọng. Ví dụ, trong một cuộc đàm phán giữa người Trung Quốc và người
Canada, những nhà đàm phán người Canada thường muốn nhanh chóng đi đến đồng
thuận và ký kết hợp đồng, trong khi đó, những đối tác người Trung Quốc lại muốn
dành nhiều thời gian cho những hoạt động phi công việc như tán gẫu, nghỉ ngơi và
hưởng thụ các ưu đãi của cuộc đàm phán để tạo lập mối quan hệ với đối tác.
-

Quản lý quốc tế
Trong môi trường quốc tế, mọi quyết định được đưa ra phải thỏa mãn những

giá trị và tập quán của đất nước. Khi làm việc với các đối tác nước ngoài, người
quản lý phải huấn luyện cho nhân viên của mình và khiến họ hiểu được sự nhạy

cảm của đa dạng văn hóa, phát triển kinh doanh đa sắc thái và dân tộc. Những khía
cạnh văn hóa của Hofstede giúp hướng dẫn định nghĩa các cách tiếp cận văn hóa đa
sắc thái một cách phù hợp trong việc hợp tác giữa các tổ chức đa quốc gia.
-

Marketing quốc tế
Mơ hình đa chiều của Hofstede rất hữu ích trong lĩnh vực marketing quốc tế

bới chúng giúp xác định các giá trị quốc gia, không chỉ ở phạm trù kinh doanh mà
còn sâu rộng trong một xã hội. Marieke de Mooij đã nghiên cứu các ứng dụng của
Hofstede trong hoạt động phát triển thương hiệu, hình thành chiến lược quảng cáo
và phán đoán hành vi tiêu dùng. Để có thể đưa sản phẩm và dịch vụ của mình đáp
ứng sở thích và thói quen tiêu dùng của người dân địa phương, các công ty cần phải
nhận thức được tính riêng biệt của đối tượng khách hàng tại thị trường của họ.
Ví dụ, nếu bạn muốn phân phối ô tô tại một quốc gia có xu hướng né tránh rủi
ro cao, bạn cần phải chú trọng vào tính an toàn. Trong khi ở các quốc gia khác, bạn
lại cần tạo dựng một hình ảnh đẳng cấp mà chiếc xe mang lại cho người dùng để
đánh vào thị hiếu của người mua sắm.

9


1.2.4. Giới hạn của mơ hình Hofstede
Dựa vào những ứng dụng rộng rãi của mình, mơ hình của Hofstede được coi
như một nghiên cứu hoàn chỉnh nhất về các giá trị văn hóa quốc gia. Tuy nhiên, lý
thuyết này vẫn tồn tại những hạn chế nhất định.
Thứ nhất, cơng trình nghiên cứu này dựa trên các dữ liệu thu thập được trong
khoảng thời gian từ năm 1968 đến năm 1972. Từ đó đến nay nhiều thứ đã thay đổi,
bao gồm tiến trình tồn cầu hố liên tiếp, sự phát triển của các phương tiện truyền
thông xuyên quốc gia, tiến bộ cơng nghệ và vai trị của phụ nữ trong lực lượng lao

động. Cơng trình này đã khơng thể lý giải được sự hội tụ các giá trị văn hóa đã xuất
hiện trong suốt vài thập kỷ qua.
Thứ hai, những phát hiện của Hofstede đều dựa trên ý kiến của những nhân
viên của một công ty đơn lẻ – công ty IBM – trong một ngành cơng nghiệp đơn lẻ,
do đó rất khó để khái qt hố vấn đề. Dù là mơ hình nền tảng có tầm ảnh hưởng
rơng
k lớn, nhưng lý thuyết về chiều văn hóa của Hofstede gây ra khơng ít tranh cãi
trong giới nghiên cứu văn hóa. Nhà khoa học M. L. Jones, trong mơ tkbài báo của
mình, đã tổng hợp các luâ nk điểm chống lại lý thuyết chiều nghiên cứu văn hóa.
Trong số đó, luâ nk điểm nổi tiếng nhất nhắm vào tính thuần nhất của văn hóa:
Hofstede giả định rằng mỗi quốc gia chỉ có 1 dân tô ck duy nhất, trong khi các quốc
gia lại được hình thành bởi nhiều dân tơ ck khác nhau và những nền văn hố khác
nhau (subcultures). Nói cách khác, ơng đánh đồng quốc gia và văn hố. Ví dụ Việt
Nam có 3 miền, 7 vùng, 54 dân tộc, v.v. Quyết định này khiến cho nghiên cứu của
ông chưa “qt” được nhóm giá trị của các dân tơckkhác trong mô kt quốc gia.
Thứ ba, ông đã sm dụng bảng câu hỏi để thu thập dữ liệu, phương pháp này
không hiệu quả khi điều tra một số vấn đề sâu xa xung quanh phương diện văn hố.
Do đó, chúng ta chỉ nên coi cơng trình nghiên cứu của Hofstede như là một chỉ
dẫn khái qt, nó hữu ích trong việc giúp chúng ta có được sự hiểu biết sâu hơn
trong hợp tác, giao lưu xuyên quốc gia với các đối tác kinh doanh, khách hàng nước
ngoài.
------------------*********------------------

10


Chương 2.

Ứng dụng mơ hình 5 chiều văn hóa của Hofstede trong thương vụ


đầu tư giữa KKR và Vinhomes
2.1.

Tổng quan thương vụ
Thời gian:

6/2020

Tính chất:

đầu tư

Bên mua:

KKR & Temasek

Tỷ lệ:

6%

Bên bán:

Vinhomes

Giá trị:

652,17 triệu USD

2.1.1. Diễn biến:
KKR thành lập vào năm 1976, là một cơng ty đầu tư tồn cầu đến từ Mỹ với

nhiều hình thức đầu tư đa dạng, bao gồm vốn cổ phần tư nhân, năng lượng, cơ sở hạ
tầng, bất động sản và tín dụng, với các đối tác chiến lược quản lý các quỹ phòng hộ.
Tên tuổi của KKR đã được biết đến ở Việt Nam 1 cách mạnh mẽ từ sau tháng 4 năm
2011 khi công ty quản lý quỹ này thực hiện khoản đầu tư trị giá 159 triệu đô la Mỹ
lần đầu vào Masan Consumer, ở thời điểm đó là khoản đầu tư vốn tư nhân lớn nhất
tại Việt Nam
VHM là cổ phiếu đầu ngành của chủ nhà đầu tư bất động sản thuộc tập đoàn
Vingroup (những doanh nghiệp tự bỏ vốn để xin làm pháp lý, cơ sở hạ tầng…). Thị
phần VHM thời điểm diễn ra thương vụ chiếm 26% thị phần bán bất động sản cả
nước. Riêng phân khúc trung và cao cấp VHM chiếm 44% thị phần mảng bán bất
động sản (thị phần lớn, tính ổn định cao)
Viking Asia Holdings II Pte.Ltd (Quỹ đại diện của KKR) vào ngày 15/6 đã
thông báo mua vào 185,84 triệu cổ phiếu Vinhomes, tỷ lệ 5,65% và chính thức trở
thành cổ đơng của VHM. Trước giao dịch tổ chức này chưa nắm giữ cổ phần
Vinhomes. Trước đó, phiên giao dịch 15/6 chứng kiến giao dịch thỏa thuận 201
triệu cổ phiếu Vinhomes với giá 75.000 đồng/cp, tương ứng giá trị khoảng 15.100 tỷ
đồng (gần 650 triệu USD).
Tính chất của cuộc mua bán là KKR chuyển nhượng thứ cấp cổ phiếu từ các
cổ đông khác chứ không phải đầu tư trực tiếp vào VHM (tức là bên bán là sẽ nhà
các nhóm nhà đầu tư trong nước)

11


2.1.2. Kết quả:
Sau giao dịch, Tập đồn Vingroup – cơng ty CP, sẽ tiếp tục là cổ đơng kiểm
sốt của Vinhomes. KKR đầu tư chủ yếu từ Quỹ châu Á III và sở hữu hơn 6% cổ
phần VHM
Sự kiện này cho thấy Việt Nam vẫn là điểm sáng nổi bật trên thị trường vốn
khu vực nhờ triển vọng phát triển và tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ. Giao dịch cũng

chứng minh sức hấp dẫn của Vinhomes với năng lực triển khai dự án hàng đầu Việt
Nam, sở hữu quỹ đất lớn và tiềm năng tăng trưởng mạnh mẽ trong lĩnh vực bất
động sản nhà ở, thương mại và cơng nghiệp.
Ơng Ashish Shastry - đồng Chủ tịch quỹ đầu tư vốn chủ tư nhân tại châu Á Thái Bình Dương và Giám đốc phụ trách thị trường Đông Nam Á của KKR cho
biết: “Chúng tơi thực sự vinh dự khi có cơ hội đầu tư vào một doanh nghiệp thành
công, hàng đầu như Vinhomes, một phần không thể thiếu trong hệ sinh thái thương
mại dịch vụ của Vingroup. Phương châm của KKR và đội ngũ quản lý là tìm kiếm
và hợp tác với các công ty hàng đầu ở Đông Nam Á – các thương hiệu Bạch Kim và
Vinhomes chính là một đối tác như vậy. Tin vui hôm nay cũng nhấn mạnh một lần
nữa cam kết mạnh mẽ của chúng tôi đối với Việt Nam, nơi KKR đã hoạt động và có
mặt trong gần một thập kỷ”.
Bà Nguyễn Diệu Linh - Chủ tịch của Vinhomes cho biết: “Chúng tôi rất vui
mừng chào đón KKR, với tư cách là cổ đơng của Vinhomes và tin rằng khoản đầu
tư này thể hiện sự tin tưởng của các nhà đầu tư quốc tế vào Vinhomes, Vingroup và
thị trường Việt Nam. Tôi tin với uy tín, đẳng cấp thế giới, chun mơn và kinh
nghiệm trong việc hỗ trợ các công ty đạt được thành cơng lâu dài, KKR sẽ có cống
hiến giá trị trong quá trình hợp tác nâng cao giá trị cho các cổ đơng của
Vinhomes”
2.2.

Phân tích mơ hình 5 chiều văn hóa giữa Việt Nam và Mỹ

2.2.1. Mơ hình 5 chiều văn hóa ở Việt Nam
Việt Nam có một nền văn hóa nơng nghiệp lâu đời cả ngàn năm nay. Người
Việt nói chung thân thiện và siêng năng. Người ở miền Bắc được coi là nhạy cảm về

12


chính trị, chăm chỉ và ln tìm cách tránh rủi ro. Người miền Bắc ảnh hưởng rất lớn

bởi văn hóa Trung Quốc, do hơn 1000 năm dưới sự đô hộ của phong kiến Trung
Quốc. Thêm vào đó, Việt Nam và Trung Quốc đã đi chung con đường XHCN trong
nhiều thập niên. Quá trình lịch sm và sự gần gũi về mặt địa lý khiến người Việt chia
sẻ nhiều đặc tính văn hóa và kinh doanh của hàng xóm Trung Quốc. Theo như đánh
giá của giáo sư Hofstede (vào năm 1980), văn hóa Việt Nam thuộc loại khoảng cách
quyền lực cao, có xu hướng theo chủ nghĩa tập thể, chỉ số tránh thay đổi ở mức
trung bình.

Quốc gia

Chủ nghĩa

Chỉ số khoảng Giới

cá nhân –

cách quyền

(Gender) tránh rủi ro –

dài hạn –

Identity

lực – Power

– Chỉ số

Long term


Chỉ số phòng
Uncertainty

Định hướng

dimensions distance index nam tính Avoidance

Orientation

(IDV)

(LTO)

(PDI)

(MAS)

Index (UAI)

Việt Nam

20

70

40

30

80


Hoa Kỳ

91

40

62

46

29

Nhật Bản

46

54

95

92

80

Thái Lan

20

64


34

64

56

20

80

66

30

118

74

18

16

23

khơng có

Trung
Quốc
Đan Mạch


Bảng 1: Điểm cho 5 chiều văn hóa của một số quốc gia tiêu biểu, trong đó có Việt Nam
(Nguồn: />
-

Chủ nghĩa cá nhân – Identity dimensions (IDV)
Việt Nam, với 20 điểm, là một xã hội tập thể. Chủ nghĩa tập thể cũng đã tồn tại

từ lâu đời ở Việt Nam. Nó được đặc trưng bởi hệ thống lề lối xã hội chặt chẽ và các
cộng đồng tự vận hành. Điều này được thể hiện trong cam kết lâu dài chặt chẽ với
nhóm “thành viên” – có thể là gia đình, dòng họ hoặc các mối quan hệ rộng hơn.
Lòng trung thành trong một nền văn hóa theo chủ nghĩa tập thể là điều tối quan
trọng và vượt qua hầu hết các quy tắc và luật lệ khác trong xã hội. Một xã hội như
vậy nuôi dưỡng các mối quan hệ bền chặt, nơi mọi người đều có trách nhiệm với
các thành viên trong nhóm. Những người trong nhóm trơng cậy vào việc cả nhóm
13


bảo vệ và che chở cho mình, và đảm bảo cuộc sống không rủi ro cho họ, và trả lại là
họ sẽ trung thành tuyệt đối. Người Việt đặt nặng vấn đề sống hòa hợp và tránh làm
mất mặt người khác. Trong xã hội tập thể, xung đột dẫn đến xấu hổ và mất mặt, họ
muốn giải pháp hai bên cùng có đạt kết quả. Mối quan hệ giữa người sm dụng lao
động và nhân viên được nhìn nhận theo khía cạnh đạo đức (giống như một gia
đình), việc tuyển dụng và thăng chức có tính đến việc nhân viên có thuộc nhóm
mình hay khơng. Quản lý nghĩa là quản lý của các nhóm.
Một đặc tính quan trọng của xã hội Việt là khơng dám nói thẳng, bởi họ coi đó
là việc làm mất mặt người khác. Bù lại, người Việt có khiếu hài hước, và thường sm
dụng những chuyện tếu táo để nói ra lịng mình. IDV của Việt Nam thấp hơn các
nước khác một phần thể hiện xu hướng ràng buộc về gia đình, họ hàng, khu dân
cư… Đây cũng là lý do người Việt Nam đặt ưu tiên cao hơn cho gia đình, bạn bè, họ

hàng đặc biệt là sự quây quần trong các dịp lễ Tết, giỗ chạp,…hơn là cho công việc.
-

Chỉ số khoảng cách quyền lực – Power distance index (PDI)
Việt Nam đạt điểm cao về chỉ số này (70 điểm), có nghĩa là mọi người chấp

nhận một hệ thống thứ bậc. Điểm PD cao bởi sự chấp nhận bất bình đẳng giữa
người và người được kéo dài. Chỉ số này lớn thể hiện trong đời sống thường ngày
của người Việt, cũng như trong công việc. Hệ thống phân cấp trong một tổ chức
được coi là phản ánh sự bất bình đẳng cố hữu, mơ hình quản lý tập trung là phổ
biến, cấp dưới mong đợi được chỉ dẫn những gì phải làm, và ơng chủ lý tưởng là
một người chuyên quyền nhân từ. Việc nhân viên thách thức lãnh đạo không được
mọi người ủng hộ. Sự phân chia đẳng cấp rất rõ ràng và việc một người ở đẳng cấp
thấp chuyển lên đẳng cấp cao hơn là khó khăn. Giữa những nhà lãnh đạo và quần
chúng cũng có một khoảng cách biệt rất xa. Trong gia đình, con trai và con gái phải
tuân lời của cha mẹ.
-

Giới (Gender) – Chỉ số nam tính (MAS)
Nếu điểm cao (Nam tính), nghĩa là xã hội được thúc đẩy bởi cạnh tranh, chiến

tích và thành cơng. Nếu điểm thấp (Nữ tính), nghĩa là các giá trị chủ đạo trong xã
hội là quan tâm đến người khác và chất lượng cuộc sống.

14


Ở Việt Nam, điểm số này thấp hơn bởi xã hội chấp nhận nam nữ bình quyền
và do đó được coi là một xã hội Nữ tính. Phụ nữ được đối xm bình đẳng với nam
giới trong mọi khía cạnh. Các đội nhóm được thành lập dựa trên việc phân bổ hợp

lý các kỹ năng chứ khơng phải giới tính. Trọng tâm của xã hội này là “làm việc để
sống”, các nhà quản lý nỗ lực vì sự đồng thuận, mọi người coi trọng sự bình đẳng,
đồn kết và chất lượng trong cuộc sống làm việc của họ. Xung đột được giải quyết
bằng thỏa hiệp và thương lượng. Các ưu đãi như ngày nghỉ hay thời gian làm việc
linh hoạt được ưa thích. Trọng tâm là hạnh phúc, địa vị không được khoe ra. Người
quản lý hiệu quả là người hỗ trợ người khác, và việc ra quyết định đạt được thơng
qua sự tham gia của nhiều người.
-

Chỉ số phịng tránh rủi ro – Uncertainty Avoidance Index (UAI)
Việt Nam đạt 30 điểm và do đó có ít ham muốn trong việc tránh sự mơ hồ.

Các xã hội có chỉ số này thấp duy trì một thái độ thoải mái hơn, trong đó thực tế
quan trọng hơn các nguyên tắc, và sự sai lệch so với chuẩn mực dễ được dung thứ
hơn. Trong các xã hội có chỉ số này thấp, mọi người tin rằng khơng nên có nhiều
quy tắc hơn mức cần thiết và nếu chúng không rõ ràng hoặc khơng hoạt động thì
nên bỏ hoặc thay đổi. Lịch trình rất linh hoạt, người ta chỉ làm việc chăm chỉ khi
cần thiết và vì bị bắt buộc, tính chính xác và đúng giờ khơng tự nhiên mà có, sự đổi
mới không được coi là quá gây áp lực. Con người Việt Nam sẵn sàng chấp nhận thm
nghiệm và có sự kết hợp giữa ý tưởng sáng tạo, tinh thần cải tiến, khả năng áp dụng
cơng nghệ nhanh chóng. Các giá trị được coi là truyền thống sẽ thay đổi thường
xuyên, và ít gị bó bởi các luật định trước.
Tuy nhiên cũng còn một bộ phận người Việt, đặc biệt là người miền Bắc,
tương đối ngại thay đổi môi trường sống. Đây cũng là một trở ngại cho việc xâm
nhập của các tư tưởng mới, khác lạ so với tư tưởng cũ vốn thống trị.
-

Định hướng dài hạn – Long term Orientation (LTO)
Định hướng này mô tả cách mỗi xã hội phải duy trì một số liên kết với quá


khứ của chính mình trong khi đối phó với những thách thức của hiện tại và tương
lai, và các xã hội ưu tiên hai mục tiêu hiện sinh này một cách khác nhau. Nếu đạt
điểm thấp về khía cạnh này, con người thích duy trì các truyền thống và chuẩn mực
15


được tôn vinh theo thời gian trong khi vẫn nghi ngờ về sự thay đổi của xã hội. Mặt
khác, những nước đạt điểm cao lại có cách tiếp cận khác: họ khuyến khích sự tiết
kiệm và nỗ lực trong nền giáo dục hiện đại.
Ở chiều văn hóa cuối cùng này, Việt Nam có số điểm cao. Điều đó chứng tỏ
văn hóa làm việc hướng tương lai, mà ở đó, người Việt Nam sẽ quý trọng sự bền bỉ,
luôn lo lắng tương lai của mình sẽ về đâu, chi tiêu dành dụm để đề phòng cho
những lúc trái nắng trở trời hay về già. Người ta tin cũng rằng chân lý phụ thuộc rất
nhiều vào hoàn cảnh, bối cảnh và thời gian. Họ thể hiện khả năng thích ứng dễ dàng
với các điều kiện thay đổi, xu hướng tiết kiệm và đầu tư mạnh mẽ và kiên trì để đạt
được kết quả. Đặc biệt, người Việt Nam cũng coi trọng “kết quả cuối cùng” hơn là
“sự thật”, thường lấy kết quả làm việc biện hộ cho phương tiện.
2.2.2. Mơ hình 5 chiều văn hóa ở Mỹ
-

Chủ nghĩa cá nhân – Individualism (IDV)
Chỉ số IDV của Mỹ cao nhất thế giới với kết quả 91/120. Có thể thấy Mỹ là

một quốc gia theo chủ nghĩa cá nhân điển hình. Nền văn hóa cá nhân chủ nghĩa chú
trọng đến chủ thể “tôi” thay vì “chúng tơi”. Trong nền văn hóa này dấu ấn cá nhân
và sự cạnh tranh được khuyến khích hơn việc hòa nhập vào các mối quan hệ xã hội.
Người Mỹ tin rằng cuộc sống của mỗi cá nhân thuộc về chính họ và họ có
quyền bất khả xâm phạm để sống và hành động theo những chuẩn mực của riêng
mình, sở hữu những thành tựu từ nỗ lực của chính mình và theo đuổi những giá trị
cá nhân. Đây cũng là lý tưởng mà các Nhà sáng lập Hoa Kỳ đặt ra và tìm cách thiết

lập khi họ soạn thảo bản Tuyên ngôn và Hiến pháp, đồng thời tạo ra một quốc gia
trong đó các quyền của cá nhân đối với cuộc sống, tự do, tài sản và mưu cầu hạnh
phúc phải được công nhận và bảo vệ.
Tiền đề của Mỹ về "tự do và công lý cho tất cả mọi người". Điều này được
chứng minh bằng sự nhấn mạnh rõ ràng về quyền bình đẳng trong mọi khía cạnh
của xã hội và chính phủ Hoa Kỳ. Trong các tổ chức của Mỹ, hệ thống phân cấp
được thiết lập để thuận tiện, cấp trên có thể tiếp cận và các nhà quản lý dựa vào các
nhân viên và nhóm cá nhân về chuyên môn của họ. Cả quản lý và nhân viên đều

16


mong muốn được tham khảo ý kiến và thông tin được chia sẻ thường xuyên. Đồng
thời, giao tiếp là không chính thức, trực tiếp và có sự tham gia ở một mức độ. Xã
hội rất lỏng lẻo, trong đó kỳ vọng là mọi người chỉ chăm sóc bản thân và gia đình
trực hệ của họ và khơng nên trơng chờ (quá nhiều) vào sự hỗ trợ của chính quyền. Ở
Hoa Kỳ cũng có mức độ dịch chuyển địa lý cao. Người Mỹ là những người tham
gia tốt nhất trên thế giới; tuy nhiên nó thường khó, đặc biệt là giữa nam giới, để
phát triển tình bạn sâu sắc. Người Mỹ đã quen với việc kinh doanh hoặc tiếp xúc
với những người mà họ khơng biết rõ. Do đó, người Mỹ không ngại tiếp cận các đối
tác tiềm năng của họ để lấy hoặc tìm kiếm thơng tin. Trong thế giới kinh doanh,
nhân viên được mong đợi là người tự chủ và thể hiện sự chủ động. Ngoài ra, trong
thế giới công việc dựa trên trao đổi, chúng tôi thấy rằng việc tuyển dụng, thăng
chức và các quyết định dựa trên thành tích hoặc bằng chứng về những gì một người
đã làm hoặc có thể làm.
-

Chỉ số khoảng cách quyền lực – Power distance index (PDI)
Chỉ số khoảng cách quyền lực tại Mỹ đạt 40/120, một kết quả trung bình thấp


so với mức trung bình tốn cầu là 55. Từ đó cho thấy Mỹ thuộc Chủ nghĩa quân
bình. Khoảng cách quyền lực giữa người ở các tầng lớp khác nhau tại Mỹ không
phải quá lớn nhưng ý thức và nhu cầu của người dân Mỹ đối với sự bình đằng trong
quyền lợi của mỗi cá nhân là khá cao. Đặc điểm này được biểu hiện trong nền văn
hóa Mỹ qua nhiều biểu hiện.
Thứ nhất, người lao động ở Mỹ thường chủ động và sẵn sàng nắm bắt cơ hội
tốt hơn đa số quốc gia khác.
Thứ hai, dịng chày thơng tin tại Mỹ là vịng tuần hồn.
Thứ ba, thảo luận và tranh luận là phần tất yếu để đưa ra quyết định trong mọi
lĩnh vực.
Thứ tư, giao tiếp thẳng thắn, ít trang trọng và khơng chuộng lối nói ẩn dụ, ngụ
ý như những xã hội đẳng cấp.
-

Giới (Gender) – Chỉ số nam tính (MAS)

17


Chỉ số nam quyền của Mỹ đạt 62/120, cao hơn so với mức trung bình của thế
giới là 50. Điều này cho thấy quốc gia này trải qua mức độ phân hóa vai trị theo
giới cao hơn. Nam giới thống trị một phần đáng kể cơ cấu quyền lực và xã hội. Tình
trạng này tạo ra một nhóm dân số nữ trở nên quyết đoán và cạnh tranh hơn - vốn là
những đặc trưng của “tính nam”, trong đó phụ nữ chuyển hướng sang hình mẫu
nam giới và phủ định những đặc trưng “tính nữ” của họ như sự khiêm tốn, hi sinh.
Các hành vi ở trường học, nơi làm việc và vui chơi đều dựa trên các giá trị
chung mà mọi người nên “cố gắng trở thành người giỏi nhất có thể” và “được ăn
cả, ngã về khơng”. Do đó, người Mỹ sẽ có xu hướng thể hiện và phát biểu một cách
thoải mái về những thành tựu của họ trong cuộc sống. Thành công không phải là
động lực tuyệt đối trong xã hội Mỹ, nhưng có thể cho thấy sự thành công của một

người. Nhiều hệ thống đánh giá của Mỹ dựa trên việc thiết lập mục tiêu chính xác,
qua đó nhân viên Mỹ có thể cho thấy họ đã hồn thành cơng việc tốt như thế nào.
Tồn tại một tâm lý “có thể làm được” tạo ra rất động lực cho xã hội, vì người ta tin
rằng ln có khả năng làm mọi thứ theo cách tốt hơn. Thông thường, người Mỹ
“sống để làm việc” để họ có tiền phần thưởng và kết quả là đạt được trạng thái cao
hơn dựa trên mức độ tốt của một người. Nhiều công nhân cổ cồn trắng sẽ chuyển
đến một khu phố lạ mắt hơn sau mỗi lần thăng chức đáng kể. Người ta tin rằng một
mức độ xung đột nhất định sẽ mang lại những điều tốt nhất của con người, vì đó là
mục tiêu để trở thành "người chiến thắng". Kết quả là, chúng ta thấy rất nhiều phân
cực và các phiên tòa. Tâm lý này ngày nay làm xói mịn tiền đề của Mỹ về “tự do
và cơng lý cho tất cả mọi người”. Bất bình đẳng gia tăng đang gây nguy hiểm cho
nền dân chủ, bởi vì khoảng cách ngày càng lớn giữa các giai cấp có thể từ từ đẩy
Khoảng cách quyền lực lên và Chủ nghĩa cá nhân đi xuống. Tâm lý này ngày nay
làm xói mịn tiền đề của Mỹ về “tự do và cơng lý cho tất cả mọi người”. Bất bình
đẳng gia tăng đang gây nguy hiểm cho nền dân chủ, bởi vì khoảng cách ngày càng
lớn giữa các giai cấp có thể từ từ đẩy Khoảng cách quyền lực lên và Chủ nghĩa cá
nhân đi xuống. Tâm lý này ngày nay làm xói mịn tiền đề của Mỹ về “tự do và cơng
lý cho tất cả mọi người”. Bất bình đẳng gia tăng đang gây nguy hiểm cho nền dân
chủ, bởi vì khoảng cách ngày càng lớn giữa các giai cấp có thể từ từ đẩy Khoảng
cách quyền lực lên và Chủ nghĩa cá nhân đi xuống.
18


Các phong trào bình đẳng giới phát triển mạnh mẽ tại quốc gia này từ sớm và
giữ lma suốt các thập kỷ gần đây đã tăng cường ý thức của người Mỹ về bình đẳng
giới và nữ giới đang dần được coi trọng hơn trong quá khứ.
-

Chỉ số phòng tránh rủi ro – Uncertainty Avoidance Index (UAI)
Chỉ số phòng tránh rủi ro của Mỹ là 46/120, một kết quả khá thấp so với mức


trung bình tồn cầu là 64. Điều này cho thấy người Mỹ có xu hướng cởi mở và
khoan dung hơn với những ý tưởng mới, sản phẩm sáng tạo và sẵn sàng thm một cái
gì đó mới hoặc khác biệt, cho dù nó liên quan đến cơng nghệ, phương thức kinh
doanh hay thực phẩm. Tự do ngôn luận rất được coi trọng ở Mỹ như nền tảng của tự
do. Đồng thời, người Mỹ khơng địi hỏi nhiều quy tắc và ít thể hiện cảm xúc hơn so
với các nền văn hóa có chỉ số cao hơn.
Lịch sm Mỹ được dựng lên bởi những con người ưa phiêu lưu và mạo hiểm.
Trong những chuyến hành trình thiên lý trên biển, những thủy thủ châu Âu đã phải
gánh chịu khơng ít rủi ro như cướp biển, đắm tàu, cạn kiệt lương thực, lạc đường,
bão biển…. Nhưng họ vẫn tiếp tục những chuyến hành trình của mình đến châu Mỹ
để khai phá và sau cùng chiếm lĩnh vùng đất này. Có thể thấy, sự liều lĩnh, can đảm
dấn thân vào những gì chưa biết tới đã trở thành một phần danh tính Mỹ kể từ thuở
lập quốc.
Tiếp theo, Mỹ cịn là một trong những quốc gia dẫn đầu thế giới về phát minh
trong nhiều lĩnh vực.
Hơn thế nữa, thái độ chấp nhận rủi ro này còn được thể hiện trong cách xã hội
Mỹ với những chủ đề gây tranh cãi. Cơng chúng Mỹ khó tính nhưng đồng thời cũng
là những cư dân mau quên nhất thế giới. Bằng chứng lớn nhất có thể thấy nằm ở
cách họ phản ứng với những bê bối trong giới showbiz.
-

Định hướng dài hạn – Long term Orientation (LTO)
Chỉ số định hướng dài hạn là chỉ số thấp nhất của Mỹ, chỉ đạt 29/120, thấp

hơn rất nhiều so với trung bình 45 của thế giới. Kết quả này cho thấy Mỹ là một
quốc gia có định hướng ngắn hạn với những đặc trưng của xã hội định hướng ngắn

19



hạn như xu hướng đáp ứng nghĩa vụ của mỗi cá nhân và sự đề cao các giá trị truyền
thống trong văn hóa.
Người Mỹ có xu hướng phân tích thơng tin mới để kiểm tra xem nó có phải là
sự thật hay khơng. Do đó, văn hóa này khơng khiến hầu hết người Mỹ trở nên thực
dụng, nhưng điều này không nên nhầm lẫn với thực tế là người Mỹ rất thực tế. Có
thể nói, sự phân cực được đề cập ở trên được củng cố bởi thực tế là nhiều người Mỹ
có những ý tưởng rất mạnh mẽ về thế nào là “tốt” và “xấu”. Điều này có thể liên
quan đến các vấn đề như phá thai, sm dụng ma túy, hành vi chết người, vũ khí hoặc
quy mơ và quyền của chính phủ so với Quốc gia và công dân. Hoa Kỳ là một trong
những quốc gia “da trắng” duy nhất trên thế giới, từ đầu thế kỷ 20, việc đến thăm
nhà thờ đã tăng lên. Sự gia tăng này cũng được thấy rõ ở một số nước cộng hịa hậu
Xơ Viết như Nga. Các doanh nghiệp Mỹ đo lường hiệu quả hoạt động của họ trên
cơ sở ngắn hạn, với báo cáo lãi lỗ được phát hành hàng quý. Điều này cũng thúc
đẩy các cá nhân phấn đấu để đạt được kết quả nhanh chóng tại nơi làm việc.
2.3.

Tác động của các yếu tố văn hóa đến thương vụ

2.3.1. Chủ nghĩa cá nhân – Identity dimensions (IDV)
Qua những tìm hiểu về chủ nghĩa cá nhân của Mỹ và Việt Nam, thì đây là
chiều văn hóa có sự khác biệt to lớn nhất giữa hai quốc gia. Nếu như Việt Nam là
quốc gia đề cao chủ nghĩa tập thể thì Mỹ là nơi mà cái tơi của mỗi cá nhân được
xem trọng, là quốc gia theo chủ nghĩa cá nhân điển hình.
Trong thương vụ này, chiều IDV cũng được thể hiện rõ rệt trong đàm phán về
số lượng và giá cổ phiếu. Bên bán đến từ Việt Nam là các nhóm đầu tư trong nước
vậy cần có sự thống nhất của các bên bán về giá trị và số lượng cổ phiếu sẽ giao
dịch, biểu hiện của chủ nghĩa tập thể và quyết định mua vào của Viking Asia
Holdings II Pte.Ltd, quỹ có liên quan đến Kohlberg Kravis Roberts (KKR)
Năm 2020 - năm mà đại dịch Covid-19 tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế

toàn cầu, với các chỉ số kinh tế hầu hết các nước tăng trưởng âm, thì kinh tế Việt
Nam 2020 được đánh giá là một năm tăng trưởng đầy bản lĩnh với tốc độ tăng
trưởng GDP đạt 2.91%. Con số tăng trưởng này là thành quả của tinh thần dân tộc,

20


sự lãnh đạo phía nhà nước và vì tập thể của nhân dân Việt Nam - đây là một minh
chứng rõ nhất của chủ nghĩa tập thể. Điều này đã giúp cho nền kinh tế Việt Nam ổn
định trong những ngày đầu đại dịch và đảm bảo đời sống nhân dân
Sự can trường chống dịch và những thành công đạt được này đã tạo nên sự uy
tín và danh tiếng của Việt Nam trên trường quốc tế. Đây có thể được coi là một
trong những lý do KKR quyết định đầu tư vào Việt Nam với niềm tin vào sự phát
triển của quốc gia này. Từ đó các cuộc đàm phán mới giữa 2 bên mới có thể được
tiến hành
2.3.2. Chỉ số khoảng cách quyền lực – Power distance index (PDI)
Với chỉ số khoảng cách quyền lực Việt Nam và Mỹ hoàn toàn trái ngược nhau.
Nếu như Việt Nam rất coi trọng thứ bậc, nghe lệnh cấp trên thì ở nước Mỹ, thảo
luận và tranh luận là phần tất yếu để đưa ra quyết định trong mọi lĩnh vực. Người
nước Mỹ có lối giao tiếp thẳng thắn, ít trang trọng, không nhấn mạnh vào sự khác
biệt giữa người và người về vị trí xã hội, về quyền lực, hay về của cải. Bình đẳng
được coi như một mục đích chung của cả cơng ty. Trong khi đó, người Việt Nam
khá là ưa lối nói ẩn dụ, những lời nói thể hiện được sự tôn trọng những điểm mạnh,
tài năng và vị thế của đối tác. Và bởi khoảng cách quyền lực ở Việt Nam lớn nên
thường chỉ những lãnh đạo cấp cao mới là người đưa ra quyết định cuối cùng và
quyết định của những nhà lãnh đạo cấp cao sẽ được coi trọng hơn.
Tìm hiểu được điều này của Văn hóa Việt Nam, người phát ngơn được chọn
cho cuộc đàm phán của KKR là ông Ashish Shastry - đồng Chủ tịch quỹ đầu tư vốn
chủ tư nhân tại châu Á - Thái Bình Dương và Giám đốc phụ trách thị trường Đơng
Nam Á của KKR. Ơng cho biết: “Chúng tơi thực sự vinh dự khi có cơ hội đầu tư

vào một doanh nghiệp thành công, hàng đầu như Vinhomes, một phần không thể
thiếu trong hệ sinh thái thương mại dịch vụ của Vingroup. Phương châm của KKR
và đội ngũ quản lý là tìm kiếm và hợp tác với các công ty hàng đầu ở Đông Nam Á
– các thương hiệu Bạch Kim và Vinhomes chính là một đối tác như vậy. Tin vui
hôm nay cũng nhấn mạnh một lần nữa cam kết mạnh mẽ của chúng tôi đối với Việt
Nam, nơi KKR đã hoạt động và có mặt trong gần một thập kỷ”.

21


×