Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tieu luan CCLL, đấu tranh bảo vệ chủ quền biển , đảo trong tình hình mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.63 KB, 24 trang )

0
MỤC LỤC
Mở đầu..............................................................................................................1
Nội dung...........................................................................................................2
I. Một số vấn đề về biển đảo...........................................................................2
II. Mục tiêu. Nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam
trong thời kỳ mới...........................................................................................10
III. Thực tiễn công tác quản lý, bảo vệ biển đảo ở tỉnh Nam Định hiện
nay...................................................................................................................15
Kết luận..........................................................................................................24


1
MỞ ĐẦU
Ngày nay, biển có vị trí, vai trị vơ cùng quan trọng đối với các quốc gia,
có thể giải quyết được những vấn đề cấp bách mang tính tồn cầu như:
ngun liệu, năng lượng và mơi trường. Theo đó, nhiều quốc gia đang hướng
ra biển, coi biển là tương lai, là đặc ân cuối cùng của thiên nhiên ban tặng cho
lồi người, là một trong những mơi trường sống quan trọng của loài người.
“Tiến ra biển trở thành một hướng phát triển của loài người, một chiến lược
lâu dài của nhiều nước trên thế giới”. Trong cuốn “Chiến lược khai thác biển
của Trung Quốc” viết: “Dân tộc nào sống xa lạ với biển là tự khép kín mình,
tất nhiên sẽ bị lạc hậu... Trên thế giới ngày nay, dân tộc nào chỉ có quan điểm
đất liền, khơng có nhận thức về biển là dân tộc bảo thủ, không thể thịnh
vượng, phát triển”. Theo đó, thế kỷ XXI là thế kỷ của chiến lược biển.
Biển, đảo là phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Biển, đảo có vai trị
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Việt Nam là một quốc gia có đường biên giới trên biển dài hơn 3260
km với diện tích hơn 1 triệu Km 2 biển; tiềm năng kinh tế biển của Việt Nam
rất lớn. Để khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế biển, địi hỏi Đảng, Nhà
nước cần có một chiến lược kinh tế biển; có quan điểm, chủ trương, biện pháp


đúng đắn, phù hợp nhằm quản lí và bảo vệ tốt chủ quyền biển, đảo. Sau khi
nghiên cứu chuyên đề :Quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về quản
lý và bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Học viên
lựa chọn nội dung “ Đấu tranh bảo vệ chủ quền biển , đảo trong tình hình
mới - liên hệ thực tiễn công tác quản lý, bảo vệ biển, đảo ở Tỉnh Nam Định
hiện nay” làm Tiểu luận thu hoạch trong khối kiến thức chuyên đề bổ trợ
thuộc chương trình đào tạo cao cấp lý luận chính trị ở Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh. Nội dung thể hiện trên một số mục sau đây.


2
NỘI DUNG
I. MỘTSỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BIỂN, ĐẢO
1.1. Vai trị của biển
Biển chiếm 71% diện tích bề mặt trái đất, từ xa xưa, con người đã biết
khai thác biển để sinh sống. Tuy nhiên, việc khai thác trong thời kỳ này chỉ ở
những vùng ven biển và còn thô sơ, manh mún.
Đến thế kỷ XV, con người đã đi vòng quanh trái đất bằng đường biển.
Biển được các nước phát triển sử dụng làm con đường giao thương để tìm
kiếm, mở rộng thị trường và chiếm đoạt thuộc địa. Đến nửa đầu thế kỷ XX,
con người mới chỉ khai thác bề mặt của biển là chủ yếu. Nửa sau của thế kỷ
XX cho tới thập niên đầu của thế kỷ XXI, mở đầu cho thời kỳ mới - thời kỳ
tiến ra biển trong lịch sử khai thác biển. Nhiều học giả cho rằng, ngày nay
chúng ta đang bước vào thời đại mới - thời đại biển. Biển ngày càng có vai trị
quan trọng trong q trình tồn tại và phát triển của nhân loại. Các quốc gia dù
có biển hay không đều quan tâm tới biển và hướng ra biển, điều đó đã trở
thành một hướng phát triển của lồi người với những lí do sau:
Một là, sự bùng nổ dân số và nhu cầu cuộc sống của con người ngày một
cao, cùng với sự khan hiếm lương thực, cạn kiệt tài nguyên trên lục địa ảnh
hưởng trực tiếp sự phát triển bền vững của loài người.

Hai là, biển có nguồn tài ngun vơ cùng to lớn có thể đáp ứng nhu cầu
tồn tại và phát triển của con người.
Ba là, khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, giúp con người hiểu biết
đầy đủ hơn về tiềm năng, lợi ích từ biển; đồng thời tạo cho con người khả
năng khai thác những tiềm năng đó với quy mô lớn, hầu như ở mọi độ sâu và
cả trong lịng đất của đáy biển.
Ngày nay, biển được ví như kho báu, có thể giải quyết được những vấn
đề cấp bách mang tính tồn cầu như: ngun liệu, năng lượng và mơi trường.
Theo đó, nhiều quốc gia đang hướng ra biển, coi biển là tương lai, là đặc ân
cuối cùng của thiên nhiên ban tặng cho loài người, là một trong những môi


3
trường sống quan trọng của loài người. “Tiến ra biển trở thành một hướng
phát triển của loài người, một chiến lược lâu dài của nhiều nước trên thế
giới”. Trong cuốn “Chiến lược khai thác biển của Trung Quốc” viết: “Dân tộc
nào sống xa lạ với biển là tự khép kín mình, tất nhiên sẽ bị lạc hậu... Trên thế
giới ngày nay, dân tộc nào chỉ có quan điểm đất liền, khơng có nhận thức về
biển là dân tộc bảo thủ, khơng thể thịnh vượng, phát triển”. Theo đó, thế kỷ
XXI là thế kỷ của chiến lược biển. Vài vậy: Biển có vai trị quan trọng, vươn
ra biển để khai thác là xu hướng chung của các nước hiện nay
1.2. Chính sách của một số nước ven biển Đông
Các nước ven biển Đông đều đánh giá Trung Quốc là nhân tố chủ yếu
gây mất ổn định ở biển Đông. Họ không muốn Trung Quốc lấp “chỗ trống
quyền lực” ở biển Đông, nên ủng hộ sự có mặt về quân sự của Mỹ ở đây để
làm đối trọng với Trung Quốc. Mặt khác, những nước này lại chấp nhận sự
xoa dịu của Trung Quốc, khơng muốn làm mất lịng Trung Quốc vì những
tính tốn lợi ích riêng của mỗi nước.
Từ năm 1999 trở lại đây, một số nước còn dựa vào Mỹ để có những hành
động làm tăng thêm mức độ căng thẳng ở Trường Sa, như lấn chiếm thêm một

số điểm, tiến hành trinh sát các đảo do Việt Nam kiểm soát (việc này trước
đây họ chưa từng làm), tăng cường các hoạt động tuần tiễu, khai thác hải
sản ...
Hầu hết các nước ven biển Đông đều tăng cường đầu tư cho phát triển
hải quân để bảo vệ lợi ích trên biển của mình. Hàng năm, những nước này vẫn
duy trì diễn tập hải quân song phương và đa phương giữa các nước trong khu
vực với nhau và với các nước ngồi khu vực (Mỹ, Ơxtrâylia, Niu Dilân, Anh,
Pháp, Nhật).
Đối với Việt Nam, các nước ASEAN đều quan tâm phát triển quan hệ về
nhiều mặt; hợp tác với Việt Nam trong việc giữ gìn hồ bình và ổn định trên
biển; thống nhất với Việt Nam về chủ trương giải quyết tranh chấp biển, đảo
bằng thương lượng hồ bình. Họ muốn Việt Nam là vật cản ngăn chặn mối đe


4
dọa bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc ở biển Đông, nhưng thường giữ im
lặng trước những hành động của Trung Quốc mà Việt Nam phản đối.
Thái Lan là đồng minh thân cận nhất của Mỹ ở Đông Nam Á. Thái Lan
ủng hộ ý định của Mỹ xây dựng căn cứ hậu cần nổi ở Vịnh Thái Lan. Khi
Trung Quốc lấn chiếm và gây ra các sự kiện trên biển Đông, quan điểm của
Thái Lan là trung lập, không đưa ra chứng kiến phản đối, trong khi Việt Nam
lên án Trung Quốc; đồng thời vẫn giữ mối quan hệ bình thường trên biển với
Việt Nam thể hiện trong việc duy trì tuần tra chung trên biển giữa hải quân hai
nước.
Campuchia trong vịng 5 năm trở lại đây đã có những chuyển biển đáng
kể theo chiều hướng tốt trong mối quan hệ về biển với Việt Nam. Tuy nhiên,
trong nước vẫn còn những thế lực thù địch với Việt Nam, nổi bật là nhóm các
nghị sĩ của các đảng đối lập với Đảng Nhân dân Campuchia vẫn đưa ra những
đòi hỏi vô lý về chủ quyền của họ đối với các cột mốc biên giới trên bộ của ta
và không chấp nhận phân chia vùng biển trong vùng nước lịch sử mà hiệp

định giữa hai nước đã ký kết năm 1982, trong các cuộc đàm phán. Quan điểm
của Campuchia về các vấn đề trên biển Đông cũng giữ ở mức trung lập,
không ủng hộ ai nhưng cũng không đưa ra lời phản đối ai mỗi khi có sự kiện
xảy ra trên biển Đông.
1.3. Biển Đông với kinh tế - xã hội và quốc phòng-an ninh Việt Nam
+ Kinh tế - xã hội:
Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nhiều thuận lợi hơn về điều kiện
địa lý biển so với nhiều quốc gia ven biển khác. Bờ biển Việt Nam dài khoảng
3260 km, đứng thứ 27 về chiều dài bờ biển trong tổng số 157 nước ven biển,
đảo quốc và vùng lãnh thổ ven biển của thế giới. Trên thế giới, trung bình
600km2 đất liền mới có 1 km bờ biển, tỷ lệ đó ở Việt Nam là 100 km 2/1km
(Thái Lan là 140 km2/1 km, Trung Quốc là 533 km2/1 km ...). Diện tích biển
của Việt Nam chiếm khoảng 29% diện tích của biển Đơng, rộng gấp ba lần
diện tích lãnh thổ đất liền. Việt Nam cịn có chủ quyền gần 3000 hòn đảo lớn,


5
nhỏ và 2 quần đảo xa bờ là Hoàng Sa và Trường Sa. Tài nguyên vùng biển và
ven biển Việt Nam được đánh giá rất phong phú và đa dạng, phân bố rộng
khắp trên dải đất liền ven biển đến các vùng nước ven bờ, các hải đảo và các
vùng biển khơi. Ven biển Việt Nam có khoảng 110 cửa sơng đổ ra biển. Trung
bình khoảng 30 km bờ biển có một cửa sơng. Hiện nay, cả nước có hơn 90
cảng lớn, nhỏ, với 24.000 m cầu cảng và 10 khu chuyển tải, có cầu cảng có
thể tiếp nhận được tàu tới 50.000 DWT.
Về tài nguyên, sinh vật có hơn 2000 lồi cá khác nhau, trong đó có hơn
100 lồi cá có giá trị kinh tế cao; là khu vực có năng suất cao về đánh bắt hải
sản, chiếm khoảng 10% tổng sản lượng đánh bắt hải sản hàng năm của tồn
thế giới.
Về khống sản, biển Đơng có các mỏ và nguồn sa khoáng biển phong
phú, chủ yếu là than, thiếc, titan, silicát... Từ những năm 70 của thế kỷ XX,

một số nước xung quanh biển Đông đã tiến hành khai thác mỏ thiếc ngầm
dưới biển. Đặc biệt là trong những năm 60 của thế kỷ XX, biển Đông được
phát hiện là có tiềm năng lớn về dầu mỏ và khí đốt. Sản lượng khai thác dầu
khí của các nước quanh biển Đông đạt được nhịp độ tăng trưởng nhanh liên
tục. Đứng đầu khu vực là Inđônêxia, sản lượng khai thác dầu khí đã vượt qua
con số 100 triệu tấn/năm. Theo số liệu công bố năm 1998 của một công trình
nghiên cứu ở Trung Quốc, riêng khu vực quần đảo Trường Sa đã có trữ lượng
dầu mỏ tới trên 41 tỷ tấn. Biển Đơng có nhiều eo biển thơng thương với Thái
Bình Dương và nối với Ấn Độ Dương bằng đường biển đi qua eo biển
Malacca. Vì vậy, biển Đơng là đường giao thơng huyết mạch nối Đơng Á,
Thái Bình Dương với châu Âu, châu Phi và Trung Cận Đông. Nền kinh tế của
nhiều nước hoặc vùng lãnh thổ ở Đông Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,
Xingapo) phụ thuộc sống còn vào đường hàng hải quốc tế đi qua biển Đông.
Biển Đông được đánh giá là con đường hàng hải nhộn nhịp vào hàng thứ hai
trên thế giới. Hàng ngày có khoảng 150-200 tàu bn của các nước qua lại


6
biển Đông. Trong thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, lượng hàng hóa vận chuyển
qua biển Đơng đã tăng gấp 1,5 - 2 lần so với trước đây.
Cả nước có 63 tỉnh, thành thì 28 tỉnh, thành có biển, trong đó có 12
huyện đảo. Trên 50% số dân của Việt Nam sống ở các tỉnh ven biển. Đó là
những điều kiện khách quan thuận lợi để chúng ta phát triển một cách đa dạng
các ngành kinh tế biển, bao gồm kinh tế biển khơi, kinh tế ven biển và kinh tế
hải đảo.
Để khai thác tiềm năng và lợi thế của biển, đáp ứng địi hỏi khách quan
của cơng cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới, ngày 6-5-1993, Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 03-NQ/TW về
“Một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước mắt”, xác
định: “Trở thành một nước mạnh về biển là mục tiêu chiến lược xuất phát từ

yêu cầu và điều kiện khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam”. Nghị quyết số 03-NQ/TW của Bộ Chính trị đã nhanh chóng đi vào
cuộc sống của đất nước, định hướng cho kinh tế biển và thúc đẩy kinh tế biển
phát triển. Chỉ trong thời gian ngắn, kinh tế biển Việt Nam đã có sự phát triển
đáng kể, đã chứng tỏ ưu thế so với các vùng kinh tế khác ở cả ba giá trị: nhịp
độ tăng trưởng, kim ngạch xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.
Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 22-9-1997 của Bộ Chính trị về "Đẩy mạnh
phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá", khẳng định:
“Vùng biển, hải đảo và ven biển là địa bàn chiến lược có vị trí quyết định đối
với sự phát triển của đất Việt Nam; là tiềm năng và thế mạnh quan trọng cho
sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố”. Vùng ven biển Việt Nam đang
được xây dựng với nhịp độ phát triển kinh tế nhanh và sơi động nhất của cả
nước, đang hình thành một hành lang kinh tế, một trục đô thị và trung tâm công
nghiệp lớn của Việt Nam. Hiện nay kinh tế biển đang phát huy vai trò chủ yếu
trong kinh tế đối ngoại và vai trò “đầu tàu” thúc đẩy các vùng kinh tế khác phát
triển. Thực tế xây dựng đất nước trong những thập kỷ qua cho thấy thu nhập
của đất nước từ kinh tế biển càng ngày càng tăng, kinh tế biển đang góp phần


7
ngày càng quan trọng hơn vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Chỉ có đẩy mạnh
phát triển kinh tế biển, chúng ta mới đẩy lùi được nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với các nước trong khu vực.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “phát
triển tổng hợp kinh tế biển và ven biển, khai thác lợi thế của các khu vực cửa
biển, hải cảng để tạo thành vùng phát triển cao, thúc đẩy các vùng khác. Xây
dựng căn cứ hậu cần ở một số đảo để tiến ra biển khơi” Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X cũng chỉ ra, cần phải: “xây dựng và thực hiện chiến lược phát
triển kinh tế biển tồn diện, có trọng tâm, trọng điểm; sớm đưa Việt Nam trở
thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc

phịng - an ninh và hợp tác quốc tế”.
Biển Đơng đã và đang cho chúng ta nhiều lợi ích để làm giầu cho Tổ
quốc; đồng thời cũng đang đòi hỏi chúng ta phải đầu tư lớn hơn nữa về tiền
của, sức lực và trí tuệ để Biển Đơng có thể tiếp tục đóng góp ngày càng nhiều
hơn vào sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, mạnh
về biển, có vị trí và tầm cao xứng đáng trong thời đại mới của loài người “thời đại biển”.
+ Quốc phòng - an ninh
Trong lịch sử dân tộc, đã nhiều lần kẻ thù xâm lược đất Việt Nam từ
hướng biển. Từ thời các Vua Hùng dựng nước, nhân dân ta đã tạo dựng nên
truyền thống “giỏi dùng thuyền, thạo thủy chiến”. Nhiều chiến công vang dội
trên sông biển đã ghi đậm dấu ấn trong lịch sử dân tộc.
Từ thế kỷ XVI, Việt Nam bắt đầu có quan hệ thông thương với một số nước
phương Tây đang trên đà phát triển chủ nghĩa tư bản. Bằng đường biển, các
thương gia, các giáo sĩ phương Tây đã xâm nhập Việt Nam với danh nghĩa buôn
bán và truyền giáo, nhưng thực chất là cướp của cải, gây dựng cơ sở chính trị,
chuẩn bị cho chiến tranh xâm lược Việt Nam vào nửa sau thế kỷ XIX.
Sau cách mạng tháng Tám 1945, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ, các đạo quân xâm lược đều đến Việt Nam từ hướng biển. Pháp


8
và Mỹ đều dựa vào biển để vận chuyển quân đội và vật chất phục vụ cho
chiến tranh xâm lưọc. Biển Đông cũng là con đường rút khỏi Việt Nam của
các đạo quân xâm lược đến từ phương Tây. Sau khi đất nước thống nhất, các
thế lực thù địch tiếp tục dùng biển Đông để lén lút tiến hành các hoạt động
chống đối Việt Nam.
Từ khi đất nước thực hiện công cuộc đổi mới, biển Đông trở thành “cửa
mở lớn” để giao lưu giữa Việt Nam với thế giới. Các thế lực thù địch đã lợi
dụng “cửa mở lớn” này để xâm nhập Việt Nam, tiến hành các hoạt động gián
điệp, phá hoại về chính trị và kinh tế, truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy..., gây

khó khăn cho ta về bảo đảm trật tự an ninh xã hội.
- Biển Đông đang tồn tại những nhân tố gây mất ổn định, tác động tiêu
cực tới quốc phòng-an ninh của Việt Nam. Đó là sự tồn tại những tranh chấp
biển, đảo rất quyết liệt và phức tạp; có sự can thiệp của các nước lớn, làm cho
tình hình trong khu vực đã phức tạp càng trở nên phức tạp hơn; sự thiếu nhất
quán và đồng thuận của một số nước trong khu vực.
Có thể khẳng định, biển ngày càng có vai trị quan trọng trong q trình
tồn tại, phát triển của nhân loại. Ngày nay, tiến ra biển, khai thác biển và đại
dương trở thành xu hướng tất yếu khách quan và là mối quan tâm của tất cả
các nước có biển và khơng có biển.
Hiện nay, biển Đơng đang là nơi tồn tại những mâu thuẫn chính trị và
kinh tế của thế giới. Các nước trong khu vực đang có sự tranh chấp gây gắt về
chủ quyền, quyền chủ quyền trên biển, đảo. Sự can thiệp nhằm tranh giành lợi
ích và ảnh hưởng của các cường quốc vào biển Đông làm cho tình hình ở đây
càng thêm phức tạp. Biển Đông đang tập trung những mặt đối lập; thuận lợi
và khó khăn, hợp tác và chống đối, bè bạn và thù địch... Tất cả những yếu tố
đó đang ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp phát triển kinh tế và bảo đảm quốc
phòng - an ninh trên biển của Việt Nam trong những năm tới. Theo đó, tăng
cường quốc phịng - an ninh để bảo vệ biển đảo là yêu cầu cấp bách của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.


9
II. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ QUẢN LÝ, BẢO VỆ CHỦ QUYỀN
BIỂN ĐẢO VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ MỚI
2.1. Mục tiêu quản lý, bảo vệ biển, đảo
2.1.1. Giữ vững độc lập, chủ quyền tồn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia
trên biển
Trong bối cảnh của thế giới và khu vực hiện nay, giải quyết đúng đắn
mối quan hệ song phương và đa phương giữa Việt Nam với các nước là vấn

đề có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến vận mệnh của quốc gia, dân tộc: hịa
bình, ổn định, hợp tác, phát triển hay mất ổn định, chiến tranh, đói nghèo, tụt
hậu. Hội nghị Trung ương 8 của Đảng (Khóa IX) đã xác định: “Kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; lấy việc giữ vững mơi
trường hịa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của
đất nước”
Quán triệt tinh thần đó trong quản lý bảo vệ biển, đảo, chúng ta phải kiên
trì mục tiêu giữ vững độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia,
dân tộc trên biển gắn liền với chủ nghĩa xã hội; đồng thời phải lấy giữ vững
mơi trường hịa bình, ổn định lâu dài là lợi ích cao nhất.
Giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc
trên biển là trách nhiệm, nghĩa vụ thiêng liêng của mọi công dân Việt Nam.
Trong Hiến pháp năm 1980 và 1992, đã quy định: “Nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và tồn
vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng trời, vùng biển và các hải đảo”. Điều 13
viết: “Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là thiêng liêng và bất khả xâm
phạm”.
Bất khả xâm phạm và toàn vẹn lãnh thổ là một trong những nguyên tắc
cơ bản được luật pháp quốc tế công nhận, bắt nguồn từ nguyên tắc tôn trọng
chủ quyền quốc gia, tôn trọng quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ.
Điều 2, khoản 4 của Hiến chương Liên hợp quốc viết: “Tất cả các thành
viên Liên hợp quốc cần phải tự kiềm chế, không được đe dọa hoặc sử dụng vũ


10
lực để chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ hoặc nền độc lập chính trị của bất kỳ nước nào
hoặc bằng bất cứ cách nào khác trái với các mục đích của Liên hợp quốc”.
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đến
nay đã đạt được nhiều thành tựu rất to lớn. Trong những năm tới, nhân dân ta
quyết tâm đẩy mạnh công cuộc đổi mới để xây dựng và phát triển đất nước

theo định hướng xã hội chủ nghĩa, làm cho dân giàu, nước mạnh, cơng bằng,
dân chủ, văn minh. Theo đó, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc trên biển phải gắn với chủ nghĩa xã hội,
gắn với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; gắn với
bảo vệ sự nghiệp đổi mới và bản sắc văn hóa dân tộc. Bảo vệ độc lập chủ
quyền tồn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia dân tộc là mục tiêu bất di bất dịch
của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
2.1.2. Giữ vững môi trường hịa bình, ổn định lâu dài là lợi ích cao nhất
Trong những năm qua, chúng ta đã kiên trì phấn đấu theo đường lối đối
ngoại của Đảng là: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng
là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc
tế, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển” để phá thế bị bao vây cấm vận,
tạo mơi trường hịa bình, ổn định, tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi
cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là một trong những thành
tựu quan trọng nhất của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta sau gần 30 năm đổi
mới.
Từ Đại hội VII, Đảng ta đã đề ra đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa
phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế theo tinh thần "Việt Nam
muốn làm bạn với các nước trong cộng đồng thế giới". Đường lối đối ngoại
này đến nay vẫn đang tiếp tục được quán triệt, phát triển để giữ vững hịa
bình, ổn định lâu dài. Hồ bình, ổn định là điều kiện tiên quyết để xây dựng
đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, nhân dân ấm no,
hạnh phúc. Mục tiêu quản lý, bảo vệ biển, đảo là sự thể hiện cụ thể đường lối


11
nhất quán của Đảng, Nhà Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, phù hợp với mục tiêu chung của Đảng và nhân ta là độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,

dân chủ, văn minh. Để đạt được mục tiêu quản lý, bảo vệ biển, đảo cần giải
quyết đúng đắn các vấn đề cơ bản như: Kết hợp hài hồ lợi ích quốc gia, dân
tộc trên biển với lợi ích của dân tộc khác theo tinh thần tôn trọng độc lập, chủ
quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hợp tác đơi bên cùng có lợi;
kết hợp nội lực với tận dụng sức mạnh thời đại, trên cơ sở nội lực là chính.
2.2. Nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biển, đảo
2.2.1. Quản lý chặt chẽ, bảo vệ vững chắc chủ quyền, tồn vẹn lãnh
thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc trên biển
Để bảo vệ vững chắc toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc trên
biển cần thực hiện tốt việc quản lý, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và
quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển.
Bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển, có thể hiểu theo nghĩa rộng là bảo
vệ các quyền của quốc gia theo các chế độ pháp lý khác nhau, phù hợp với
luật pháp quốc tế, trên các vùng nước nội thủy, vùng nước lịch sử, trên các hải
đảo của Tổ quốc. Bảo vệ quyền chủ quyền quốc gia ở vùng đặc quyền về kinh
tế và thềm lục địa là bảo vệ đặc quyền của quốc gia về bảo tồn, quản lý, thăm
dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên biển ở những nơi đó; thực chất là bảo vệ
lợi ích kinh tế ở vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của quốc gia.
Những hành động thăm dò, khai thác tài nguyên trái phép của tàu thuyền
nước ngoài ở vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa (có khi vào cả lãnh
hải và nội thuỷ) diễn ra trong nhiều năm qua, vừa vi phạm quyền chủ quyền,
vừa gây thiệt hại cho lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam. Một trong
những nguyên nhân khiến cho tình trạng trên chậm chấm dứt là sự yếu kém
về khả năng khai thác tài nguyên biển của Việt Nam.
Theo đó, “Bảo vệ chủ quyền, giữ vững hồ bình và ổn định trên các
vùng biển là điều kiện tiên quyết, là tiền đề cần thiết để phát triển khai thác


12
biển và từng bước tiến ra biển một cách vững chắc”. Muốn khai thác lợi ích

của biển, trước hết phải làm chủ biển một cách vững chắc. Tăng cường quốc
phòng - an ninh trên biển để tạo điều kiện cho phát triển kinh tế biển là nội
dung cấp thiết hàng đầu trong bảo vệ biển, đảo trong tình hình mới.
“Xây dựng quốc gia Việt Nam mạnh về biển và phát triển kinh tế biển
trở thành bộ phận mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân là một mục tiêu chiến
lược, đồng thời là nhiệm vụ bức bách đang đặt dân tộc ta trước thách thức lớn
trên biển Đông”. Thách thức lớn đó là: “Chúng ta phải thực sự thức tỉnh ý
thức về biển của cả dân tộc, làm chủ được biển của mình, phát triển mạnh
kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền và các quyền lợi của Việt Nam trên
biển, một lần nữa vươn lên trở thành quốc gia mạnh về biển ở Đông Nam Á,
hay là để cho quốc gia khác lấn lướt chúng ta trên biển, thu hẹp các vùng biển
của chúng ta, đặt dân tộc ta trong tình trạng tụt hậu, bị động, lệ thuộc trên biển
Đông”. Vượt qua thách thức lớn trên biển Đông là trách nhiệm lịch sử của thế
hệ người Việt Nam hôm nay đối với các thế hệ mai sau, là sự tiếp nối cuộc
đấu tranh oanh liệt, đầy hy sinh của dân tộc ta vì độc lập, tự do và thống nhất
Tổ quốc trong thế kỷ XX.
2.2.2. Bảo vệ an ninh, trật tự an tồn xã hội và văn hố trên biển và
vùng ven biển
An ninh, trật tự an toàn xã hội là nhu cầu và điều kiện thiết yếu để tồn tại
và hoạt động của con người ở mọi mơi trường địa lý. Biển là mơi trường có
điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và nhiều biến động, lại là mơi trường mở,
thường xun có sự giao lưu quốc tế, nên đòi hỏi về bảo đảm an ninh, trật tự
an toàn xã hội lại càng cao hơn. Cũng do biển là mơi trường mở, các luồng
văn hố, tư tưởng độc hại dễ dàng từ đó xâm nhập đất liền; do đó bảo vệ an
ninh, trật tự an tồn xã hội trên biển liên quan chặt chẽ với bảo vệ văn hoá.
Nội dung chủ yếu của bảo vệ an ninh, trật tự an tồn xã hội và văn hố
trên biển và vùng ven biển là bảo vệ an ninh quốc gia trên mọi lĩnh vực chính
trị, tư tưởng, văn hố, khoa học cơng nghệ, quốc phịng - an ninh...; ngăn chặn



13
kịp thời người và phương tiện xâm nhập đất liền để tiến hành các hoạt động
phá hoại, gây rối, làm gián điệp, truyền bá văn hoá đồi trụy và thực hiện các
hành vi tội phạm khác; bảo vệ lao động sản xuất, tính mạng và tài sản của
Nhà nước và nhân dân trên biển và ven biển; bảo đảm trật tự, an tồn giao
thơng trên biển và ven biển; bảo vệ môi trường, xử lý các vụ ô nhiễm môi
trường; phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai; thực hiện tìm kiếm - cứu
nạn; phịng ngừa và chế ngự các xung đội vì tranh giành lợi ích giữa các tổ
chức và cá nhân trong sử dụng và khai thác biển. Trong những năm tới, cuộc
tranh chấp biển, đảo trên vùng biển Việt Nam còn tiếp tục diễn biến phức tạp
và quyết liệt, tất yếu sẽ ảnh hưởng xấu tới an ninh trật tự trên biển và vùng
ven biển, cũng như trong nội địa; “cửa mở lớn” của đất nước sẽ tiếp tục mở
rộng hơn, tàu thuyền và người nước ngoài ra vào Việt Nam ngày càng nhiều
hơn, những thứ độc hại lợi dụng vào theo cũng sẽ tăng lên; tệ nạn xã hội, các
hành vi phạm pháp tiếp tục diễn ra phức tạp. Tình hình đó địi hỏi chúng ta
phải tăng cường khả năng bảo vệ an ninh, trật tự an tồn xã hội và văn hố ở
trên biển và vùng ven biển, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
2.2.3. Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ sự nghiệp đổi mới trên hướng biển
Bảo vệ Đảng gắn liền với bảo vệ Nhà nước, bảo vệ nhân dân và chế độ
xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, bảo vệ Đảng là bảo vệ sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, bảo đảm mọi đường lối chủ trương của
Đảng được thực hiện thắng lợi thông qua hệ thống văn bản pháp luật và sự
điều hành của Nhà nước. Để giữ vững quyền lãnh đạo của Đảng, cần phải
“xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng” lên ngang tầm với đòi hỏi của sự lãnh đạo đất nước trong tình hình
mới; đồng thời phải củng cố và làm tăng lòng tin của quần chúng nhân dân
đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước. “Những thành
tựu và yếu kém trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gắn



14
liền với trách nhiệm lãnh đạo của Đảng và những ưu điểm, khuyết điểm trong
công tác xây dựng Đảng”
Mục tiêu chiến lược “xây dựng Việt Nam trở thành một nước mạnh về
biển” có vai trị quyết định đối với sự thành công của sự nghiệp đổi mới do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Vì vậy, phấn đấu đạt được mục tiêu chiến
lược đó là thiết thực bảo vệ sự nghiệp đổi mới, làm tăng thêm lòng tin của
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
III. THỰC TIỄN CÔNG TÁC QUẢN LÝ, BẢO VỆ BIỂN ĐẢO Ở
TỈNH NAM ĐỊNH HIỆN NAY.
3.1 Khái quát chung về tỉnh Nam Định
Nam Định là một tỉnh nằm phía nam đồng bằng Bắc Bộ, Việt Nam. Theo
quy hoạch năm 2008 thì Nam Định thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ. Nam Định
tiếp giáp với tỉnh Thái Bình ở phía bắc, tỉnh Ninh Bình ở phía nam, tỉnh Hà
Nam ở phía tây bắc, giáp biển (vịnh Bắc Bộ) ở phía đơng. Địa hình Nam Định
có thể chia thành 3 vùng:
Vùng đồng bằng thấp trũng: gồm các huyện Vụ Bản, Ý Yên, Mỹ Lộc,
Nam Trực, Trực Ninh, Xuân Trường. Đây là vùng có nhiều khả năng thâm canh
phát triển nơng nghiệp, cơng nghiệp dệt, cơng nghiệp chế biến, cơng nghiệp cơ
khí và các ngành nghề truyền thống.
Vùng đồng bằng ven biển: gồm các huyện Giao Thuỷ, Hải Hậu và Nghĩa
Hưng; có bờ biển dài 72 km, đất đai phì nhiêu, có nhiều tiềm năng phát triển
kinh tế tổng hợp ven biển.
Vùng trung tâm công nghiệp – dịch vụ thành phố Nam Định: có các
ngành cơng nghiệp dệt may, cơng nghiệp cơ khí, công nghiệp chế biến, các
ngành nghề truyền thống, các phố nghề… cùng với các ngành dịch vụ tổng
hợp, dịch vụ chuyên ngành hính thành và phát triển từ lâu. Thành phố Nam
Định từng là một trong những trung tâm công nghiệp dệt của cả nước và trung

tâm thương mại - dịch vụ, cửa ngõ phía Nam của đồng bằng sơng Hồng.


15
Nam Định có bờ biển dài 74 km có điều kiện thuận lợi cho chăn nuôi và
đánh bắt hải sản. Ở đây có khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia Xuân Thủy (huyện
Giao Thủy). Bờ biển Nam Định hàng năm được phù sa bồi đắp lấn ra trên
100m. Vùng ven biển và biển Nam Định đã được UNESCO công nhận là khu
dự trữ sinh quyển thế giới.
Về kinh tế: GDP Nam Định năm 2015 đạt 18,615 tỷ đồng. Nam Định với
địa hình bằng phẳng thuận lợi cho phát triển nơng nghiệp lúa nước, tuy nhiên
trong cơng cuộc hiện đại hóa, cơng nghiệp hóa, tỉnh Nam Định đã phát triển
một số khu cơng nghiệp trên địa bàn như:
Khu cơng nghiệp Hịa Xá: thuộc thành phố Nam Định. Tổng diện tích:
326,8 ha. Tổng mức đầu tư dự kiến: 347 tỷ đồng, Mục tiêu xúc tiến thu hút đầu
tư lấp đầy với 86 dự án. (Đã lấp gần đầy diện tích)
Khu cơng nghiệp Mỹ Trung: thuộc huyện Mỹ Lộc và phường Lộc Hạ, ở
phía thành phố Nam Định, giáp Quốc lộ 10, khu đất quy hoạch có diện tích 150
ha, có thể phát triển lên 190 ha. Tổng mức đầu tư khoảng 300 - 350 tỷ đồng.
Khu công nghiệp Thành An: Thuộc địa bàn thành phố Nam Định và xã
Tân Thành - Vụ Bản, nằm giáp trục đường Quốc lộ 10, gầnĐường cao tốc Cầu
Giẽ - Ninh Bình và tuyến đường nối từ Quốc lộ 10 sang đường 21 dẫn đến
cảng Hải Thịnh và các huyện phía Nam của tỉnh.
Khu Cơng nghiệp Bảo Minh: Thuộc địa bàn huyện Vụ Bản. Phía Bắc và
phía Đơng giáp xã Kim Thái, phía Tây giáp xã Liên Bảo, phía Nam giáp
đường Quốc lộ 10, cách thành phố Nam Định 10 km, cách Thị trấn Gôi - Vụ
Bản 5 km. Khu Công nghiệp Bảo Minh nằm ven trục đường quốc lộ 10
cạnh đường sắt Bắc Nam và Đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình nên giao
thơng từ khu công nghiệp đến các nơi khác như Hà Nội, cảng Hải Phịng có
nhiều thuận lợi. Diện tích 200 ha đang quy hoạch chi tiết. Tổng mức đầu tư

khoảng 300 - 400 tỷ đồng.
Khu công nghiệp Hồng Tiến: Thuộc địa bàn 2 xã Yên Hồng và Yên Tiến,
huyện ý Yên, cách Thành phố Nam Định khoảng 25 km, cách thành phố Ninh


16
Bình khoảng 6 km, nằm gần cảng Ninh Phúc, cạnh tuyến đường cao tốc Cầu
Giẽ - Ninh Bình, và có tuyến đường sắt Bắc Nam. KCN Hồng Tiến có thể mở
rộng với quy mô khoảng 250ha. Khu công nghiệp đã được Tập đồn Dầu khí
Việt Nam đăng ký đầu tư kinh doanh hạ tầng.
Khu kinh tế Ninh Cơ: Do Tập đồn Cơng nghiệp tàu thuỷ VINASHIN đề
xuất, vị trí tại cửa sơng Ninh Cơ, diện tích khoảng 500 ha, bao gồm: cảng biển;
cơng nghiệp đóng tàu; cơng nghiệp cơ khí, chế biến; dịch vụ vận tải; dịch vụ du
lịch và các loại hình sảng xuất kinh doanh dịch vụ đa dạng 2 bên cửa sông
Ninh Cơ thuộc huyện Hải Hậu và Nghĩa Hưng.
Khu công nghiệp dệt may Rạng Đông, Chủ đầu tư KCN là Công ty cổ
phần Vinatex Rạng Đông có diện tích hơn 600 ha, thu hút khoảng 500 doanh
nghiệp và 150.000 lao động. Một số nhà đầu tư nước ngoài đã cam kết và đăng
ký đầu tư xây dựng nhà máy tại KCN này, trong đó, đáng chú ý là một nhà đầu
tư Australia đăng ký xây dựng nhà máy sản xuất len theo công nghệ hiện đại
nhất hiện nay.
Ngoài ra các làng nghề truyền thống như: Đúc đồng (Ý n), cơ khí
(Xn Trường)…góp phần khơng nhỏ trong phát triển kinh tế của tỉnh
Nam Định có vị trí hội tụ giao thông liên vùng rất thuận lợi cho phát
triển lưu thơng hàng hóa với các địa phương khác trong cả nước. Về dịch vụ
hạ tầng du lịch, Nam Định có điều kiện phát triển đa dạng các loại hình du
lịch: sinh thái - nghỉ dưỡng, văn hóa - lịch sử - tâm linh, du lịch mạo hiểm, thể
thao…
Nam Định có tiềm năng du lịch rất lớn, là nơi có khu dự trữ sinh quyển
thế giới vườn quốc gia Xuân Thủy (Cồn Lu, Cồn Ngạn), đặc biệt phát triển du

lịch biển với bãi biển Quất Lâm đẹp và thơ mộng. Nơi đây sở hữu nhiều danh
lam, thắng cảnh và di tích lịch sử văn hố nổi tiếng như: Đền Trần, Phủ Dầy,
chùa Keo Hành Thiện, chùa Cổ Lễ với Cửu Phẩm Liên Hoa đặc trưng…
Nam Định là một tỉnh có bề dày văn hóa và truyền thống hiếu học của cả
nước. Sở Giáo dục cũng như Đội tuyển thi học sinh giỏi Quốc gia nhiều năm


17
xếp thứ nhất tồn quốc. Ngồi ra cịn có nhiều học sinh đạt giải trong các kì
thi OLYMPIC quốc tế, khẳng định truyền thống hiếu học của mảnh đất thành
Nam.
Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong (tức Trường Thành
Chung Nam Định xưa) là một trong những ngôi trường Chuyên nổi tiếng
hàng đầu của cả nước với bề dày thành tích đáng nể gần 100 năm xây dựng và
phát triển. Ngồi ra, cịn có một số ngơi trường khác cũng khá nổi bật là các
trường THPT Giao ThủyA, (trường Trung học phổ thông Chuẩn quốc gia năm
2003), trường Trung học phổ thông Xuân trường A, Trung học phổ thông Trần
Hưng Đạo (trường Trung học phổ thông Chuẩn quốc gia năm 2009), Nguyễn
Khuyến (Trường trung học phổ thông đạt chuẩn quốc gia), Hải Hậu A (trường
chuẩn quốc gia năm 2003). Ngồi ra trong tốp 200 trường có kết quả cao nhất
cả nước thì Nam Định có tới 17 trường, cứ trung bình mỗi trung tâm cấp
huyện hay thành phố có 2 trường nằm trong tốp các trường dẫn đầu cả nước
chiếm tỷ lệ xấp xỉ 50% các trường toàn tỉnh. Trong Top 100 trường Trung học phổ
thông tốt nhất Việt Nam năm 2009, Nam Định có tới 7 trường.
Nam Định có trường Đại học Điều Dưỡng được thành lập năm 2005 là
trường Đại học Điều Dưỡng đầu tiên trên cả nước; ngồi ra cịn có các trường
ĐH khác như trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Nam Định; trường Đại học
Dân Lập Lương Thế Vinh; trường Đại học Kinh tế kỹ thuật công nghiệp;
trường Cao đẳng Sư phạm Nam Định và 12 trường cao đẳng khác...
3.2. Quản lý biển đảo của tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay.

Để bảo vệ sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, phải bảo
vệ nhân dân. Đó là bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội. Ở trên biển và vùng
ven biển, bảo vệ nhân dân bao gồm; bảo vệ cơng cuộc lao động sản xuất, tính
mạng và tài sản của nhân dân ở trên biển và ven biển, chống thiên tai, địch
hoạ và các rủi ro khác; bảo vệ lợi ích và quyền cơng dân của nhân dân đã
được các chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước thừa nhận; bảo vệ


18
môi trường sống, bảo đảm cho nhân dân được sống trong mơi trường tự nhiên
và mơi trường văn hố - xã hội trong sạch, lành mạnh. Trên cơ sở quán triệt,
thông tin tuyên chuyền của các cơ quan chức năng trong Tỉnh về những nội
dung quản lý, bảo vệ biển, đảo , các hoạt động kinh tế trên biển, quyền làm
chủ và bảo vệ lợi ích quốc gia ở trên biển; sự phát triển của quốc phòng - an
ninh phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân; tăng cường quốc
phòng - an ninh trên biển là “điều kiện tiên quyết và tiền đề cần thiết” để tiến
hành các hoạt động kinh tế trên biển; đồng thời cũng nhằm bảo vệ Đảng, bảo
vệ Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân trên hướng biển.
Xuất phát từ vị trí, vai trị của biển đảo trong phát triển kinh tế gắn với
quốc phịng, an ninh,,,tạo mơi trường để ổn định và phát triển kinh tế. Với lợi
ích thực tế từ biển, địa bàn quản lý biển đảo của tỉnh. Tỉnh Nam Định luôn
luôn trú trọng, bám sát qua điểm định hướng đường lối chủ trương của Đảng,
Nhà nước đối với phương thức quản lý, bảo vệ biển đảo của tổ quốc nói
chung và địa phận thuộc tỉnh Nam Định quản lý nói riêng:
Thứ nhất: Ban hành Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cơ cấu
tổ chức và biên chế của Chi cục Quản lý Biển, đảo tỉnh Nam Định thể hiện rõ:
Về vị trí: Chi cục Quản lý Biển, đảo tỉnh Nam Định là tổ chức trực thuộc
Sở Tài nguyên và Môi trường Nam Định, chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức,
biên chế và hoạt động của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Nam Định; đồng
thời chịu sự hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của Tổng cục Biển và Hải

đảo Việt Nam trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường. Chi cục Quản lý
Biển, đảo có tư cách pháp nhân, con dấu, tài khoản riêng, trụ sở làm việc tại
thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.
Về chức năng: Chi cục Quản lý Biển, đảo có chức năng giúp Giám đốc
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Nam Định tham mưu cho Uỷ ban nhân dân
tỉnh Nam Định thực hiện chức năng quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất
quản lý các vấn đề về biển, đảo trên địa bàn tỉnh Nam Định.
Về nhiệm vụ, quyền hạn:


19
Một là: Tham mưu, giúp Giám đốc Sở Tài nguyên và Mơi trường trình
cấp có thẩm quyền:
- Dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chương
trình, đề án, dự án quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất quản lý các vấn
đề về biển, đảo;
- Dự thảo văn bản thẩm định các quy hoạch chuyên ngành về khai thác,
sử dụng tài nguyên biển, đảo, quy hoạch mạng lưới dịch vụ, đề án thành lập
khu bảo tồn biển, khu bảo tồn đất ngập nước ven biển thuộc trách nhiệm quản
lý của Sở Tài nguyên và Môi trường;
- Dự thảo văn bản thẩm định hoặc cấp phép các dự án đầu tư cơng trình
trang thiết bị, dự án khai thác, sử dụng tài nguyên biển, ven biển, đảo theo
quy định của pháp luật;
Hai là: Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch,
kế hoạch, chương trình, đề án, dự án, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, định
mức kinh tế - kỹ thuật trong lĩnh vực biển, đảo đã được cấp có thẩm quyền
ban hành, phê duyệt.
Ba là: Hướng dẫn nghiệp vụ quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất
quản lý các vấn đề về biển, đảo đối với cơng chức Phịng Tài nguyên và Môi
trường cấp huyện.

Bốn là: Phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền lập quy hoạch
phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch chuyên ngành khai thác, sử dụng tài
nguyên biển, ven biển, đảo trên địa bàn quản lý của tỉnh.
Năm là: Thống kê, đánh giá tài nguyên, tiềm năng và thực trạng khai
thác sử dụng vùng biển, ven biển, đảo và đề xuất nhu cầu khai thác, sử dụng
tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, đảo của địa phương.
Sáu là: Tổ chức thực hiện các trình tự, thủ tục đăng ký, cấp phép trước
khi trình Giám đốc Sở quyết định đối với hoạt động khai thác, sử dụng tài
nguyên biển, đảo của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật và phân
cấp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.


20
Bảy là: Tổ chức thực hiện quan trắc biến động và dự báo xu thế biến
động; xác định các vùng bờ biển dễ bị tổn thương và biến đổi lớn (bãi bồi,
vùng biển xói lở, vùng bờ cát, rừng phịng hộ và đất ngập nước ven biển) trên
địa bàn quản lý; đề xuất các giải pháp quản lý, bảo vệ bờ biển với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Tám là: Điều tra và kiểm sốt ơ nhiễm, suy thối mơi trường biển, đảo từ
các nguồn phát sinh do hoạt động khai thác, sử dụng biển, đảo và các sự cố
hoặc thiên tai trên biển; thực hiện ứng phó, khắc phục sự cố môi trường bờ
biển; phối hợp với Chi cục Bảo vệ Môi trường lập báo cáo hiện trạng môi
trường biển, đảo thuộc phạm vi trách nhiệm quản lý của địa phương.
Chín là: Thực hiện nghiên cứu khoa học, ứng dụng phát triển công nghệ
biển, ven biển, đảo; thu thập, xây dựng cơ sở dữ liệu về tài nguyên và môi
trường biển, đảo trên địa bàn quản lý của địa phương.
Mười là: Thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế liên quan đến biển,
đảo thuộc phạm vi chức năng theo phân công của Giám đốc Sở Tài nguyên và
Môi trường.
Mười một: Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện phổ

biến, giáo dục pháp luật về biển, đảo và tuyên truyền, nâng cao nhận thức
cộng đồng về quản lý, bảo vệ và khai thác, sử dụng bền vững biển, đảo.
Mười hai: Kiểm tra, giám sát và đề xuất xử lý hoặc xử lý theo thẩm
quyền các vi phạm theo quy định của pháp luật; chủ trì, phối hợp giải quyết
tranh chấp, khiếu nại giữa các tổ chức, cá nhân về khai thác, sử dụng tài
nguyên và bảo vệ môi trường biển, đảo theo thẩm quyền được phân cấp.
Mười ba: Quản lý tổ chức, biên chế cơng chức, viên chức, tài chính, tài
sản thuộc Chi cục Quản lý Biển, đảo theo phân cấp của Giám đốc Sở Tài
nguyên và Môi trường và theo quy định của pháp luật.
Mười bốn: Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo định kỳ hoặc đột xuất kết
quả quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất quản lý các vấn đề về biển, đảo


21
của Chi cục Quản lý Biển, đảo theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
Mười lăm: Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc Sở Tài nguyên và
Mơi trường giao.
Về cơ cẩu tổ chức: gồm các phịng chun mơn, nghiệp vụ và các đơn
vị trực thuộc: Phịng Hành chính - Tổng hợp; Phịng Nghiệp vụ về biển,
đảo…
Thứ hai: Các đơn vị làm nhiệm vụ bảo vệ, quản lý biển đảo, đặc biệt là
Bộ đội biên phòng của Tỉnh đã kết hơp chặt chẽ với các đơn vị bạn triển khai
kế hoạch hiệp đồng bảo vệ vùng biển tiếp giáp.
Thực hiện kế hoạch hiệp đồng bảo vệ vùng biển tiếp giáp năm 2015, ba
đơn vị đã phối hợp thực hiện tốt các nội dung kế hoạch, nổi bật là cơng tác
tuần tra, kiểm sốt, đấu tranh phịng chống tội phạm và xử lý các vụ việc,
cơng tác tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn trên biển… Đã phối hợp tuần tra được 50
lượt/600 km ở khu vực cửa sông; kiểm tra kiểm soát trên 3.000 lượt tàu
thuyền với gần 7.000 lượt ngư dân; phát hiện, xử lý 21 vụ/21 phương tiện vi

phạm, xử phạt hành chính hàng chục triệu đồng; kêu gọi, vận động 1.259 lượt
tàu thuyền/8.279 lượt ngư dân vào nơi an toàn tránh bão; cứu hộ 1 tàu vận tải
cùng 10 thuyền viên bị nạn trên biển, đảm bảo tuyệt đối an toàn về người,
phương tiện…Các đồn Biên phịng tiếp giáp thường xun tổ chức trao đổi
tình hình qua điện thoại và tổ chức giao ban định kỳ hàng q. Qua đó, đã kịp
thời nắm bắt tình hình, thống nhất các biện pháp và phối hợp giải quyết tốt
các vụ việc vi phạm xảy ra ở khu vực giáp ranh, tạo điều kiện thuận lợi cho
nhân dân làm ăn sản xuất. Trong năm 2015, 3 đơn vị đã có nhiều lượt văn bản
thơng báo cho nhau tình hình có liên quan. Ngồi ra, cịn cung cấp nhiều
nguồn tin quan trọng liên quan đến công tác đấu tranh phịng, chống tội phạm
và tìm kiếm cứu nạn trên biển. Thời gian qua một số vấn đề nổi lên trên khu
vực tiếp giáp, nhất là hoạt động của tàu thuyền nước ngoài xâm phạm chủ
quyền đánh bắt trộm hải sản; việc quản lý hoạt động của các loại phương tiện


22
tại khu vực cửa Ba Lạt, nhất là phối hợp đấu tranh với hoạt động trộm cắp
ngư lưới cụ, trấn cướp trên biển....Vì vậy, các đơn vị đã thống nhất ký kết
thực hiện Kế hoạch Hiệp đồng bảo vệ vùng biển tiếp giáp năm 2016. Đồng
thời, chỉ đạo cho cơ quan chuyên môn và các đơn vị tiếp giáp, thực hiện tốt
cơng tác nắm tình, trao đổi, thơng báo mọi tình hình có liên quan để kịp thời
điều tra, xác minh và thống nhất giải quyết tốt các vụ việc xảy ra.
Ba là: Tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan chức năng xây dựng kế hoạch, triển
khai các hoạt động tuyên truyền biển đảo trên đại bàn tỉnh Nam Định.
Để công tác tuyên truyền đạt hiệu quả cao, Ban Biên tập Báo Nam Định
đã chú trọng nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập
viên trong cơ quan thông qua việc tổ chức quán triệt nội dung các chỉ thị, nghị
quyết về biển đảo của Trung ương và địa phương. Trang bị cho phóng viên
các kiến thức cơ bản về Luật Biển, về nội dung các hiệp định liên quan đến
biên giới và biển đảo giữa Việt Nam với các nước. Đối với địa bàn vùng ven

biển huyện Giao Thủy, bên cạnh việc tuyên truyền toàn diện các hoạt động
phát triển kinh tế - xã hội, trong đó chú trọng tuyên truyền khai thác tiềm
năng, thế mạnh vùng ven biển thông qua động viên, cổ vũ các điển hình ni
trồng thủy sản, đánh bắt hải sản, vận tải biển, Báo đã chú trọng tuyên truyền
các hoạt động cơng tác quốc phịng - an ninh; xây dựng, nâng cao chất lượng
các đơn vị bộ đội sẵn sàng chiến đấu; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự
bị động viên đảm bảo yêu cầu số lượng và chất lượng, góp phần xây dựng
huyện ven biển Giao Thủy thành khu vực phòng thủ trọng điểm.
Hưởng ứng phong trào "Hướng về Trường Sa", Báo Nam Định và Đài
phát thanh truyền hình tỉnh Nam Định đã có nhiều bài giới thiệu về quần đảo
Trường Sa, về điều kiện địa lý tự nhiên, về đời sống sinh hoạt và ý chí kiên
cường vượt mọi khó khăn, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ chủ quyền biển đảo.


23

Kết Luận
Biển là lợi thế của Việt Nam trong xu thế tiến ra biển của tất cả các quốc
gia có biển và thậm chí khơng có biển. Xuất phát từ yêu cầu và điều kiện
khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời là nhiệm vụ
quan trọng đã và đang đặt ra cho dân tộc ta những thách thức lớn...
Chúng ta phải tiến ra biển, bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên
biển, khai thác biển làm giầu cho Tổ quốc bằng “sức mạnh tổng hợp của khối
đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng và
thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh
nhân dân. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và
an ninh với kinh tế trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội. Phối hợp hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối
ngoại. càn phải có sự vào cuộc của cả hệ thống từ các Bộ, Ngành, địa phương

trong đó mọi nỗ lực của Tỉnh Nam Định trong quản lý, bảo vệ biển đảo của
mình sẽ góp phần thành cơng đối với công tác “Đấu tranh bảo vệ chủ quền
biển , đảo của Tổ quốc Việt Nam”.



×