Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận cao cấp lý luận chính trị, sự vận dụng của đảng cộng sản việt nam đối với học thuyết hình thái kinh tế xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.12 KB, 20 trang )

1

MỞ ĐẦU
Học thuyết “Hình thái kinh tế - xã hội” là lý luận cơ bản và giữ một vị trí
hết sức quan trọng trong Chủ nghĩa duy vật lịch sử do C.Mác xây dựng nên.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã được thừa nhận là lý luận khoa học, là
phương pháp lý luận cơ bản để nghiên cứu tất cả các mặt của xã hội và là nền
tảng lý luận của Chủ nghĩa xã hội khoa học. Nhờ có lý luận hình thái kinh tế xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử xã hội học C.Mác đã chỉ rõ nguồn gốc, động
lực bên trong, nội tại của sự phát triển xã hội, chỉ rõ được bản chất của từng
chế độ xã hội. Như vậy, qua học thuyết hình thái kinh tế - xã hội giúp chúng ta
nghiên cứu một cách đúng đắn và khoa học sự vận hành của xã hội trong mỗi
giai đoạn lịch sử nhất định.
Nhưng ngày nay, đứng trước những sự kiện lớn như sự sụp đổ của các
nước Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, đặc biệt là Liên Xô – Đã từng được coi là
“Ngọn cờ đầu” của Chủ nghĩa xã hội (CNXH). Theo đó, học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội đã bị phê phán từ rất nhiều phía; sự phê phán khơng chỉ từ phía
đối lập của Chủ nghĩa Mác - Lênin mà còn cả một số người đã từng đi theo
con đường của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Nói chung họ cho rằng: Học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội là lỗi thời, lạc hậu không thể áp dụng vào điều kiện
hiện nay mà phải thay thế bằng một lý luận khác.
Trước tình hình đó buộc chúng ta phải làm rõ thực chất của học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội và giá trị về mặt khoa học, tính thời đại của nó là rất
cần thiết. Về thực tiễn nước ta đang trong quá trình xây dựng đất nước theo
định hướng Xã hội chủ nghĩa. Do vậy, việc nghiên cứu và vận dụng học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội là cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp đổi mới và
xây dựng đất nước ta hiện nay.
Vì vậy tơi chọn đề tài “Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam đối
với Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội” để viết bài tiểu luận cho môn học
các chuyên đề bổ trợ.



2

NỘI DUNG
Chương 1
NỘI DUNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ ra một xã hội cụ thể tồn tại trong một giai đoạn phát triển lịch sử
nhất định, với một phương thức sản xuất đặc trưng của nó, tức là với một kiểu
đặc trưng của quan hệ sản xuất phù hợp với một trình độ phát triển nhất định
của một lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây
dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Xã hội không phải là tổng số những hiện tượng, sự kiện rời rạc những
cá nhân riêng lẻ. Xã hội là một chỉnh thể tồn vẹn có cơ cấu phức tạp. Trong
đó có những mặt cơ bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng. Mỗi mặt có vai trị nhất định và tác động đến mặt khác tạo
nên sự vận động của cơ thể xã hội. Chính tính tồn vẹn của nó được phản ánh
bằng khái niệm hình thái kinh tế - xã hội.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất kỹ thuật của mỗi hình thái kinh
tế - xã hội. Sự hình thành và phát triển của mỗi hình thái kinh tế - xã hội liên
tục trong sự phát triển của xã hội loài người.
Quan hệ sản xuất - quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất
- là những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mối quan hệ xã hội
khác, khơng có mối quan hệ đó thì khơng thành xã hội và qui luật xã hội. Mỗi
hình thái kinh tế - xã hội lại có một kiểu quan hệ sản xuất của nó tương ứng
với trình độ nhất định của lực lượng sản xuất.
Những quan hệ sản xuất là bộ xương của cơ thể xã hội hợp thành cơ sở
hạ tầng. Trên cơ sở những quan hệ sản xuất đó hình thành nên những quan
điểm về chính trị, pháp lý, đạo đức, triết học v.v… và những thiết chế tương



3
ứng hợp thành kiến trúc thượng tầng xã hội mà chức năng xã hội của nó là bảo
vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
Tóm lại, hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù chỉ một kiểu hệ thống
xã hội ở một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, có tính xác định về chất, là
sự thống nhất giữa các yếu tố, một cơ cấu hồn chỉnh ln ln vận động
thơng qua sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Trong quá trình tiến triển
của các hình thái kinh tế - xã hội, hình thái mới khơng xố bỏ mọi yếu tố cấu
thành hình thái cũ mà trong khi phá vỡ cấu trúc của hệ thống cũ lại bảo tồn, kế
thừa và đổi mới những yếu tố của nó, vừa đảm bảo tính liên tục, vừa tạo ra
bước phát triển; do đó, tạo ra tình trạng chồng chất, đan xen những yếu tố của
nhiều hình thái kinh tế - xã hội khác nhau của nhiều thời kỳ lịch sử.
1.2. Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là quá trình
lịch sử tự nhiên
Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội
nối tiếp nhau. Trên cơ sở phát hiện ra các qui luật vận động phát triển khách
quan của xã hội. C.Mác đã đi đến kết luận: “Sự phát triển của những hình thái
kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”.
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác đã chỉ rõ: xã hội không
phải là sự kết hợp ngẫu nhiên các mặt, các yếu tố với nhau theo ý muốn chủ
quan, mà là một hệ thống. Trong đó, các mặt, các yếu tố thống nhất với nhau,
tác động qua lại lẫn nhau và không ngừng tác động qua lại với tự nhiên.
Trong hệ thống các quan hệ xã hội hết sức phức tạp đó, C.Mác đã chỉ ra
và khẳng định quan hệ sản xuất là quan hệ khởi nguyên, cơ bản của xã hội,
được hình thành khách quan trong quá trình sản xuất và là cơ sở của các quan
hệ xã hội khác, quy định bản chất của mỗi chế độ xã hội trong lịch sử nhân
loại, là tiêu chuẩn khách quan để phân chia xã hội này với xã hội khác.
Việc xem xét quan hệ sản xuất lại không thể tách rời lực lượng sản xuất.

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt thống nhất biện chứng, tạo


4
thành phương thức sản xuất mà trong đó, lực lượng sản xuất quyết định quan
hệ sản xuất, quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất và tác động tích cực trở lại lực lượng sản xuất. Lực lượng sản
xuất chính là cơ sở vật chất của hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi hình thái kinh
tế - xã hội có một lực lượng sản xuất nhất định. Từ đó, Ơng đi đến kết luận về
cấu trúc xã hội: “Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế
của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực, trên đó xây dựng lên một kiến trúc
thượng tầng pháp lý, chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định
tương ứng với cơ sở thực tại đó. Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết
định các q trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung”.
Lực lượng sản xuất thay đổi là nguyên nhân sâu xa của mọi cải biến xã
hội. Sự phát triển khách quan của lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến việc xã
hội phải xoá bỏ bằng cách này hay cách khác quan hệ sản xuất cũ và thay nó
bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với sự phát triển đó của lực
lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Việc xố
bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa
là sự duyệt vong của cả một phương thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời của
một phương thức sản xuất mới. Và do vậy có thể nói, khi lực lượng sản xuất
thay đổi sẽ dẫn đến sự thay đổi của một hình thái kinh tế - xã hội.
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng
phù hợp với cơ sở hạ tầng; song kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương
đối và có tác động tích cực trở lại đến cơ sở hạ tầng, đến kinh tế. Khi kiến trúc
thượng tầng khơng cịn phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế thì tất yếu
kinh tế sẽ tự mở đường đi, nó địi hỏi phải thay đổi kiến trúc thượng tầng cho
phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế.
Các mặt của hình thái kinh tế - xã hội không ngừng tác động qua lại lẫn

nhau, làm cho hình thái kinh tế - xã hội không ngừng vận động, phát triển.
Dựa trên phân tích một cách khoa học C.Mác đã rút ra kết luận: “Sự phát triển
của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”. Kết


5
luận đó của C.Mác cho thấy, sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội
diễn ra theo các qui luật khách quan, chứ không phải theo ý muốn chủ quan
của con người. V.I. Lênin đã viết: “Mác coi sự vận động xã hội là một quá
trình lịch sử tự nhiên chịu sự chi phối của những qui luật khơng những khơng
phụ thuộc vào ý chí, ý thức và ý định của con người, mà trái lại, còn quyết
định ý chí, ý thức và ý định của con người”.
Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội bắt nguồn từ cơ sở sâu xa
của nó là sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định sẽ
làm cho quan hệ sản xuất mà trước đó là hình thức phát triển trở nên lỗi thời,
kìm hãm sự phát triển của nó. Khi đó, lực lượng sản xuất địi hỏi phải thay thế
quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với sự phát triển của
nó. Quan hệ sản xuất thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của kiến trúc thượng
tầng. Bằng cách đó các hình thái kinh tế - xã hội vận động, phát triển từ thấp
đến cao, từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác cao
hơn. Và theo V.I. Lênin, “chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những
quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của lực
lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự
phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”.
Như vậy, quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những
diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong
những điều kiện nhất định, một hoặc một vài hình thái KT-XH nhất định.
1.3. Ý nghĩa của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
Theo V.I.Lênin, “tính qui luật chung của sự phát triển trong lịch sử tồn
thế giới đã khơng loại trừ mà trái lại, còn bao hàm một số giai đoạn phát triển

mang những đặc điểm về hình thức hoặc trình tự của sự phát triển đó”.
Khi nghiên cứu lý luận hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác, một số
người đã nhầm tưởng lý luận đó chỉ ra rằng, xã hội lồi người nhất thiết lần
lượt trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội: nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến, tư
bản và cộng sản chủ nghĩa. Thực ra, trong lịch sử phát triển của nhân loại, một


6
số nước đã lần lượt trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội đó như Italia, Pháp,
Tây Ban Nha, ...; một số nước khác lại có thể bỏ qua hình thái kinh tế - xã hội
này hay hình thái kinh tế - xã hội khác, như Đức, Ba Lan, Nga, … đã không
qua chế độ chiếm hữu nô lệ. Ngay cùng một hình thái kinh tế - xã hội thì ở các
nước khác nhau, hình thức biểu hiện cũng khác nhau.
Theo quan điểm biện chứng, tất các các con đường phát triển cụ thể
của các nước đều là con đường riêng mà trong đó, bao hàm những qui luật
chung, những q trình có tính phổ biến của sự phát triển xã hội. Ngược lại,
những qui luật phổ biến của sự phát triển xã hội bao giờ cũng đóng vai trò chi
phối trong các con đường phát triển riêng của mỗi quốc gia, dân tộc. Con
đường phát triển riêng là biểu hiện cụ thể của các qui luật phổ biến trong điều
kiện lịch sử - cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc.
Như vậy, có thể nói, lý luận hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác đã
vạch rõ tiêu chuẩn khách quan để phân chia các chế độ xã hội trong lịch sử,
cũng như mối quan hệ lẫn nhau giữa các mặt trong đời sống xã hội, vạch rõ
các qui luật vận động, phát triển khách quan của các hình thái kinh tế - xã
hội, qui luật thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã
hội khác cao hơn. Nó là lý luận khoa học, là phương pháp luận tổng quát để
nghiên cứu một cách cụ thể đời sống xã hội. Trong thời đại ngày nay, lý luận
đó vẫn giữ nguyên giá trị. Tuy nhiên, việc nghiên cứu đời sống xã hội phải
luôn được bổ sung bằng phương pháp tiếp cận khoa học khác. Đúng như
V.I.Lênin đã khẳng định: “Nếu thuyết biến chủng đã khơng hề có tham vọng

giải thích “tồn bộ” lịch sử hình thành các lồi mà chỉ đặt những phương pháp
giải thích ấy trên một cơ sở khoa học thơi thì theo Mác: chủ nghĩa duy vật lịch
sử cũng thế, nó khơng bao giờ có tham vọng giải thích tất cả, mà chỉ có ý
muốn vạch ra một phương pháp “khoa học duy nhất” để giải thích lịch sử.
Trên cơ sở lý luận hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác đã nghiên cứu một
xã hội hiện thực là xã hội tư bản, vạch ra các qui luật phát sinh, phát triển và
diệt vong tất yếu của nó, đồng thời dự báo về sự ra đời tất yếu của một hình


7
thái kinh tế - xã hội cao hơn - hình thái cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu
là chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin đã kế thừa và phát triển quan điểm của C.Mác
trong điều kiện mới, trong đó đặc biệt chú ý tới con đường tiến lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản ở các nước lạc hậu.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, xã hội tư bản ra đời thay thế
xã hội phong kiến là một bước tiến bộ, cách mạng trong lịch sử phát triển nhân
loại. Nó đã “cách mạng hố những quan hệ sản xuất” và do đó, đã “cách mạng
hố tồn bộ những quan hệ xã hội”, “đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều
hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”.
Lực lượng sản xuất mà chủ nghĩa tư bản tạo ra chính là nền đại cơng nghiệp
và gắn liền với nó là giai cấp vơ sản. Đó là lực lượng sản xuất có tính xã hội.
Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì nền đại cơng nghiệp và giai cấp vô sản
càng phát triển. Sự ra đời của nền đại công nghiệp đã quyết định sự thắng lợi
của chủ nghĩa tư bản đối với phong kiến; đến lượt nó, sự phát triển của nền đại
công nghiệp lại mâu thuẫn với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
C.Mác đã phát hiện ra mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa
tính chất xã hội của sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Mâu thuẫn đó là cơ sở sâu xa của các mâu thuẫn khác và chi phối sự vận động,
phát triển của xã hội tư bản. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì mâu thuẫn đó
càng tăng lên và địi hỏi phải thủ tiêu nó. “Bản thân những lực lượng sản xuất,

- Ph. Ăngghen khẳng định, - với một sức mạnh ngày càng tăng, cũng mong
muốn đạt tới chỗ thủ tiêu mâu thuẫn ấy, đến chỗ tự giải thốt khỏi cái tính chất
tư bản của chúng, đến chỗ thực tế nhận thức tính chất của chúng là những lực
lượng sản xuất xã hội”. Điều đó có nghĩa là, phải xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa, xác lập chế độ chiếm hữu có tính xã hội – chế độ cơng
hữu và do đó, một xã hội mới ra đời thay thế chủ nghĩa tư bản - đó là chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Giá trị có ý nghĩa lớn nhất của lý luận hình thái kinh tế - xã hội là sự
diệt vong của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là tất yếu.


8
Qua lý luận hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác và Ăngghen đã dự đoán về sự
phát triển của xã hội loài người trong tương lai tất yếu phải tiến đến hình thái
kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa mà chủ nghĩa xã hội là giai đoạn thấp của
hình thái ấy. Với sự ra đời của chủ nghĩa xã hội, tiến bộ xã hội được thực hiện
theo nguyên tắc thống nhất về căn bản lợi ích xã hội và cá nhân. Cơ sở kinh tế
của sự thống nhất đó là chế độ cơng hữu về tư liệu sản xuất. Sự thay thế chế
độ sở hữu tư nhân bằng chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa là một q trình
thống nhất giữa tiến hố và cách mạng xã hội mà bản chất của cách mạng xã
hội là giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, thực
hiện sự biến đổi về chất căn bản của xã hội, đưa đến hình thái kinh tế - xã hội
cao hơn, trải qua những bước trung gian, giai đoạn quá độ. Qua kinh nghiệm
thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Lênin đã nhấn mạnh rằng:
“Các nước kém phát triển càng phải trải qua nhiều nấc thang trung gian, quá
độ, … Vì chúng ta chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp nền tiểu sản xuất lên
chủ nghĩa xã hội. Do vậy trong một chừng mực nào đó, chủ nghĩa tư bản là
khơng thể tránh khỏi, chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản làm phương
tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên”.
Mác khẳng định, sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một

q trình lịch sử tự nhiên, song khơng phải quốc gia, dân tộc nào cũng nhất
thiết phải trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội đã có trong lịch sử. Do
những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định, một quốc gia, dân tộc nào
đó có thể bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nào đó. C.Mác cịn lưu ý rằng,
một xã hội ngay cả khi đã phát hiện được qui luật tự nhiên trong sự vận động
của nó, cũng không thể nào nhảy qua các giai đoạn phát triển tự nhiên hay
dùng sắc lệnh để xoá bỏ chúng, nhưng chúng có thể được rút ngắn và được
làm dịu bớt “cơn đau đẻ”. Ăngghen đã khẳng định “con đường phát triển rút
ngắn như vậy không chỉ đúng với nước Nga, mà với tất cả các nước đang ở
trong giai đoạn phát triển tiền tư bản chủ nghĩa”. V.I.Lênin đã đi đến kết luận,
con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội có thể có những hình thức khác nhau,


9
điều đó tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Theo Người,
hình thức quá độ trực tiếp là con đường phát triển tuần tự từ Chủ nghĩa tư bản
lên Chủ nghĩa xã hội; cịn hình thức quá độ gián tiếp là con đường phát triển
rút ngắn, phát triển bỏ qua Chế độ tư bản chủ nghĩa - con đường từ tiền tư bản
chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, dù là phát triển tuần tự hay phát
triển rút ngắn thì cũng đều là sự phát triển liên tục của lực lượng sản xuất,
nghĩa là không thể bỏ qua được sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong thời đại ngày nay, lý luận hình thái kinh tế - xã hội vẫn còn giữ
nguyên giá trị. C.Mác đã tiếp cận lịch sử từ điểm chọn lực lượng sản xuất với
trình độ sản xuất cơng nghiệp tiến bộ nhất thời bấy giờ để phát triển hình thái
kinh tế - xã hội. Việc tiếp cận lịch sử theo 3 nền văn minh: nông nghiệp, công
nghiệp hay tin học hiện nay về thực chất khơng có gì sáng tạo hơn. Mặc dù
trình độ của lực lượng sản xuất ngày nay được bổ sung thêm lực lượng sản
xuất tin học hố, vai trị của tri thức, trí tuệ được đề cao, chúng ta không thể
bỏ qua vấn đề bản chất về chế độ chính sách và cách mạng xã hội tức là hình
thái kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, việc nghiên cứu đời sống xã hội phải được bổ

sung phát triển bằng thực tiễn lịch sử và phương pháp tiếp cận khoa học khác.
Khi vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội của Mác vào thực tiễn cần lưu
ý: Mọi sự phát triển rút ngắn đều phải nhằm mục đích cuối cùng là tạo ra sự
phát triển vượt bậc, thậm chí là nhảy vọt của lực lượng sản xuất. Và, do vậy,
về thực chất, phát triển rút ngắn chỉ có thể là rút ngắn các giai đoạn hay bước
đi trong tiến trình phát triển liên tục của lực lượng sản xuất.
Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản không phải là ý
muốn chủ quan của ai đó, mà là tất yếu, khách quan trên cơ sở của những tiền
đề vật chất do chủ nghĩa tư bản tạo ra, và là kết quả của việc giải quyết mâu
thuẫn vốn có trong lịng xã hội tư bản. Do đó, nó phải kế thừa, phát triển các
thành tựu văn minh mà nhân loại đã đạt được trong lịng xã hội tư bản; phải
xố bỏ tính chất tư bản của nó, giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột,
mang lại quyền tự do, bình đẳng và các giá trị đích thực của con người.


10
Chương 2
VẬN DỤNG HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ- XÃ HỘI VÀO SỰ
NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
2.1. Lựa chọn con đường tiến lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua Chế độ
Tư bản chủ nghĩa
Việc vận dụng lý luận hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin
vào việc đề ra chiến lược cho cách mạng việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đường lối cách mạng do chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta nêu ra là sự vận
dụng sáng tạo hình thái kinh tế - xã hội vào điều kiện Việt Nam. Đảng ta đã
khẳng định rằng sau khi Việt Nam tiến hành công việc cách mạng dân chủ
nhân dân sẽ tiến lên làm cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta, lịch sử đã đặt vấn đề lựa chọn con đường phát triển bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa từ những năm 20 của thế kỷ XX, khi chủ nghĩa yêu
nước truyền thống Việt Nam bắt gặp con đường Cách mạng tháng Mười Nga,

hồ nhập xu hướng tiến hố chung của nhân loại: quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Qua thực tiễn đấu tranh cách mạng và nhất là
từ khi tiếp cận bản Sơ thảo luận cương của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và
thuộc địa, Hồ Chí Minh đã đi đến kết luận: Muốn cứu nước, giải phóng dân
tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vơ sản; rằng chỉ có
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức và những người nô lệ trên thế giới khỏi ách nô lệ.
Cương lĩnh đầu tiên (1930) của Đảng ta cũng đã khẳng định: sau khi
hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, nước ta sẽ tiến lên CNXH.
Đó là sự lựa chọn dứt khốt và đúng đắn của Đảng, đáp ứng nguyện vọng thiết
tha ngàn đời của dân tộc, phản ánh đúng xu thế của thời đại, phù hợp với quan
điểm cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin. Sự lựa chọn này
chẳng những là sự khẳng định dứt khoát mục tiêu lý tưởng của những người
cộng sản, khẳng định phương hướng phát triển của đất nước, mà còn là cả vấn
đề trân trọng quá khứ, thừa nhận công lao của những thế hệ ông cha đi trước.


11
Khi miền Bắc đã được giải phóng nhưng miền Nam cịn tiếp tục chiến
đấu vì độc lập của Tổ quốc, tình hình đó đặt ra câu hỏi: Miền Bắc có nên bước
ngay vào thời kỳ quá độ để xây dựng chủ nghĩa xã hội hay không, khi mục
tiêu độc lập dân tộc chưa được giải quyết xong ở miền Nam ? Đảng ta khẳng
định phải đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ cách mạng: Tiếp tục cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và tiến hành xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc. Sự lựa chọn này đã được thực tiễn xác nhận là hoàn toàn đúng đắn.
Khơng có sự hậu thuẫn của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, cách mạng miền
Nam sẽ khơng có những đảm bảo vật chất và tinh thần cần thiết cho thắng lợi.
Khi miền Nam đã được giải phóng, đất nước thống nhất, một vấn đề
cũng được đặt ra là miền Nam sẽ cùng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội hay
tạm thời dừng lại một thời gian để phục hồi sau chiến tranh ? Có thể nói, sự

lựa chọn này là một thử thách không kém phần phức tạp. Đảng quyết định cả
nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Quyết định này đã được thực tiễn xác nhận
hoàn toàn đúng đắn.
Những năm 80, kinh tế xã hội nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng trầm
trọng, chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước ở Đông Âu đang chao đảo, chủ
nghĩa xã hội khi ấy được xây dựng theo mơ hình kế hoạch hố tập trung. Mơ
hình đó đã phát huy vai trị tích cực trong một giai đoạn lịch sử nhất định,
nhưng đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX đã rơi vào khủng hoảng nghiêm
trọng, dẫn đến chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xơ và các nước Đơng Âu sụp
đổ. Từ đó, có quan điểm khẳng định chủ nghĩa tư bản là vĩnh viễn và phủ nhận
CNXH. Nhưng cũng chính vào lúc ấy, Đảng ta đã quyết định đường lối đổi
mới, chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng
XHCN, hội nhập và mở cửa với bên ngoài. Một lần nữa sự khẳng định của
Đảng ta về con đường đi lên CNXH đã được thực tiễn xác nhận là đúng đắn.
Hiện nay, khi CNXH bị sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, trong khi chủ
nghĩa tư bản vẫn tiếp tục phát triển và đạt được nhiều thành tựu trong kinh tế,


12
khoa học và công nghệ, … đã xuất hiện những quan điểm phủ nhận chủ nghĩa
xã hội, lý tưởng hoá chủ nghĩa tư bản. Trong số đó, ngồi những thế lực thù
địch với chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội, cịn có một số người do sai lầm về
nhận thức, về phương pháp tiếp cận nên đã đồng nhất chủ nghĩa xã hội với mơ
hình chủ nghĩa xã hội tập trung quan liêu, đồng nhất với những thành tựu mà
nhân loại đã đạt được trong thời đại lịch sử hiện nay với chủ nghĩa tư bản.
Thực ra, CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã được xác
lập trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt và nó đã đóng vai trị quan trọng
trong điều kiện lịch sử đó. Khi điều kiện lịch sử thay đổi, mơ hình đó đã
khơng cịn phù hợp nữa, nhưng lại khơng sớm phát hiện để đổi mới, khiến các

mâu thuẫn kinh tế - xã hội càng trở nên sâu sắc, nên đã dẫn đến khủng hoảng
và sụp đổ. Đây là sự sụp đổ của một mơ hình cụ thể, chứ khơng phải là sự sụp
đổ của CNXH với tính cách là giai đoạn thấp của hình thái cộng sản chủ
nghĩa. Việc xây dựng một hình thái kinh tế - xã hội mới là cơng việc hết sức
khó khăn. Những vấp váp, thậm chí đỗ vở tạm thời là điều khó tránh khỏi.
Những đổ vỡ đó khơng phải là luận cứ để bác bỏ một xu hướng phát triển tất
yếu của xã hội.
Những thành tựu đạt được ở các nước tư bản trong thời gian qua là
thành tựu chung của văn minh nhân loại; nó khơng hề chứng minh chủ nghĩa
tư bản là vĩnh viễn. Chính những thành tựu đó lại trở thành đối lập với chủ
nghĩa tư bản, thành những tiền đề vật chất cho sự ra đời chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản. Nếu như cuộc cách mạng công nghiệp ở các nước Tây Âu thế
kỷ XVIII - XIX đã tạo ra nền tảng vật chất cho chủ nghĩa tư bản chiến thắng
chế độ phong kiến, thì ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang
tạo ra những tiền đề vật chất cần thiết để thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Dựa trên cơ sở phân tích xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể ở
nước ta, Đảng ta kiên định con đường lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu: “Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Tại Đại hội Đại biểu


13
toàn quốc lần thứ IX, khi đưa ra nhận định Chủ nghĩa tư bản hiện đang nắm
ưu thế về vốn, khoa học và cơng nghệ, thị trường, song nó khơng thể khắc
phục nổi những mâu thuẫn vốn có của xã hội tư bản, đặc biệt là mâu thuẫn
giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, mâu thuẫn giữa các
nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển; cùng với đó là cuộc đấu
tranh để tự lựa chọn và quyết định con đường phát triển của các quốc gia độc
lập, và hơn nữa, “Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công

và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện
và khả năng tạo ra bước phát triển mới” và “theo qui luật tiến hoá của lịch sử,
loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”, Đảng ta đã khẳng định:
“Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa,
đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại”. Rằng, “xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực
là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ
lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính
chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu
tranh giữa các mới và cái cũ”. Việc Đảng ta luôn luôn kiên định con đường
tiến lên CNXH là phù hợp với xu thế thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta.
“Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp
thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.


14
Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về
chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp,
cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đương, nhiều
hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”.
Có thể nói, những quyết sách của Đảng ta ở thời kỳ này thể hiển sự

năng động về tư duy lý luận gắn liền với sự mẫn cảm về thực tiễn cùng bản
lĩnh chính trị vững vàng. Đó là sự khẳng định tính tất yếu của sự đổi mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa: đổi mới để phát triển, để thốt khỏi tình trạng
khủng hoảng, để vượt qua những kìm hãm của mơ hình cũ mơ hình hành
chính bao cấp, để giải phóng và khai thác mọi tiềm năng phát triển của xã hội
nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Đối mới không phải là từ bỏ CNXH, mà là khẳng định tính qui luật của con
đường phát triển đó làm cho cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội công bằng
văn minh, đúng với qui luật khách quan hơn phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện
thực tế của đất nước với xu thế, đặc điểm của thế giới hiện đại.
Như vậy, đi lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan, và nó được thể
hiện trong cơng cuộc đổi mới của Đảng ta, đổi mới để xác lập một sự ổn định
mới nhằm làm cho đất nước đạt tới sự phát triển bền vững, xây dựng một xã
hội cơng bằng, dân chủ, văn minh mà trong đó ai cũng được mưu cầu hạnh
phúc, ai cũng được cơm no, áo ấm, ai cũng được học hành và ngày càng phát
triển toàn diện như Bác Hồ từng mong ước.
2.2. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN
Từ khi cả nước thống nhất bước vào chủ nghĩa xã hội cho đến trước đại
hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam (1975-1986), chúng ta không những
không phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội cho phù hợp với sự biến đổi của
thực tiễn mà còn mắc sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định mục tiêu và
biện pháp xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội đặc biệt là


15
chính sách quản lý kinh tế do xuất phát từ nhận thức ấu trĩ và ảo tưởng về con
đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, chúng ta có ngay chủ nghĩa xã hội đích thực: thắng đế quốc, thực
dân được thì thắng nghèo nàn, lạc hậu cũng chỉ là vấn đề thời gian, khơng phải

suy nghĩ, khơng hề khó khăn; rằng chúng ta có thể dễ dàng tiến lên Chủ nghĩa
xã hội bỏ qua Tư bản chủ nghĩa. Theo văn kiện đại hội Đảng tồn quốc lần thứ
VI thì ngun nhân sai lầm chủ yếu là chưa nắm bắt được thực tế khách quan,
dẫn đến không đi đúng qui luật. Tư duy của Đảng ta lúc này cho rằng kinh tế
thị trường là đồng nhất với chủ nghĩa tư bản, cịn kinh tế kế hoạch hố tập
trung được đồng nhất với chủ nghĩa xã hội. Và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa
xã hội trên thế giới mấy thập niên gần đây đã chứng minh tư duy đó khơng
cịn phù hợp với thực tế.
Đảng ta nhận định những khuyết điểm sai lầm đó khơng thuộc về bản
chất của Chủ nghĩa xã hội; khơng vì lý do sai lầm trong một số chủ trương
thuộc về chỉ đạo thực hiện hoặc sự đỗ vỡ của một mơ hình chủ nghĩa xã hội
hiện thực nào đó mà phủ nhận Chủ nghĩa xã hội. Thực tế đó địi hỏi Đảng ta
phải nhận thức lại chủ nghĩa xã hội, tiến hành đổi mới một cách toàn diện, sâu
sắc cả về lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa xã hội trong đó nổi bật nhất là đổi
mới về kinh tế, tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI Đảng ta chủ trương
chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Đến đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX Đảng ta một lần nữa khẳng định mơ hình tổng qt con
đường q độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “Nền kinh tế thị trường, định
hướng Xã hội chủ nghĩa”.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta có các đặc điểm nổi
bật sau:
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường ở nước ta là một kiểu tổ chức nền kinh
tế trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nơng nghiệp lạc hậu,
kinh tế cịn ở trình độ kém phát triển. Biểu hiện ở kết cấu hạ tầng kỹ thuật còn


16
ở trình độ thấp, qui mơ sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp. Sức cạnh tranh
của các doanh nghiệp trên thị thị trường trong nước và quốc tế còn yếu, đội

ngũ cán bộ quản lý, kinh doanh giỏi còn thiếu; sức mua hàng hoá chưa cao.
Những điều kiện ấy, yếu tố ấy đảm bảo cho kinh tế thị trường hiện đại hoạt
động mới đang ở giai đoạn sơ khai ban đầu.
Thứ hai, nền kinh tế thị trường ở nước ta có sự tham gia của nhiều thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo, cùng kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Các
thành phần kinh tế tồn tại đan xen, hợp tác và đấu tranh, mỗi thành phần kinh
tế là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế cùng nhau thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển.
Thứ ba, nền kinh tế thị trường ở nước ta thực chất là kiểu tổ chức nền
kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và qui luật của kinh tế thị trường, vừa
dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Thứ tư, nền kinh tế thị trường ở nước ta là mơ hình kinh tế mở, đa
phương hố, đa dạng hố trong quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng giao lưu
kinh tế với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị, xã hội, dựa trên
ngun tắc tơn trọng, bình đẳng đơi bên cùng có lợi.
Ngày nay, tất cả các nước đều phải xây dựng và phát triển kinh tế thị
trường. Trong mỗi chế độ xã hội khác nhau, kinh tế thị trường được sử dụng
với mục đích khác nhau. Trong các nước tư bản, đó là kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa. Ở nước ta đó là kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết
quả của sự phát triển lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định, kết quả
của quá trình phân cơng lao động xã hội, đa dạng hố các hình thức sở hữu,
đồng thời nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Theo quan điểm của Đảng ta, “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế


17
nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày

càng trở thành nền tảng vững chắc”.
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp
với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá
trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế. Đảng ta khẳng định: “Mục đích của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống
nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ
sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối”.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khơng thể tách rời vai
trị quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. “Nhà nước ta là Nhà nước Xã hội
chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và
phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng
sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ
chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của tồn thể nhân dân”.
Tóm lại, để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, cần sử dụng một cách tổng hợp nhiều điều kiện:
Về kinh tế, tiếp tục thực hiện chính sách nhất quán sáu thành phần kinh
tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước và kinh tế
tập thể là nền tảng và các thành phần kinh tế khác là nội lực của kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về nhà nước, phải xây dựng nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì
dân, quản lý bằng pháp luật xã hội chủ nghĩa, bằng chính sách kinh tế, bằng bộ
máy tổ chức hiệu quả.
Về chính trị, thực hiện khối đại đồn kết mặt trận thống nhất, trong đó
Đảng Cộng Sản Việt Nam là hạt nhân lãnh đạo.



18
2.3. Phát triển lực lượng sản xuất bằng việc thực hiện Cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đi đơi với hồn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở
nước ta
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản
xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. Cái thiếu thốn nhất của chúng ta là
một nền đại cơng nghiệp. Chính vì vậy, chúng ta phải tiến hành cơng nghiệp
hố, hiện đại hố. Trong thời đại ngày nay, cơng nghiệp hố phải gắn liền với
hiện đại hố. Cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt
thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội VII với phương
hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã khẳng định: “phát triển lực lượng
sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại, gắn liền với phát
triển một nền nơng nghiệp tồn diện là nhiệm vụ trung tâm, nhằm từng bước
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao
năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân”.
Tiếp tục tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định: “Nhiệm
vụ đề ra trong chặng đường đầu của thời ký qua độ là chuẩn bị tiền đề cho
cơng nghiệp hố đã cơ bản hồn thành cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã chỉ ra: “Con
đường CNH, HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những
bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận
dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ
thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở
mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ,
từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh
tinh thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH, HĐH.



19
2.4. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN và các mặt khác của đời sống xã hội
Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước,
phải khơng ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trị lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, nâng
cao vai trò của các tổ chức quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VII đã khẳng định: “Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực
tư tưởng - văn hoá, làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức
Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Kế thừa và
phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong
nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ,
văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức,
đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao”.
Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hoá, xây dựng nền
văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời
sống tinh thần của nhân dân; phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội,
thực hiện công bằng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu, “dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Tóm lại, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một học thuyết khoa
học. Trong điều kiện hiện nay, học thuyết đó vẫn giữ nguyên giá trị. Nó đưa
lại một phương pháp thực sự khoa học để phân tích các hiện tượng trong đời
sống xã hội để từ đó vạch ra phương hướng và giải pháp đúng đắn cho hoạt
động thực tiễn. Học thuyết đó đã được Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo
trong điều kiện cụ thể của nước ta, vạch ra đường lối đúng đắn cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.



20
KẾT LUẬN
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một trong những thành tựu khoa
học mà C.Mác đã để lại cho nhân loại. Lý luận đó đã chỉ ra: Xã hội là một hệ
thống mà trong đó quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, và các quan hệ sản xuất nhất định mà trên
đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị cũng như các hình
thái xã hội tương ứng. Đồng thời lý luận cũng chỉ ra rằng sự vận động và phát
triển của các hình thái kinh tế xã hội là một q trình lịch sử tự nhiên. Thơng
qua cách mạng xã hội, các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau từ thấp đến
cao. Tuy nhiên, sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội vừa
bị chi phối bởi các quy luật chung, vừa bị tác động bởi điều kiện lịch sử cụ thể
của mỗi quốc gia.
Ngày nay, xã hội loài người đã có những tiến bộ vượt bật về khoa học –
kỹ thuật so với thời C.Mác. Nhưng sự phát triển đó vẫn khơng nằm ngồi lý
luận về hình thái kinh tế - xã hội, lý luận về học thuyết này vẫn giữ nguyên
giá trị của nó trong mọi giai đoạn lịch sử phát triển của xã hội loài người.
Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội đã chỉ ra con đường đi lên CNXH
là một tất yếu khách quan và chính nó đã đề ra những hướng đi đúng đắn và từ
đó đưa ra những giải pháp cho công cuộc xây dựng đất nước ta ngày càng phát
triển tới đỉnh cao mới. Đây cũng là cơ sở lý luận của các Đảng cộng sản trong
việc xây dựng hình thái kinh tế - xã hội XHCN và CSCN.
Xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta trên nền tảng Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà lý luận hình thái kinh tế - xã hội là một
trong những lý luận nền tảng là hoàn toàn đúng đắn. Sự sụp đổ của hệ thống
Xã hội Chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô trong thời gian qua chỉ là sự thất bại
của một mơ hình cụ thể chứ không phải là sự cáo chung của Chủ nghĩa Xã hội.
Chủ nghĩa Xã hội sẽ mãi mãi là một thực tế khách quan, là mục đích của xã
hội loài người và nhất định sẽ thắng lợi trên phạm vi toàn thế giới.




×