Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Luận văn: Các công cụ chính sách tiền tệ và việc vận dụng của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.72 KB, 34 trang )



1




Luận văn
Các công cụ chính sách tiền
tệ và việc vận dụng của Ngân
Hàng Nhà Nước Việt Nam


2

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 3
CHƯƠNG 1: CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG 5
1.1. Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ : 5
1.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ : 5
1.3 Các công cụ của CSTT : 6
1.3.1.Nghiệp vụ thị trường mở: 6
1.3.2 Dự trữ bắt buộc: 7
1.3.3 Chính sách tái chiết khấu: 7
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CỦA
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 10
2.1 Sự đổi mới trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. 10
2.2 Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ những năm qua. 10
2.2.1. Công cụ lãi suất: 10


2.2.2 Công cụ Hạn mức tín dụng: 14
2.2.3 Công cụ Dự trữ bắt buộc 16
2.2.4 Công cụ cho vay tái chiết khấu 19
2.2.5 Công cụ Nghiệp vụ thị trường mở 21
2.3 Đánh giá quá trình thực hiện các công cụ của chính sách tiền tệ những
năm qua. 23
2.3.1 Những thành tựu trong việc ổn định kinh tế vĩ mô 23
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC CÔNG
CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM 26
3.1. Định hướng 26
3.1.1.Bối cảnh trong nước và quốc tế 26
3.1.2. Một số định hướng cơ bản: 27
3.2.Giải pháp : 27
3.2.1.Nhóm giải pháp nhằm tạo điều kiện ,môi trường thuận lợi 27
3.2.2 Nhóm giải pháp về việc hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền
tệ . 28
KẾT LUẬN 30


3

DANH SÁCH TỔ 2:


1. Trần Minh Hảo (nhóm trưởng)
2 . Trần Thị Lương
3. Nguyễn Thị Dung
4 . Nguyễn Thị Thu Hường
5. Nguyễn Thị Phương
6 . Lại Thị Thơ

7 . Hoàng Thị Thảo
8 . Phạm Thanh Thảo
9 . Vũ Thị Thắm
10. Nguyễn Văn Điệp
11. Hoàng Văn Quý


4

LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách tiền tệ luôn là nhu cầu để ổn định kinh tế vĩ mô với hạt
nhân là ổn định tiền tệ, tạo lập nền tảng cho sự phát triển chung. Mặt khác,
nền kinh tế thị trường bản chất là một nên kinh tế tiền tệ. Do đó việc ổn định
giá trị đồng tiền cùng với việc thiết lập nền Tài Chính Quốc Gia mạnh là cơ
sở đầu tiên cho việc kiềm chế lạm phát, và ổn định nền kinh tế.
Ngày nay việc làm và phân phối thu nhập vừa là vấn đề bức thiết trước
mắt, vừa là vấn đề lâu dài để ổn định và tăng trưởng kinh tế. Vì vậy mà việc
đẩy lùi và kiểm soát lạm phát, tạo công ăn việc làm là vấn đề thường trực.
Giải pháp cho việc đẩy lùi lạm phát, trách thất nghiệp nhiều cần tập trung vào
chính sách tiền tệ nhưng việc lựa chọn giải pháp nào để xây dựng và điều
hành chính sách tiền tệ quốc gia có hiệu quả nhất vẫn còn là một ẩn số phức
tạp và nhiều bất cập . Có thể nói chính sách tiền tệ là huyết mạch của nền kinh
tế.
Được sự hướng dẫn của thầy Trịnh Viết Giang nhóm chúng em đã làm
làm hoàn thành chuyên đề 2: Các công cụ chính sách tiền tệ và việc vận dụng
của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam .
Chuyên đề gồm 3 chương :
Chương 1: Chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường
Chương 2:Thực trạng việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ
ở Việt Nam hiện nay.

Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện các công cụ của chính
sách tiền tệ ở Việt Nam.





5

CHƯƠNG 1
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG

1.1. Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ :
Khái niệm chính sách tiền tệ : Chính sách tiền tệ là một chính sách
kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung ươn khởi thảo và thực thi, thông qua các
công cụ , biện pháp của mình nhằm đạt các mục tiêu :ổn định giá trị đồng
tiền, tạo công ăn việc làm ,tăng trưởng kinh tế .
Tuỳ điều kiện các nước, chính sách tiền tệ có thể được xác lập theo hai
hướng: chính sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền ,giảm lãi suất để thúc đẩy
sản xuất kinh doanh ,giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng -chính sách tiền tệ
chống thất nghiệp) hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt(giảm cung tiền , tăng lãi
suất làm giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhưng
thất nghiệp tăng-chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền)
Vị trí chính sách tiền tệ : Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô
của Nhà nước thì chính sách tiền tệ là một trong những chính sách quan trọng
nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ .Song nó cũng có
quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài
khoá,chính sách thu nhập,chính sách kinh tế đối ngoại.
Đối với Ngân hàng trung ương ,việc hoạch định và thực thi chính sách

chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản nhất ,mọi hoạt động của nó đều nhằm
làm cho chính sách tiền tệ quốc gia được thực hiện có hiệu quả hơn.
1.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ :
*ổn định giá trị đồng tiền: NHTW thông qua CSTT có thể tác động đến
sự tăng hay giảm giá trị đồng tiền của nước mình.Giá trị đồng tiền ổn định
được xem xét trên 2 mặt: Sức mua đối nội của đồng tiền(chỉ số giá cả hàng


6

hoá và dịch vụ trong nước)và sức mua đối ngoại(tỷ giá của đồng tiền nước
mình so với ngoại tệ).Tuy vậy ,CSTT hướng tới ổn định giá trị đồng tiền
không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát bằng 0 vì như vậy nền kinh tế không thể phát
triển được,để có một tỷ lệ lạm phát giảm phải chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp
tăng lên.
*Tăng công ăn việc làm: CSTT mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng
trực tiếp tới việc sử dụng có hiệu qủa các nguồn lực xã hội,quy mô sản xuất
kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế .Để có
một tỷ lệ thất nghịêp giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên.
*Tăng trưởng kinh tế :Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi
chính phủ trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để
giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản
tệ là rất quan trọng ,nó thể hiện lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ
.Mục tiêu này chỉ đạt được khi kết quả hai mục tiêu trên đạt được một cách
hài hoà.
Mối quan hệ giữa các mục tiêu :Có mối quan hệ chặt chẽ,hỗ trợ nhau,
không tách rời. Nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này
có thể mâu thuẫn với nhau thậm chí triệt tiêu lẫn nhau.Vậy để đạt được các
mục tiêu trên một cách hài hoà thì NHTW trong khi thực hiện CSTT cần phải
có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.


1.3 Các công cụ của CSTT :
1.3.1.Nghiệp vụ thị trường mở:
Khái niệm: Là những hoạt động mua bán chứng khoán do NHTW thực
hiện trên thị trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó điều tiết lượng
tiền cung ứng.
Cơ chế tác động:Khi NHTW mua (bán)chứng khoán thì sẽ làm cho cơ
số tiền tệ tăng lên (giảm đi) dẫn đến mức cung tiền tăng lên (giảm đi).


7

Nếu thị trường mở chỉ gồm NHTW và các NHTM thì hoạt động này sẽ
làm thay đổi lượng tiền dự trữ của các NHTM (R ),nếu bao gồm cả công
chúng thì nó sẽ làm thay đổi ngay lượng tiền mặt trong lưu thông(C)
Đặc điểm:Do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi là
một công cụ rất năng động ,hiệu quả,chính xác của CSTT vì khối lượng
chứng khoán mua( bán ) tỷ lệ với qui mô lượng tiền cung ứng cần đIều
chỉnh,ít tốn kém về chi phí ,dễ đảo ngược tình thế.Tuy vậy, vì được thực hiện
thông qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc vào các chủ thể khác tham
gia trên thị trường và mặt khác để công cụ này hiệu quả thì cần phảI có sự
phát triển đồng bộ của thị trường tiền tệ ,thị trường vốn.
1.3.2 Dự trữ bắt buộc:
Khái niệm :Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NH phảI giữ lại,do
NHTW qui định ,gửi tại NHTW,không hưởng lãi,không được dùng để đầu
tư,cho vay và thông thường được tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng só
tiền gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng thanh toán,sự ổn định của hệ
thống ngân hàng
Cơ chế tác động:Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp
đến số nhân tiền tệ (m=1+s/s+ER+RR) trong cơ chế tạo tiền của các NHTM.

Mặt khác khi tăng (giảm ) tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các
NHTM giảm (tăng), làm cho lãi suất cho vay tăng (giảm),từ đó làm cho
lượng cung ứng tiền giảm (tăng).
Đặc đIểm:Đây là công cụ mang nặng tính quản lý Nhà nước nên giúp
NHTW chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động của
nó cũng rất mạnh (chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh
hưởng tới một lượng rất lớn mức cung tiền). Song tính linh hoạt của nó không
cao vì việc tổ chức thực hiện nó rất chậm ,phức tạp, tốn kém và nó có thể ảnh
hưởng không tốt tới hoạt động kinh doanh của các NHTM.
1.3.3 Chính sách tái chiết khấu:


8

Khái niệm : Đây là hoạt động mà NHTW thực hiện cho vay ngắn hạn
đối với các NHTM thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu bằng việc đIều chỉnh
lãI suất táI chiết khấu (đối với thương phiếu) và hạn mức cho vay táI chiết
khấu(cửa sổ chiết khấu)
Cơ chế tác động:Khi NHTW tăng (giảm ) lãi suất tái chiết khấu sẽ hạn
chế (khuyến khích) việc các NHTM vay tiền tại NHTW làm cho khả năng
cho vay của các NHTM giảm (tăng) từ đó làm cho mức cung tiền trong nền
kinh tế giảm (tăng).Mặt khác khi NHTW muốn hạn chế NHTM vay chiết
khấu của mình thì thực hiện việc khép cửa sổ chiết khấu lại.
Ngoài ra, ở các nước có thị trường chưa phát triển (thương phiếu chưa
phổ biến để có thể làm công cụ táI chiết khấu) thì NHTW còn thực hiện
nghiệp vụ này thông qua việc cho vay táI cấp vốn ngắn hạn đối với các
NHTM.
Đặc điểm:Chính sách tái chiết khấu giúp NHTW thực hiện vai trò là
người cho vay cuối cùng đối với các NHTM khi các NHTM gặp khó khăn
trong thanh toán ,và có thế kiểm soát đựoc hoạt động tín dụng của các NHTM

đồng thời có thể tác động tới việc đIều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế
thông qua việc ưu đãi tín dụng vào các lĩnh vực cụ thể.Tuy vậy ,hiệu qủa của
cộng cụ này còn phụ thuộc vào hoạt động cho vay của các NHTM, mặt khác
mức lãi suất tái chiết khấu có thể làm méo mó ,sai lệch thông tin về cung cầu
vốn trên thị trường.
Trên đây là 3 công cụ tác động gián tiếp tới qui mô lượng tiền cung
ứng,trong một nền kinh tế nếu NHTW sử dụng có hiệu quả cấc công cụ này
thì sẽ không cần đến bất cứ một công cụ nào khác .Tuy vậy trong những điều
kiện cụ thể (các quốc gia đang phát triển ;các giai đoạn kinh tế quá nóng ) thì
để đạt được mục tiêu của mình ,NHTW có thể sử dụng các công cụ điều tiết
trực tiếp sau:


9

Các công cụ trực tiếp: Gọi là các công cụ trực tiếp vì thông qua
chúng,NHTW có thể tác động trực tiếp đến cung cầu tiền tệ, mà không cần
thông qua một công cụ khác.
- Ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay.
NHTW có thể quy định khung lãi suất tiền gửi và buộc các ngân hàng
kinh phải thi hành.
Nếu lãi suất quy định cao sẽ thu hút được nhiều tiền gửi làm gia tăng nguồn
vốn cho vay. Nếu lãi suất thấp, sẽ là giảm tiền gửi, giảm khả năng mở rộng
kinh doanh tín dụng. Xong biện pháp này sẽ làm cho các ngân hàng thương
mại mất tính chủ động, linh hoạt trong kinh doanh. Mặt khác nó đễ dẫn đến
tình trạng ứ đọng vốn ở ngân hàng, nhưng lại thiếu vốn đầu tư, hoặc khuyến
khích dân cư dùng tiền vào dự trữ vàng, ngoại tệ bất động sản, trong khi ngân
hàng bị hụt hẫng về tiền mặt cũng như nguồn vốn cho vay.
Trong điều kiện không thể áp dụng các biện pháp khác, chính phủ có
thể phát hành một lượng trái phiếu nhất định để thu hút bớt lượng tiền trong

lưu thông. Việc phân bổ trái phiếu thường mang tính chất bắt buộc.





10
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1 Sự đổi mới trong việc thực hiện chính sách tiền tệ.
Kể khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường thì quá trình thực
hiện chính sách tiền tệ cũng được xây dựng, đổi mới theo đúng ý nghĩa kinh
tế của nó và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, thể hiện ở một số mặt sau:
Cách xác định lượng tiền cung ứng: Nếu như trong thời kỳ bao cấp
chúng ta chỉ quan niệm lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế chỉ bao gồm tiền
mặt và mức cung là bao nhiêu, ở thời kỳ nào là do chính phủ phê duyệt thì
ngày nay việc quan niệm về lượng tiền cung ứng để thay đổi bên cạnh lượng
tiền mặt (C) còn tính đến khả năng tạo tiền của các NHTM, tổ chức tín dụng
khác (D). Bên cạnh đó lượng tiền cung ứng hàng năm phải dựa trên cơ sở: tỉ
lệ lạm phát ước tính, tốc độ tăng trưởng kinh tế theo kế hoạch, vòng quay tiền
tệ
Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ: Được sử dụng một cách
linh hoạt, phù hợp với điều kiện Việt Nam ở các thời điểm cụ thể chứ không
đông cứng, đóng băng như thời kì bao cấp (lãi mất cố định nhiều năm )
Cơ chế điều hành: Năm 1988, Hệ thống NH đã được phân thành 2 cấp
NHNN và các NHTM, trong đó NHNN là cơ quan quản lý Nhà nước trên
lĩnh vực tiền tệ- tín dụng- ngân hàng; trực thuộc chính phủ. Thống đốc
NHNN có quyền chủ động hơn và chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc thực

hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
2.2 Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ những năm qua.
2.2.1. Công cụ lãi suất:


11
ở Việt Nam, lãi suất được sử dụng như công cụ chính của chính sách
tiền tệ, nó là yếu tố đánh dấu sự chuyển biến từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá
tập trung sang cơ chế thị trường, nó còn là công cụ quan trọng để chuyển các
Ngân hàng sang cơ chế tự hạch toán kinh doanh.
Trong năm 1997, với mục tiêu góp phần tăng trưởng kinh tế và phù hợp
xu hướng giảm lãi suất, việc quy định trần lãi suất cho vay giảm mạnh,
T7/1997 lãi suất cho vay ngắn hạn giảm từ 1,2% tháng xuống 1% tháng, lãi
suất cho vay trung dài hạn giảm từ 1,35% tháng xuống 1,1% tháng ,chênh
lệch lãi suất huy động và cho vay bình quân quy định là 0,35% tháng(4,2%
năm)
Tuy nhiên từ quý IV năm 1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, đồng USD có xu hướng lên giá và lãi
xuất tiền gửi bằng USD ở mức cao trong khi lãi suất huy động của VND ở
mức thấp nên đã có hiện tượng người gửi tiền rút VND để chuyển sang USD.
Nhiều tổ chức kinh tế và dân cư nắm giữ USD gây khó khăn cho các NHTM
và tăng sức ép đối với đồng nội tệ, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn cho thị trường
tiền tệ và việc huy động vốn của các NHTM, đặc biệt là một số NHTM cổ
phần.
Trước tình hình đó, ngày 20/1/1998, thống đốc NHNN ra QĐ số 39/1998
/ QĐ- NHNN1 với nội dung chủ yếu là:
- Đưa ra mức trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng bằ
ng VND:
lãi cho vay ngắn hạn từ 1%-1,2% tháng; lãi suất cho vay trung và dài hạn là
1,1- 1,25% tháng ; đồng thời xoá bỏ sự chênh lệch về lãi suất giữa 2 khu vực

thành thị và nông thôn. Đó là cơ sở tăng lãi suất huy động vốn VND. Hạn chế
rút tiền VND tích trữ USD ,tăng vốn cho sản xuất kinh doanh.
- Quy định trần lãi suất cho vay bằng USD vẫn giữ nguyên 8,5% năm
như trước đây đồng thời NHNN còn quy định lãi suất tiền gửi tối đa của các


12
pháp nhân tại TCTD nhằm hạn chế việc quản lí ngoại tệ trên tài khoản tiền
gửi góp phần tăng cường cho việc quản lí ngoại hối.
- Đến cuối năm, trần lãi suất cho vay bằng USD được điều chỉnh giảm từ
8,5 % xuống 7,5% năm để phù hợp với cân bằng lãi suất LiBOR, SiBOR hiện
hành; đồng thời góp phần mở rộng cho vay ngoại tệ đối với nền kinh tế.
Nhìn chung việc điều chỉnh lãi suất trong năm 1998 là phù hợp với diễn
biến kinh tế vĩ mô và tỷ giá, nó đã có tác động tích cực đối với việc huy
động vốn và cho vay trong nền kinh tế. Tổng số vốn huy động ở hầu hết các
tổ chức tín dụng đều tăng lên điều đó cho thấy mối tương quan giữa lạm phát
và lãi suất tiền gửi được coi là tương đối hợp lý. Từ đó, quy mô tín dụng cung
ứng cho nền kinh tế tăng lên đặc biệt tín dụng bằng VND có tốc độ tăng cao
hơn. Thị trường ngoại tệ ,tỉ giá VND/USD lại trở về trạng thái tương đối ổn
định.
Bước sang năm 1999, nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng chững lại, để
phù hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường tiền tệ
và thực hiện giải pháp kích cầu về đầu tư của chính phủ , NHNN đã 5 lần điều
chỉnh trần lãi suất cho vay bằng VND theo xu hướng giảm: Từ 1,2% tháng
(ngắn hạn) và (1,25%tháng -trung dài hạn) xuống mức thấp nhất là 0,85%
tháng (thành thị); 1% tháng (nông thôn); 1,15% tháng (NHTMCP nông thôn-
Quỹ TDND cơ sở ); 0,7% (NH phục vụ người nghèo). Trần lãi suất cho vay
bằng USD là 7,5% năm.
Sự điều chỉnh lãi suất trên là quyết định hết sức kịp thời và phù hợp với
diễn biến của nền kinh tế, kích thích tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh nguy

cơ giảm phát đang là chậm lại tốc độ tăng trưởng.
Năm 2000, lãi suất trong nước có những diễn biến khá phức tạp .Thực
hiện chủ trương kích cầu của chính phủ, lãi suất cho vay bằng VND vẫn tiếp
tục được điều chỉnh theo xu hướng giảm: lãi suất cho vay phổ biến gỉam từ
0,75% tháng xuống 0,70% tháng. Trong khi đó lãi suất ngoại tệ lại chịu tác


13
động của thị trường tài chính quốc tế, trong năm 2000, lãi suất thị trường
quốc tế liên tục tăng buộc lãi suất ngoại tệ trong nước cũng phải tăng theo (từ
3,5% năm lên 4,5% năm ), nhiều khi lãi suất VND thấp hơn lãi suất USD.
Ngày 2/8/2000, NHNN đã quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất:
chuyển từ cơ chế điều hành trần lãi suất sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ
bản đối với cho vay bằng VND và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối
với cho vay bằng ngoại tệ: Đối với cho vay VND, lãi suất cho vay không vượt
quá lãi suất cơ bản được công bố hàng tháng. Hiện nay, lãi suất cơ bản là
0,75% tháng, biên độ cho vay ngắn hạn là 0,3% tháng, biên độ cho vay trung
và dài hạn là 0,5% tháng. Đối với lãi suất cho vay USD, lãi suất cho vay
không vượt quá lãi suất USD trên thị trường liên NH Singapore (SiBOR) kì
hạn 3 tháng đôí với cho vay ngắn hạn, kì hạn 6 tháng đối với cho vay trung
dài hạn tại thời điểm cho vay cộng biên độ do thống đốc NHNN quy định
(Hiện nay biên độ cho vay ngắn hạn là 1% năm , biên độ cho vay trung dài
hạn là 2,5% năm ). Còn đối với các ngoại tệ khác do chiếm tỷ trọng nhỏ trong
hoạt động tiền gửi TD nên cho phép các TCTD tự xác định.
Trước ngày 1/6/2002 ngân hàng nhà nước Việt Nam thực hiện cơ chế
điều hành lãi suất cơ bản Đồng VN, mức lãi suất cơ bản được công bố trong
những tháng đầu năm 2002 là 0,6%/tháng. NHNN cũng đã mạnh dạn thực
hiện chính sách tự do hoá lãi suất đối với ngoại tệ từ tháng 6 năm 2001. Chính
sách lãi suất như vậy là phù hợp với thực tiễn của VN trong qua trình chuyển
sang nền kinh tế thị trường và bám sát với những diễn biến của thị trường

quốc tế.
- Từ ngày 1/6/2002 ngân hàng nhà nước quyết định chuyển sang cơ chế
lãi suất ổn định Đồng VN của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Đây là
một sự “cởi trói” cho các tổ chức tín dụng trong các hoạt động kinh doanh,
tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng chủ động trong hoạt động huy động
vốn và cho vay đối với khách hàng. Cơ chế mới đã tạo ra sự sôi động trong
hoạt động kinh doanh và cạnh tranh của các tổ chức tín dụng. Nếu như với cơ


14
chế lãi suất cơ bản, trong các đầu năm 2002 lãi suất huy động vốn dừng lại ở
mức 0,6%/tháng, lãi suất cho vay bình quân là 0,7%/tháng, thì từ khi áp dụng
cơ chế lãi suất thỏa thuận từ tháng 6 năm 2002 và nhất là trong các tháng 8và
9 năm 2002 lãi suất huy động vốn cao nhất của các NHTM lên tới 0,7% thậm
trí 0,72%/tháng. Mức lãi suất cao nhất trong vòng gần hai năm qua, không
dừng lại ở đó các tháng đầu năm 2003 do nhu cầu vốn vay trên thị trường vẫn
cao các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng vẫn tiếp tục cuộc cạnh
tranh huy động vốn thông qua các biện pháp nâng lãi suất huy động. Thực
hiện các hình thức khuyến mại rầm rộ và hấp dẫn. Đã xuất hiện diễn biến bất
thường trên thị trường tiền tệ Việt Nam là lãi suất nội tệ tăng lên quá cao,
trong khi lãi suất ngoại tệ giảm xuống quá thấp.
Với nội dụng điều hành lãi suất cơ bản như trên cho thấy lãi suất cơ bản
được xác định trên cơ sở lãi suất thị trường với mức độ rủi ro thấp, đảm bảo
sự kiểm soát lãi suất của NHNN, phù hợp thực tiễn Việt Nam, đây là một
bước tiến mới, bước đi tiếp theo trong tiến trình tự do hoá lãi suất.
Như vậy, chính sách lãi suất linh hoạt và phù hợp cùng với việc ổn định
tỷ giá VND/USD trong những năm qua không những góp phần quan trọng
trong quá trình ổn định kinh tế vĩ mô mà còn làm tăng tính hấp dẫn của đồng
tiền Việt Nam và lòng tin của dẫn chúng vào hệ thống ngân hàng, giảm dần
tình trạng sử dụng hay cất trữ USD, từng bước đẩy lùi tình trạng “đô la hoá” ở

Việt Nam.
Điều đó chứng tỏ rằng: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển
chưa cao, việc sử dụng lãi suất làm công cụ điều hành chính sách tiền tệ của
NHNN Việt Nam là hoàn toàn cần thiết và đúng đắn.
2.2.2 Công cụ Hạn mức tín dụng:
Đây là công cụ được coi là cần thiết ở Việt Nam trong những năm đầu
của thời kì đổi mới hiệu quả của nó đã thể hiện rõ rệt trong việc chống lạm
phát: Những năm 1990-1991do lạm phát còn ở tỉ lệ cao (67,6% tháng ). Để
khống chế lạm phát, NHNN chủ trương thi hành CSTT “thắt chặt” ngay từ


15
đầu năm để giảm bớt lượng tiền cung ứng. Dựa trên một số chỉ tiêu vĩ mô dự
kiến năm 1992 là: Tăng trưởng kinh tế (4,5%); chỉ số lạm phát (30%/ năm),
NHNN đưa ra hạn mức tín dụng đối với tất cả hệ thống NHTM là 34,5%
(mức tăng so với năm trước) . Bằng nhiều biện pháp kết hợp, năm đó chúng ta
đã đạt được kết quả thực tế rất khả quan: mức tăng trưởng kinh tế tăng gấp 2
lần so với dự kiến (8,65%), mức lạm phát thấp hơn dự kiến rất nhiều (17,6%),
tiền tệ đi dần vào ổn định.
Ở thời kỳ đầu, công cụ hạn mức TD chỉ áp dụng cho 4 NHTMQD( NH
Ngoại thương, NH Công thương, NH Nông nghiệp, NH đầu tư phát triển)
nhưng sau vài năm đổi mới, do quy mô mở rộng tín dụng của các NHTM quá
nhanh, số lượng các NHTM ngày càng nhiều nên NHNN quyết định áp dụng
hạn mức tín dụng cho hầu hết các NHTM. Tính đến cuối năm 1997 có 26
NHTM trong nước phải áp dụng hạn mức tín dụng còn các NH nước ngoài và
NH liên doanh tuy chiếm thị phần tín dụng đáng kể (10-15% thị phần tín dụng
trong nước) nhưng vẫn chưa phải áp dụng hạn mức tín dụng.
Những năm sau đó, đặc biệt là từ 1995 đến 1997, NHNN vẫn tiếp tục
thực hiện chính sách tiền tệ “thắt chặt” để kiểm soát lạm phát từ đó đưa ra rỉ
lệ hạn mức tín dụng ở mức vừa phải cho các NHTM. Song kết quả thực tế cho

thấy hiện tượng phổ biến là hầu hết các NHTM đều có xu hướng vượt qúa chỉ
tiêu hạn mức tín dụng được giao, cụ thể .
Biểu 2: Tình hình thực hiện hạn mức tín dụng (1995-1998).

Năm
Danh mục
1995 1996 1997
Quỹ T D
/1998
KH
giao
Thực
hiện
KH
giao
Thực
hiện
KH
giao
Thực
hiện
KH
giao
Thực
hiện
Tăng so với
năm trước
21% 37,8%

25% 29% 21% 26,4%


4% 4,8%


16

Hiện tượng trên xuất phát từ hai nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, trong giai đoạn nay tốc độ huy động vốn nhàn rỗi bình quân
hàng năm của các NHTM tăng nhanh (khoảng 26% đến 37% năm) vì vậy các
NHTM tất yếu phải thực hiện đầu tư tăng trưởng tín dụng đối với nền kinh tế
vì con đường để đầu tư qua thị trường tiền tệ, thị trường vốn là khó khăn
trong điều kiện nước ta lúc bấy giờ.
Thứ hai, Do diễn biến lãi suất đang có xu hướng giảm trần lãi suất cho
vay trong khi đó để huy động nguồn vốn nhàn rỗi các NHTM phải tăng lãi
suất huy động (do tâm lý người dân không muốn gửi), điều đó làm cho chênh
lệch giữa lãi suất cho vay với lãi suất huy động giao động ở mức 0,15% -
0,25% tháng, thấp hơn so với trước đây 0,3%-0,45% tháng. Với chênh lệch
như vậy để đảm bảo hoạt động kinh doanh đủ bù đắp chi phí hoạt động thì
buộc các NHTM phải tăng dư nợ đối với nền kinh tế.
Hiện tượng trên cũng góp phần giải thích tại sao trong những năm 1995-
1997 mặc dù lạm phát được kiểm chế ở mức thấp (bình quân 6,9% năm)
nhưng nền kinh tế vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao 9,28% năm.
Tuy nhiên, từ năm 1998 đến nay, công cụ hạn mức tín dụng đã mất dần
vai trò của nó trong việc hạn chế sự gia tăng của tổng phương tiện thanh toán
vì lạm phát có xu hướng giảm và thấp dần ; mặt khác nhu cầu vốn của nền
kinh tế ngày càng tăng và cần phải mở rộng tín dụng để thực hiện mục tiêu
tăng trưởng kinh tế. Do đó từ quý II/1998, NHNN đã không áp dụng công cụ
này như một công cụ thường xuyên để điều hành chính sách tiền tệ (mặc dù
có thể coi nó như một giải phóng tình thế khi cần thiết).
Công cụ này sẽ được xoá bỏ hoàn toàn khi thị trường tiền tệ ổn định , thị

trường vốn phát triển và thị trường mở đi vào hoạt động có hiệu quả.
2.2.3 Công cụ Dự trữ bắt buộc


17
Đây là công cụ gián tiếp điều chỉnh mức cung tiễn được sử dụng sớm
nhất ở Việt Nam (từ 1991), theo pháp lệnh Ngân hàng (1990), tỷ lệ DTBB có
thể ở mức từ 10% đến 30% tổng nguồn vốn huy động của các NHTM.
Song trong điều kiện thực tế lúc bấy giờ khi tiềm lực của các NHTM
Việt Nam còn nhỏ bé và lạm phát đã được kiềm chế ở mức đáng kể, nên
NHNN đã quy định tỉ lệ DTBB là 10%; được áp dụng cho các NHTMQD,
NHTM cổ phần ,chi nhánh NH nước ngoài,NH liên doanh và các công ty tài
chính.
Qua quá trình thực hiện ban đầu cho thấy rất ít NHTM dự trữ đủ 10%
nhất là các NHTM cổ phần, do vậy để nâng cao hiệu quả của công cụ này,
trong năm 1994, NHNN đã hai lần điều chỉnh tỉ lệ DTBB; quy định mức
DTBB thống nhất đối với tất cả các NHTM(có phân biệt với các loại tiền gửi
khác nhau : tiền gửi, tiền tiết kiệm không kì hạn: 13%;tiết kiện kì hạn 3,6
tháng, kì phiếu mục đích, trái phiếu: 8%) ; đồng thời đẩy mạnh việc áp dụng
quy chế phạt đối với các TCTD không thực hiện đúng quy chế DTBB.
Năm 1995, NHNN quy định (T10/1995) DTBB chỉ được tính đối với
loại tiền gửi có kì hạn từ 12 tháng trở xuống, thống nhất ở mức 10% được áp
dụng cho tất cả các NHTM( trừ NHTMCP nông thôn, HTX tín dụng, quỹ
TDND tạm thời chưa phải thực hiện). Số lần tính DTBB hàng tháng tăng lên,
lại bỏ dần tín phiếu kho bạc trong cơ cấu tiền gửi DTBB; tiễn gửi DTBB được
hợp nhất với tiền gửi thanh toán của các NHTM vào một tài khoản chung là
tài khoản tiền gửi không kì hạn tại NHNN. Tiền gửi dự trữ vượt được trả lãi
0,1% tháng (Năm 1996). Điều này đã tạo sự linh hoạt hơn cho việc điều chỉnh
dự trữ của các NHTM tại NHNN, góp phần gián tiếp khống chế lãi suất thị
trường và khối lượng tín dụng cung ứng để thực hiện tốt mục tiêu kiềm chế

lạm phát.
Đến T12/97, Quy chế DTBB có sự thay đổi để đảm bảo tính cụ thể, rõ
ràng hơn: Tiền gửi DTBB tại NHNN được tính bình quân trong cả kì duy trì,


18
tỷ lệ DTBB vẫn là 10%, tiền dự trữ vượt được hưởng lãi suất 0,2% tháng
(bằng VND) và 4,86% năm (đối với USD). Đồng thời NHTM nào thiếu tiền
gửi DTBB trong kì duy trì sẽ bị phạt theo mức 200% lãi suất cho vay tái cấp
vốn của NHNN (VND), từ đó khuyến khích các NHTM thực hiện đúng quy
chế DTBB.
Để luật NHNN có hiệu lực (từ 1/10/1998) ,từ cuối 1998 và trong năm
1999, quy chế DTBB có những thay đổi đáng kể: Đối tượng áp dụng được
mở rộng thêm (quỹ TDND, NH hợp tác);số tiền DTBB phải gửi tại NHNN để
thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia thay cho quy định về cơ cấu tiền DTBB
trước đây: 70% gửi tại NHNN và 30% tiền mặt, ngân phiếu còn thời hạn
thanh toán; việc trả lãi tiền DTBB do chính phủ quy định.
Để tạo đà khôi phục, phát triển kinh tế trong năm 1999 tỉ lệ DTBB được
điều chỉnh nhiều lần theo xu hướng giảm nhằm nới lỏng tiền tệ, kích thích đầu
tư, tiêu dùng.
Biểu 3: Tỷ lệ DTBB đối với các TCTD năm 1999
TCTD
Tỉ lệ DTBB (%)
1/1/99

1/3/99

1/6/99

1/7/99


1/10/99

1. NHTMQD, NHTM của đô thị,
chi nhánh NH nước ngoài, NH
liên doanh & Công ty TC
10 7 6 5 5
- NH nông nghiệp và PTNT 10 7 6 5 3
2. NHTMCP nông thôn, NH hợp
tác, Quỹ TDNDTW, khu vực.
0 5 4 1 1
3. TCTD có số dư tiền gửi phải
tính DTBB dưới 500
trđ
quỹ
TDND cơ sở, HTX tín dụng, NH
0 0 0 0 0


19
ph

c v


ng
ư

i ngh
è

o.


Việc giảm tỷ lệ DTBB trên đã đóng góp phần nhất định vào việc mở
rộng tín dụng, giảm chi phí hoạt động và góp phần làm dịu đi những khó khăn
của các NHTM do lãi suất giảm.
Trong năm 2000, NHNN tiếp tục áp dụng tỷ lệ DTBB bằng VND như
năm 1999. Riêng về tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng ngoại tệ để tạo tín hiệu
hạn chế việc các TCTD huy động tiền gửi USD ( qua việc nâng lãi suất huy
động) để gửi ra nước ngoài hưởng chênh lệch lãi suất, khuyến khích các
TCTD cho vay trong nước, ngày 1/10/2000 NHNN đã điều chỉnh tỷ lệ DTBB
đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng là 8% kể từ kỳ duy
trì DTBB tháng 11/2000. Sau đó nhằm tiếp tục thực hiện chủ trương trên
,ngày 1/12/2000 NHNN tiếp tục nâng tỷ lệ DTBB lên 12% áp dụng từ kỳ duy
trì DTBB 12/2000.
Như vậy, công cụ DTBB ngày càng được hoàn thiện và trở thành công
cụ đắc lực của NHNN Việt Nam trong điều hành chính sách tiền tệ.
2.2.4 Công cụ cho vay tái chiết khấu
Ở Việt Nam, cho vay tái chiết khấu đã được sử dụng như là một công cụ
của CSTT ngay từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Tuy vậy, vì chưa hội
đủ những điều kiện nên việc áp dụng nó còn giản đơn làm cho hiệu quả của
nó còn nhiều hạn chế. Mặc dù vậy trong những năm gần đây nó đã trở thành
công cụ đắc lực góp phần thực hiện tốt các mục tiêu của CSTT quốc gia.
Thời kỳ đầu, cho vay chiết khấu được thực hiện qua việc NHNN cho
NHTM vay ngắn hạn căn cứ vào khế ước tín dụng ( có chất lượng ) do
NHTM đem thế chấp tại NHNN, lãi suất tái cấp vốn được xác định dựa theo
lãi suất cho vay (cao nhất ) của các NHTM và được điều chỉnh linh hoạt theo
mục tiêu CSTT quốc gia ở mỗi thời kỳ. Năm 1994 với mục tiêu kiềm chế lạm



20
phát, NHNN hạn chế tới mức thấp nhất mức tái cấp vốn cho các NHTM qua
việc nâng lãi suất tái cấp vốn từ 85% -100% lãi suất cho vay các NHTM,
riêng NH nông nghiệp là 95%. Năm 1995 để đẩy mạnh mục tiêu trên, NHNN
đã ngưng tái cấp vốn cho các NHTM nhằm đẩy mạnh công tác thu hồi nợ và
giảm cho vay tín dụng của các NHTM. Nhờ đó, đến cuối 1995 dư nợ cho vay
chiết khấu của NHNN đã giảm xuống 13% so với 1994. Năm 1996 ,để giải
quyết tình trạng khó khăn trong thanh toán của các NHTM, NH đã thực hiện
việc cho vay ngắn hạn đối với các NHTM trong trường hợp tạm thời thiếu
khả năng thanh toán (qua các phiên thanh toán bù trừ trên từng địa bàn).
Nhưng áp dụng lãĩ suất tái chiết khấu ở mức tối đa. Điều này một mặt bảo
đảm được sự ổn định của hệ thống ngân hàng, mặt khác hạn chế được khả
năng cung ứng vượt qúa về tín dụng của các NHTM đồng thời khuyến khích
việc huy động vốn của các NHTM, cũng hạn chế bớt việc các NHTM vay tiền
của NHNN, vì vậy cuối năm 1996, dư nợ cho vay tái chiết khấu chỉ tăng
3,5% so với 1995.
Trong năm 1997 NHNN đã sử dụng phương thức tái cấp vốn có thế chấp
(bằng chứng từ, tiền gửi ngoại tệ tại NHNN) nhằm bù đắp khó khăn tạm thời
trong thanh toán cho các NHTM. Lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh từ quy
định 100% lãi suất cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế sang quy định
mức lãi suất cụ thể (từ tháng 3-tháng 7năm 1997). Mức lãi suất tái cấp vốn
quy định là 1,1% tháng, từ T8/1997là 0,9% ). Do trong năm 1997 các NHTM
đã tích cực hơn trong việc trả nợ NHNN và khả năng huy động vốn tăng nên
đến cuối 1997, dư nợ tái cấp vốn của NHNN giảm 11,9% so với 1996.
Năm 1998, để thực hiện chính sách tiền tệ “thắt chặt” nhằm hạn chế sự
gia tăng lạm phát do ảnh hưởng cuả cuộc khủng hoảng tài chính khu vực,
NHNN đã tăng lãi suất tái chiết khấu từ 1%

tháng 1,1% tháng (thấp hơn tiền
lãi suất cho vay ngắn hạn là 0,1% tháng.



21
Năm 1999, với mục tiêu khuyến khích tăng trưởng kinh tế, khắc phục
nguy cơ giảm phát NHNN đã 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất cho vay tái cấp
vốn từ mức 1,1% tháng đầu năm xuất 0,5% tháng đồng thời quy chế về
nghiệp vụ chất khấu, tái chiết khấu đã được ban hành để phát triển một bước
hiệu quả công cụ này trong chính sách tiền tệ và tạo khả năng cân đối nguồn
vốn hoạt động cho các ngân hàng. Các giấy tờ có giá ngắn hạnh được chiết
khấu tại NHNN là tín phiếu kho Bạc, trái phiếu NHNN và các giấy tờ có giá
ngắn hạn khác do NHNN quy định ở mỗi thời kỳ. Mức lãi suất tái chiết khấu
được công bố là 0,45% tháng.
Từ đầu năm đến cuối tháng 7/2000, nhằm khuyến khích mở rộng tín
dụng của các TCTD, NHNN đã 2 lần giảm lãi suất tái cấp vốn từ 0,5% tháng
xuống 0,45% tháng (31/3/2000) và xuống 0,4% tháng (31/7/2000). Đồng thời
NHNN cũng giảm lãi suất tái chiết khấu từ 0,45% tháng xuống còn 0,4%
tháng (T3/2000) và xuống 0,35% tháng (T7/2000). Tuy vậy cho đến T9 /2000
để hạn chế các TCTD bù đắp thiếu hụt thanh toán qua hình thức vay tái cấp
vốn, tái chiết khấu từ NHNN và khuyến khích thực hiện bù đắp qua thị trường
mở nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường này, đồng thời tạo tín hiệu cho
các TCTD tăng lãi suất huy động, ngày 2/11/2000 NHNN đã điều chỉnh tăng
lãi suất tái cấp vốn lên 0,5% tháng và tăng lãi suất tái chiết khấu lên 0,45%
tháng.
Như vậy công cụ cho vay chiết khấu đã dần được áp dụng theo đúng bản
chất của nó là tín hiệu cho các NHTM điều chỉnh lãi suất cùng với sự phát
triển của thị trường ở Việt Nam , trở thành một công cụ đắc lực của chính
sách tiền tệ quốc gia
2.2.5 Công cụ Nghiệp vụ thị trường mở
Luật NHNN Việt Nam quy định “NHNN thực hiện nghiệp vụ thị trường
mở thông qua việc mua, bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu



22
NHNN các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị trường tiền tệ để thực
hiện CSTT quốc gia”
Trước khi thị trường mở chính thức được đưa vào vận hành ở Việt Nam,
NHNN đã từng bước tạo lập cơ sở cho nó qua việc tổ chức đấu thầu và phát
hành các loại tín phiêú, đó là:
Tín phiếu kho bạc Nhà nước (KBNN): từ năm 1996 đến hết năm 1998
NHNN đã phối hợp với KBNN tổ chức đấu thầu tín phiếu và trái phiếu kho
bạc. Năm 1996, KBNN đã phát hành gần 100 tỷ đồng tín phiếu qua NHNN,
sau đó chủ yếu là phát hành trái phiếu kho bạc (thời hạn một năm). Tổng
mệnh giá trúng thầu năm 1997 là 2917,5 tỷ VND (37 đợt ); năm 1998 là
4020,7 tỷ VND (46 đợt),năm 1999 là 3011.6 tỉ VND(46 đợt) , năm 2000 là
4441.0 tỉ VND (43 đợt). Các đối tượng trúng thầu chủ yếu là các NHTM
Quốc doanh, các NHTM cổ phần và các Công ty Bảo hiểm. Song nếu theo
quy định của luật NHNN thì các trái phiếu này không thể sử dụng làm công
cho thị trường mở được.
Tín phiếu NHNN: Do NHNN Việt Nam phát hành từ năm 1995, tính đến
thời điểm tháng 7/1999 NHNN đã tổ chức được 6 đợt phát hành tín phiếu
NHNN. Các đợt này đều được tổ chức vào các thời điểm khi mà tổng phương
tiện thanh toán và lạm phát có xu hướng gia tăng nhằm rút bớt tiền trong lưu
thông. Tổng mệnh giá đã phát hành của cả 6 đợt là 3.400 tỉ VND; phần lớn
các tín phiếu này đều có thời hạn 3 tháng.
Cho đến ngày 12/7/2000, NHNN chính thức khai trương đưa nghiệp vụ
thị trường mở vào hoạt động theo phương hướng sử dụng nó như là một công
cụ điều tiết tiền tệ linh hoạt và có hiệu quả của NHNN.
Trong năm 2000, NHNN đã thực hiện được 17 phiên giao dịch thị
trường mở, trong đó có 14 phiên mua được 1353,50 tỷ đồng đạt 71,24% khối
lượng chào mua với lãi suất trong khoảng 4,20%- 5,58% năm và 3 phiên bán

được 550 tỷ đồng đạt 100% khối lượng chào bán với lãi suất trong khoảng


23
4,0%- 4,6% năm. Đến 31/12/2000 ; NHNN đã bơm 405 tỷ đồng qua thị
trường mở sau khi loại trừ các khoản mua, bán đã đến hạn thanh toán.
Từ 1/1/2001- 7/2/ 2001, NHNN đã thực hiện được 3 phiên giao dịch mua
được 160 tỉ đồng chỉ đạt 50% khối lượng chào mua với mức lãi suất 3,5-4,6
%năm. Đã có 18 tổ chức tín dụng đăng kí là thành viên của thị trường (tuy
vậy mỗi phiên giao dịch chỉ có thường xuyên từ 1 đến 3 thành viên tham
gia)Phương thức giao dịch chủ yếu là Mua- Bán có kì hạn (15 ngày -4tháng )
hoặc mua hẳn- bán hẳn.
Như vậy,ở Việt Nam thị trường mở đã tìm được con đường đi riêng cho
mình và tính ưu việt của nó đã được phát huy tác dụng ở một mức độ nhất
định (đã giúp cho các NHTM được chủ động hơn trong việc điều chỉnh lượng
vốn khả dụng của mình, qua đó NHNN phần nào đã thực hiện được mục tiêu
CSTT quốc gia).Tuy vậy ,đây mới chỉ là giai đoạn khởi đầu và mang tính chất
thử nghiệm nên đòi hỏi nó phải được tiếp tục đổi mới và hoàn thiện.
2.3 Đánh giá quá trình thực hiện các công cụ của chính sách tiền tệ
những năm qua.
2.3.1 Những thành tựu trong việc ổn định kinh tế vĩ mô.
*Góp phần ổn định giá trị đồng bản tệ: Có thể nói đây là thành tựu
đáng được ghi nhận ở Việt Nam, bằng các công cụ điều tiết, NHNN đã kiểm
soát chặt chẽ khối lượng tiền cung ứng hàng năm và đó được xem như một
bàn tay hữu hiệu đẩy lùi và kiềm chế làm phát, ổn định sức mua của đồng tiền
Việt Nam, làm cho giá cả ổn định, đời sống người dân không ngừng được cải
thiện.
Biểu 4: Mối quan hệ giữa tổng phương tiện thanh toán với tỷ lệ lạm phát
Năm


Chỉ tiêu
1996 1997 1998 1999 2000
Tốc độ tăng của
22,7 25,4 23,9 39,28 38


24
M2(%)

Tỷ lệ lạm phát (%) 4,5 3,6 9,2 0,9 6
Về sức mua đối ngoại của đồng tiền, cơ chế điều hành tỉ gía từng bước
được điều chỉnh phối hợp cùng với các công cụ của CSTT đã dần phù hợp với
thông lệ quốc tế, góp phần đẩy mạnh các mối quan hệ kinh tế đối ngoại của
Việt Nam, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu.
Biểu 5: Tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu của Việt Nam
Năm

Chỉ tiêu
1996 1997 1998 1999
- Xuất khẩu (%) 38 24 4 23,3
=11.540 tr USD
- Nhập khẩu (%) 54 -7 11 _

* Góp phần tăng trưởng kinh tế:Việc ổn định giá trị VND đã tạo lòng
tin của nhân dân vào đồng bản tệ, tạo môi trường đầu tư lành mạnh, thu hút
được nguồn vốn đáng kể từ trong và ngoài nước. Đặc biệt việc điều chỉnh các
công cụ CSTT: lãi suất, tỉ lệ dự trữ bắt buộc của NHNN ở các giai đoạn cụ
thể đã có vai trò quan trọng ảnh hưởng tới việc huy động và phân bổ nguồn
vốn có hiệu quả trong nền kinh tế của các TCTD. Cũng từ đó mà góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế liên tục qua các năm.

Biểu 6:Tình hình tăng trưởng kinh tế (GDP) của Việt Nam
Năm

Chỉ tiêu
96 97 98 99

2000
6 DP (tỉ VND) giá so
sánh 1981-1994
213.833 231.264

244.676

256.269 273.439


25
Tăng trưởng 6DP(%) 9,3 8,8 5,8 4,8 6,7

Từ các kết quả trên cho thấy, việc sử dụng các công cụ điều tiết của
CSTT ở Việt Nam đã góp phần đạt được hai mục đích thường mâu thuẫn
nhau đó là: Vừa đẩy lùi lạm phát vừa tăng trưởng kinh tế. Có được kết qủa
này còn phải kể đến vai trò của nhiều CSKT vĩ mô khác nữa và đặc thù của
nền kinh tế Việt Nam đó là chúng ta chưa đạt được mức năng suất biên của
sản lượng tiềm năng trong nền kinh tế.
* Ngoài ra, việc sử dụng các công cụ của CSTT cũng góp phần gián tiếp
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các thành phần kinh tế, tạo thêm công
ăn việc làm. Năm 1999 cả nước giải quyết được việc làm cho 1,2 triệu lao
động và thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp
nông thôn (năm 2000,tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 11%).


×