Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ xây DỰNG THẾ TRẬN LÒNG dân TRONG bảo vệ CHỦ QUYỀN BIỂN đảo ở TỈNH KHÁNH hòa HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.4 KB, 98 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Chủ quyền biển, đảo
Kinh tế - xã hội
Nhà xuất bản
Quốc phòng - An ninh
Thế trận lòng dân
Xã hội chủ nghĩa

Chữ viết tắt
CQBĐ
KT - XH
Nxb
QPAN
TTLD
XHCN


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
THẾ TRẬN LÒNG DÂN TRONG BẢO VỆ CHỦ
QUYỀN BIỂN, ĐẢO Ở TỈNH KHÁNH HÒA
11

1.1

HIỆN NAY
Một số vấn đề lý luận về thế trận lòng dân trong bảo vệ



11

1.2

chủ quyền biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa hiện nay
Thực trạng thế trận lòng dân trong bảo vệ chủ quyền

biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa hiện nay
Chương 2 YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN XÂY

29

DỰNG THẾ TRẬN LÒNG DÂN TRONG BẢO VỆ
CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO Ở TỈNH KHÁNH HÒA
46

2.1

HIỆN NAY
Yêu cầu xây dựng thế trận lòng dân trong bảo vệ chủ

46

2.2

quyền biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa hiện nay
Một số giải pháp cơ bản xây dựng thế trận lòng dân trong
bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa hiện nay


52
82
84
89

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân dân có vai trò rất to lớn trong sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định: quần chúng nhân dân quyết định sự
phát triển của xã hội, chính nhân dân lao động là người làm nên lịch sử. Lịch
sử dân tộc Việt Nam là lịch sử dựng nước gắn liền với giữ nước, những thắng
lợi vẻ vang của ông cha ta từ xưa đến nay đều dựa trên sức mạnh của nhân
dân và khẳng định phải biết “lấy dân là gốc”. Cội nguồn của tư tưởng Hồ Chí
Minh và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng của Người là “Dân là gốc
nước”. Người thường nói: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân
liệu cũng xong”. Nhân dân có trí tuệ và sức mạnh vô tận, lực lượng nhân dân là
nhân tố quyết định nhất để thực hiện mọi công việc của cách mạng sức mạnh đó
hội tụ ở “Lòng dân”. “Lòng dân” thể hiện ở tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự
tôn dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, không chịu khuất phục trước kẻ thù, tinh thần
chịu đựng khó khăn, gian khổ, lòng căm thù giặc sâu sắc, ý chí quyết tâm chiến
đấu cao, sẵn sàng đóng góp sức người, sức của cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc,
sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp chung. Trong bảo vệ Tổ quốc, dựa vào
nhân dân là một đảm bảo chắc chắn cho thắng lợi của cuộc đấu tranh. Tuy nhiên,

những yếu tố trên phải được định hướng, quy tụ, được chăm lo xây dựng, phát
huy trên cơ sở sự lãnh đạo và quản lý tập trung, thống nhất theo một mục tiêu
xác định. Chỉ có như vậy TTLD mới vững chắc, trường tồn, trở thành bức tường
thành vững chắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ khi mới thành lập và trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng
Việt Nam, Đảng ta luôn chăm lo xây dựng TTLD, củng cố, xây dựng mối
quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Cách mạng Việt Nam giành được
những thắng lợi vĩ đại trong hơn tám thập kỷ qua là nhờ sức mạnh của nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, của TTLD, không có sự đồng tình ủng hộ, sự
đoàn kết thống nhất, những hy sinh to lớn của nhân dân không thể có thắng
lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc và những thành tựu của công cuộc đổi
mới như hiện nay.
3


Trong Văn kiện Hội nghị lần thứ chín, Ban Chấp hành Trung ương khóa
X đã khẳng định: “Chú trọng xây dựng TTLD làm nền tảng phát huy sức
mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI tiếp
tục khẳng định: “… xây dựng TTLD vững chắc trong thực hiện chiến lược
bảo vệ Tổ quốc”. Điều này cho thấy, xây dựng TTLD nói chung, TTLD trong
bảo vệ chủ quyền biển, đảo tỉnh Khánh Hòa nói riêng là vấn đề cơ bản, lâu
dài, mang tính chiến lược của Đảng ta.
Vùng biển, đảo tỉnh Khánh Hòa có vị trí chiến lược về kinh tế, chính
trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại hết sức quan trọng. Tình hình mọi mặt
trên vùng biển, đảo tỉnh Khánh Hòa đặc biệt là quần đảo Trường Sa - vùng
đất thiêng liêng - điểm cực đông của Tổ quốc đang xuất hiện nhiều tình
huống liên quan trực tiếp đến chủ quyền, an ninh quốc gia, CQBĐ của Tổ
quốc, trong khi đó các LLVT nhân dân, quân đội đóng quân trên địa bàn tỉnh
và trên vùng biển, đảo tỉnh Khánh Hòa thường xuyên phải đối mặt với các
tình huống về an ninh, quốc phòng mà chỉ riêng các LLVT địa phương, quân

đội khó có thể giải quyết được.
Thế trận lòng dân trên cả nước nói chung, ở tỉnh Khánh Hòa nói riêng
luôn được Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm xây dựng và đã đạt được những kết
quả đáng khích lệ, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ CQBĐ của Tổ quốc.
Tuy nhiên, do nhiều lý do khách quan và chủ quan nên TTLD trên vùng biển,
đảo tỉnh Khánh Hòa vẫn còn những hạn chế, đồng thời cũng đang gặp phải
không ít khó khăn, bất cập, cả những nguy cơ, thách thức mới đang đặt ra đối
với việc xây dựng TTLD ở đây. Đặc biệt, diễn biến phức tạp của tình hình Biển
Đông thời gian qua, sự chống phá, chia rẽ, kích động của các thế lực thù địch
đã và đang gây ra những tác động tiêu cực tới niềm tin của nhân dân, sức mạnh
của TTLD trên địa bàn.
Thực tiễn đó đặt ra yêu cầu cấp thiết phải xây dựng TTLD trong bảo vệ
chủ quyền biển, đảo trên địa bàn tỉnh. Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn
vấn đề: “Xây dựng thế trận lòng dân trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở
tỉnh Khánh Hòa hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của luận văn.
4


2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đề tài
* Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh
nhân bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Viện KHXHNVQS, Một số vấn đề về chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ
quốc XHCN trong điều kiện mới. Nxb QĐND. Hà Nội, 2002. Viện
KHXHNVQS, Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới - một số vấn đề lý luận và
thực tiễn. Nxb QĐND. Hà Nội, 2003. Viện KHXHNVQS, Bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN trong thời kỳ đổi mới. Nxb QĐND. Hà Nội, 2010.
* Nhóm công trình nghiên cứu học thuyết của V.I Lênin về bảo vệ Tổ
quốc XHCN; tư tưởng Hồ Chí Minh về dựng nước và giữ nước, về bảo vệ Tổ
quốc XHCN. Tiêu biểu như:

Viện KHXHNVQS, Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Nxb QĐND. Hà Nội, 2007. Viện KHXHNVQS, Tư tưởng Hồ Chí Minh về
dựng nước, đi đôi với giữ nước. Nxb QĐND. Hà Nội, 2004. Viện
KHXHNVQS, Học thuyết bảo vệ Tổ quốc XHCN của V.I Lênin - Giá trị lịch
sử và hiện thực. Nxb CTQG. Hà Nội, 2011.
Một số công trình nghiên cứu về quân đội nhân dân, xây dựng các LLVT
nhân dân vững mạnh về chính trị. Tổng cục Chính trị, Xây dựng nền tảng
chính trị - xã hội của LLVT nhân dân trong thời kỳ mới. Nxb QĐND. Hà Nội,
2003. Viện KHXHNVQS, Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính
trị. Nxb QĐND. Hà Nội, 2007.
Một số công trình nghiên cứu về xây dựng và động viên sức mạnh
chính trị - tinh thần trong công cuộc giữ nước của dân tộc ta; xây dựng ý
thức bảo vệ Tổ quốc XHCN; xây dựng nhân tố chính trị - tinh thần của
quân đội, nhân dân sẵn sàng đánh thắng chiến tranh công nghệ cao của chủ
nghĩa đế quốc chống Việt Nam. Viện KHXHNVQS, Xây dựng và động
viên sức mạnh chính trị - tinh thần trong công cuộc giữ nước của dân tộc
Việt Nam. Nxb CTQG. HN. 2009. Viện KHXHNVQS, Xây dựng chính trị tinh thần của nhân dân và quân đội ta sẵn sàng đánh thắng cuộc tiến công
5


hỏa lực bằng vũ khí công nghệ cao của Mỹ đối với Việt Nam. Nxb QĐND.
Hà Nội, 2002. Lê Minh Vụ (chủ biên), Chuẩn bị và động viên chính trị tinh thần của nhân dân và quân đội nhằm đánh thắng chiến tranh kiểu mới
của địch. Nxb QĐND. Hà Nội, 2006. Phùng Khắc Đăng (chủ biên), Một số
vấn đề về giáo dục chủ nghĩa yêu nước, xây dựng ý chí quyết chiến, quyết
thắng cho quân và dân ta trong thời kỳ mới. Nxb QĐND. Hà Nội, 2006. Lê
Minh Vụ (chủ biên), Xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN thời kỳ mới.
Nxb CTQG. Hà Nội, 2009. Lê Minh Vụ (chủ biên), Nguyễn Bá Dương
(đồng chủ biên), Xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN của người dân
Việt Nam - định hướng và giải pháp. Nxb QĐND. Hà Nội, 2011.
* Nhóm công trình nghiên cứu về thế trận lòng dân trong công cuộc giữ

nước của dân tộc ta (thế kỷ thứ X đến thế kỷ XIX); một số bài báo nghiên cứu
về xây dựng thế trận lòng dân trong khu vực phòng thủ, trong sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc hiện nay:
Nguyễn Mạnh Hưởng, TTLD của nền quốc phòng toàn dân và thế trận
chiến tranh nhân dân ở nước ta hiện nay, in trong sách: Tạp chí giáo dục lý
luận chính trị quân sự với công tác tư tưởng - lý luận trong quân đội. Nxb
QĐND. Hà Nội, 2003, trang 229 - 234. Viện KHXHNVQS, TTLD trong sự
nghiệp giữ nước của dân tộc Việt Nam. Nxb. QĐND. Hà Nội, 2007. Dương
Văn Thực, TTLD trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Báo Quân đội
nhân dân điện tử, thứ hai, ngày 13/6/2011. 22:2’( GMT+ 7). Trần Đức Xê,
Xây dựng “thế trận lòng dân” trọng tâm của xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần trong khu vực phòng thủ. Tạp chí Quốc phòng toàn dân điện tử. Chủ
nhật, ngày 31/7/2011- 10: 19’ 17.
* Những công trình đề cập chung đến biển, đảo Việt Nam có các tác phẩm:
Ban Tuyên giáo Trung ương, Phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền
biển, đảo Việt Nam. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. Tác
phẩm này đã đề cập đến vị trí vai trò tiềm năng của biển và kinh tế biển Việt
Nam trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế đồng thời tác phẩm đề cập
đến bảo vệ quốc phòng - an ninh trên biển. Ban Biên giới, Bộ Ngoại giao
6


(1998), Một số suy nghĩ về xây dựng chiến lược phát triển kinh tế và quốc
phòng trên biển. Phụ lục giáo trình về nâng cao năng lực quản lý biển.
Ban Tuyên giáo Trung ương, Hà Nội, 2007, Biển và hải đảo Việt Nam.
Tác phẩm đề cập một số nhân tố mới về phát triển kinh tế biển Việt Nam.
Viện Đông Nam Á, Biển với người Việt cổ, Nhà xuất bản Văn hóa thông
tin, Hà Nội, 1996. Tác phẩm đề cập khái quát lịch sử cổ xưa cái nhìn về
biển của Việt Nam và quá trình khai thác tài nguyên biển của người Việt.
Nguyễn Văn Kim (chủ biên), Người Việt với biển. Nhà xuất bản Thế giới,
Hà Nội, 2011.

Đây là những tác phẩm đề cập đến tiềm năng vị thế, chiến lược biển
trong phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng - an ninh trên biển.
* Một số công trình nghiên cứu của nước ngoài có liên quan đến biển,
đảo Việt Nam:
Sức mạnh về chiến lược trên biển của Trung Quốc của John Wilson
Lewis Xue Litai. Quyền lực trên biển của nhà nước của Gorshkov - cựu Tư
lệnh Hải quân Liên Xô đã chỉ rõ, thực chất quyền lực trên biển của nhà nước
là biết lợi dụng có hiệu quả nhất khả năng trên các biển của thế giới để phục
vụ cho lợi ích quốc gia.
Khai thác trên mạng Internet, còn khá nhiều các bài viết của các tác giả
nước ngoài đề cập đến các khía cạnh khác nhau về vấn đề tăng cường khả
năng phòng thủ trên biển của nhiều quốc gia trên thế giới. Trong số đó, đáng
chú ý là các bài: Tống Yên Hung (1998) với “Trung Quốc lập pháp biển từng
bước dồn ép các nước”; Vijay Sakhuja (2001) với “Sức mạnh kinh tế biển của
Trung Quốc”; Andrew Kennedy (2003) với “Tình hình an ninh ở khu vực
Biển Đông”; James A.Boutilier (2003) với “Bức tranh về xung đột và hợp tác
ở khu vực biển châu Á”; A.Stalbov (2005), “Hoạt động kinh tế - quốc phòng
của Nga trong việc khai thác vùng biển khu vực”.
Tất cả các bài viết tập trung bàn về vấn đề an ninh, xung đột chủ quyền
biển và xu hướng hợp tác, tăng cường sức mạnh quân sự trên biển.
7


Như vậy, cho đến nay đã có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu khoa học
các cấp được công bố đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau có liên quan
đến biển, đảo; liên quan đến nội dung xây dựng TTLD trong sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc XHCN. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về
xây dựng TTLD trên một địa bàn tỉnh có đặc thù về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại như biển, đảo tỉnh Khánh Hòa. Vì
vậy, đề tài là công trình nghiên cứu độc lập của tác giả, có thể kế thừa những

nội dung nghiên cứu của các công trình có liên quan đến đề tài, nhưng không
trùng lặp với các công trình khoa học, luận án, luận văn đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn TTLD
trong bảo vệ CQBĐ, đề xuất yêu cầu, giải pháp cơ bản xây dựng TTLD trong
bảo vệ biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa hiện nay.
* Nhiệm vụ của đề tài
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về TTLD trong bảo vệ CQBĐ ở tỉnh
Khánh Hòa.
- Đánh giá thực trạng TTLD bảo vệ CQBĐ ở tỉnh Khánh Hòa.
- Đề xuất yêu cầu, những giải pháp cơ bản xây dựng TTLD bảo vệ
CQBĐ ở tỉnh Khánh Hòa hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Thế trận lòng dân trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa
hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận - thực tiễn về TTLD trong
bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa bao gồm hoạt động của cấp
ủy, chính quyền, nhân dân các huyện, thành phố, huyện đảo Trường Sa và
các hoạt động của các cấp, các ngành, các LLVT nhân dân thuộc địa bàn
tỉnh Khánh Hòa.
8


Số liệu, tư liệu phục vụ cho đề tài giới hạn chủ yếu từ năm 2007 (bắt đầu
triển khai thực hiện Nghị quyết TW4 Khóa X của Đảng về “Chiến lược biển
Việt Nam đến năm 2020”) đến 2014.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài

* Phương pháp luận
Cơ sở lý luận:
Đề tài nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về bảo vệ
Tổ quốc XHCN, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng nền quốc phòng toàn dân,
thế trận chiến tranh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân trong sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc XHCN.
Cơ sở thực tiễn:
Cơ sở thực tiễn của đề tài bao gồm thực tiễn hoạt động của Đảng, Nhà
nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, ở các
cấp, các ngành, các LLVT nhân dân, quân đội nhân dân và của nhân dân tỉnh
Khánh Hòa trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN trong những năm qua.
Đồng thời, đề tài cũng nghiên cứu các kinh nghiệm lịch sử của dân tộc ta về
xây dựng TTLD trong sự nghiệp giữ nước. Những tư liệu, số liệu mà tác giả
nghiên cứu, khảo sát ở tỉnh Khánh Hòa trong quá trình thâm nhập thực tế. Tác
giả sử dụng các nguồn tư liệu, tài liệu đó để nghiên cứu, luận giải những nội
dung nghiên cứu của đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng tổng hợp phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Đồng thời, tác giả sử dụng
tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: phương pháp
logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, so sánh, thống kê, trừu tượng hóa, khái
quát hóa, phương pháp điều tra xã hội học … để thực hiện các nhiệm vụ của
đề tài đặt ra.
9


6 .Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa
học cho cấp ủy, chính quyền tỉnh Khánh Hòa, các cơ quan ở các cấp, các

ngành, các đơn vị quân đội, LLVT nhân dân tiến hành xây dựng TTLD
bảo vệ chủ quyền biển, đảo trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa nói riêng và các
tỉnh ven biển nói chung, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo
Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu,
tham khảo trong học tập và giảng dạy cũng như tuyên truyền về bảo vệ chủ
quyền biển, đảo trong các đơn vị LLVT và với nhân dân.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm phần Mở đầu, 2 chương (4 tiết) kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phần phụ lục.

10


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
THẾ TRẬN LÒNG DÂN TRONG BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO
Ở TỈNH KHÁNH HÒA HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề lý luận về thế trận lòng dân trong bảo vệ chủ
quyền biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa hiện nay
1.1.1. Quan niệm thế trận lòng dân trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở
tỉnh Khánh Hòa hiện nay
* Đặc điểm vùng biển, đảo của tỉnh Khánh Hòa
Điều kiện tự nhiên
Khánh Hòa nằm ở vị trí cực Đông của đất nước, trải dài theo hướng Bắc Nam trên 120 km theo đường chim bay, bờ biển dài 385 km, có gần 200 đảo lớn
nhỏ gần bờ và trên 100 đảo, bãi đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa. Đặc biệt,
có 3 vịnh nổi tiếng là vịnh Vân Phong nằm cách thành phố Nha Trang khoảng
80 km về phía Bắc. Trong đó có nổi bật nhất vịnh Cam Ranh với chiều dài 32
km, chiều rộng 16 km, thông với biển thông qua eo biển rộng 1,6 km, có độ
sâu từ 18 - 20m và thường được xem là cảng biển có điều kiện tự nhiên tốt

nhất Đông Nam Á trước đây được sử dụng làm căn cứ quân sự của Hoa Kỳ
rồi Liên Xô (sau này là Nga). Vịnh Nha Trang là một trong 29 vịnh đẹp nhất
thế giới. Tiếp đó là bãi biển Nha Trang dài 7 km.
Khánh Hòa có diện tích 5.217,6 km2, dân số 1.167.744 người (năm
2010). Địa giới tỉnh kéo dài từ vĩ độ 11055’00’N đến vĩ độ 12054’00’B, phía
bắc giáp tỉnh Phú Yên; tây giáp tỉnh Đắk Lắk, Lâm Đồng; nam giáp tỉnh Ninh
Thuận và phía đông là biển Đông. Đây là vị trí thuận lợi để tiến ra biển trong
khai thác nguồn lợi và lùi lại có thể trấn giữ dải lãnh thổ ven biển và hải đảo.
Khánh Hòa hiện nay bao gồm hai thành phố trực thuộc (Nha Trang, Cam
Ranh), một thị xã (Ninh Hòa) và 6 huyện (Vạn Ninh, Diên Khánh, Khánh
Vĩnh, Khánh Sơn, Cam Lâm, Trường Sa), trong đó có 6/9 đơn vị hành chính
với 48/138 xã, phường tiếp giáp biển.
11


Huyện đảo Trường Sa, vùng lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam
trên biển Đông với diện tích 180.000km 2, gồm hơn 100 đảo lớn nhỏ, bãi đá
ngầm và bãi đá san hô. Tiềm năng vô cùng phong phú về hải sản, khoáng sản
cùng với giá trị chiến lược về hàng hải và quốc phòng - an ninh đang là lợi thế
to lớn để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Khánh Hòa.
Quốc lộ 1A, tuyến đường sắt Bắc - Nam chạy dọc theo địa phận Tỉnh,
nối Khánh Hòa với các tỉnh, thành phố trong cả nước. Quốc lộ 26 nối Khánh
Hòa với các tỉnh Tây Nguyên. Tỉnh lộ 723 nối Khánh Hòa với Lâm Đồng.
Nhiều cảng biển nước sâu như: cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong, cảng
Nha Trang, cảng Cam Ranh…có vai trò vừa là cảng trung chuyển thương mại
quốc tế, vừa là vị trí chiến lược hết sức quan trọng cho thế trận quốc phòng
trên biển của nước ta.
Khánh Hòa là một địa phương được Đảng, Nhà nước giao trọng trách
xây dựng các mô hình thí điểm về khu kinh tế biển, khu kinh tế - quốc phòng
trên biển. Vì vậy, mọi chủ trương biện pháp đều là mới mẻ, chưa có tiền lệ,

chắc chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh.
Biển Khánh Hòa là vùng biển có tranh chấp, cơ chế quản lý của Nhà nước
chưa hoàn thiện, còn chồng chéo, gây khó khăn nhất định cho quá trình quản
lý và lãnh đạo phát triển kinh tế biển của tỉnh.
* Tình hình kinh tế - xã hội
Tổng sản phẩm nội địa tăng bình quân hàng năm gần 11%, GDP bình đầu
người năm 2010 đạt 1.500 USD/năm; chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến năm 2010
tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 43,5%, dịch vụ - du lịch chiếm
43,5%, nông lâm thuỷ sản chiếm 13%; thu ngân sách năm 2010 đạt trên 7.000 tỷ
đồng, huy động vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt trên 47.000 tỷ đồng.
Theo số liệu điều tra ngày 01/04/2009 dân số tỉnh Khánh Hòa là
1.156.903 người với mật độ dân số toàn tỉnh là 222 Người/km²
Khánh Hòa là địa phương có rất nhiều dân tộc sinh sống với 32 dân tộc
trên địa bàn tỉnh, trong đó dân tộc Kinh chiếm 95,3% sống phân bố đều khắp
huyện, thị, thành phố, nhưng tập trung nhiều nhất vẫn là các vùng đồng bằng,
12


thành phố, thị xã, thị trấn. Dân tộc Raglai chiếm 3,4% sống tập trung chủ yếu
ở hai huyện Khánh Sơn, Khánh Vĩnh trong các bản làng (palây). Dân tộc Hoa
chiếm 0,86% sống phân tán, xen kẽ với người Kinh tại các huyện đồng bằng.
Các nhóm chính khác gồm Cơ - ho chiếm 0,34%, Ê-đê chiếm 0,25%... Ngoài
ra, còn có các dân tộc Tày, Nùng, Mường, Chăm... Người Chăm là cư dân bản
địa ở Khánh Hòa.
Khánh Hòa có 293.280 người có tín ngưỡng chiếm 28,7% dân số toàn
tỉnh, nhiều nhất là Phật giáo 180.503 người, chiếm 17,6%; Công giáo
97.518 người, chiếm 9,6%, còn lại là Tin Lành 0,7%, Cao Đài 0,7%; các
tôn giáo khác 0,1%. Phật giáo tập trung nhiều nhất ở Nha Trang (50,4%);
Công giáo, Cao Đài tập trung ở Cam Ranh; Tin Lành tập trung ở Khánh
Vĩnh. Mỗi dân tộc, mỗi tôn giáo mang đậm bản sắc văn hóa riêng làm giàu

cho nền văn hóa chung của tỉnh nhưng cũng là đặc điểm ảnh hưởng rất lớn
cho việc xây dựng TTLD ở đây.
Trên vùng biển, đảo tỉnh Khánh Hòa hiện nay, do vị thế đặc biệt quan
trọng về quốc phòng - an ninh nên là một vùng có nhiều đơn vị quân đội đóng
quân. Đó là Học viện Hải quân, Trường Sỹ quan Thông tin, Trường Sỹ Quan
Không quân, Vùng Bốn Hải quân và các đơn vị trực thuộc như các đơn vị
binh chủng hợp thành, lữ đoàn tàu chiến, Hải quân đánh bộ… và nhiều đơn vị
thuộc các quân, binh chủng khác như Sư đoàn 377 - Quân chủng Phòng
không - Không quân, Sư đoàn 305 Thông tin - Quân khu V Bộ đội Biên
phòng, Cảnh sát Biển… Cùng với lực lượng bộ đội địa phương được tổ chức
từ cấp tỉnh đến các thành phố, các huyện và dân quân, tự vệ rộng khắp, trên
vùng biển, đảo tỉnh Khánh Hòa còn có hàng chục vạn ngư dân với hàng ngàn
tàu thuyền thường xuyên hoạt động trên biển… tạo nên thế trận quốc phòng
toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc trên biển; mặt khác, đây cũng
là sự khẳng định chủ quyền của nước ta đối với vùng biển truyền thống và
vùng biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Ngày nay, vùng biển, đảo tỉnh khánh Hòa vẫn là nơi đang diễn ra
những tranh chấp phức tạp và quyết liệt về chủ quyền nhất là quan hệ giữa
13


Việt Nam và Trung quốc; nơi tiềm ẩn những bất trắc khó lường, thách
thức, đe dọa đến sự toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, sự an ninh của
nước ta trên biển và từ hướng biển. Vùng biển, đảo tỉnh Khánh Hòa vẫn
phải đang đối mặt với những hoạt động xâm phạm chủ quyền, lợi ích của
Tổ quốc, như các hoạt động thăm dò dầu khí, xâm nhập, lấn chiếm biển,
đảo … gây ra tình trạng căng thẳng trong quan hệ giữa Việt Nam với một
số nước, đồng thời cũng là vùng đặc biệt phức tạp, thường xuyên diễn ra
tình trạng buôn lậu trên biển, hoạt động của tội phạm.
Hướng ra biển, tiến ra biển đã và đang trở thành xu thế chung của thế

giới và của khu vực. Thế kỷ XXI là thế kỷ của biển và đại dương. Do lợi
ích về KT-XH, chính trị, quốc phòng, an ninh mà biển đem lại cho các
quốc gia ngày càng lớn và đa dạng, nên đã phát sinh nhiều mâu thuẫn về
quyền lợi giữa các nước có biển và những nước không có biển, gây ra
những tranh chấp phức tạp và quyết liệt về chủ quyền, quyền chủ quyền,
quyền tài phán và lợi ích trên biển.
Từ những phân tích trên càng khẳng định vị thế đặc biệt quan trọng của
vùng biển, đảo tỉnh Khánh Hòa trong nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, thế trận chiến tranh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân trên biển, sẵn sàng
đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, ngăn chặn
các hành động xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ, vùng biển, đảo của Tổ quốc.
* Nội dung bảo vệ chủ quyền biển, đảo
Bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam là bảo vệ quyền sở hữu, quản lý,
sử dụng và bảo vệ các vùng biển, đảo và quần đảo theo luật pháp của Việt
Nam và tuân theo luật pháp quốc tế. Biển, đảo là bộ phận không thể tách rời
của lãnh thổ Việt Nam. Điều 3 Luật biển Việt Nam (21/6/2012) khẳng định:
“Vùng biển Việt Nam bao gồm nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và
quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, được xác định theo pháp luật Việt
Nam, điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ mà nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam là thành viên và phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển
14


năm 1982”. Điều 19 cũng khẳng định: “Đảo, quần đảo thuộc chủ quyền của
Việt Nam là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam”.
Từ mục tiêu và nhiệm vụ bảo vệ CQBĐ cần hiểu rõ một số khái niệm:
Chủ quyền là quyền làm chủ tuyệt đối của quốc gia độc lập đối với lãnh
thổ của mình. Chủ quyền của quốc gia ven biển là quyền tối cao của quốc gia
được thực hiện trong phạm vi nội thủy và lãnh hải của quốc gia đó.

Quyền chủ quyền là các quyền của quốc gia ven biển được hưởng trên cơ
sở chủ quyền đối với mọi loại tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa của mình, cũng như đối với những hoạt động nhằm
thăm dò và khai thác vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia đó vì
mục đích kinh tế, bao gồm cả việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu, gió...
Quyền tài phán là thẩm quyền riêng biệt của quốc gia ven biển trong
việc đưa ra các quyết định, quy phạm và giám sát việc thực hiện chúng, như:
cấp phép, giải quyết và xử lý đối với một số loại hình hoạt động, các đảo
nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển, trong đó có việc lắp đặt và sử dụng
các đảo nhân tạo các thiết bị và công trình nghiên cứu khoa học về biển; bảo
vệ và gìn giữ môi trường biển trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa
của quốc gia đó.[2]
Quyền chủ quyền có nguồn gốc từ chủ quyền lãnh thổ trong khi quyền
tài phán là hệ quả của quyền chủ quyền, có tác dụng hỗ trợ, tạo ra môi trường
để thực hiện quyền chủ quyền được tốt hơn. Bên cạnh đó, trong khi chủ
quyền và quyền chủ quyền chỉ được thực hiện trên vùng lãnh thổ mà quốc gia
có quyền thì quyền tài phán có không gian mở rộng hơn, tới những nơi mà
quốc gia đó không có chủ quyền (ví dụ quyền tài phán áp dụng trên tàu
thuyền có treo cờ của một quốc gia nhất định đang hoạt động trong vùng biển
thuộc chủ quyền của một quốc gia khác).
* Quan niệm thế trận lòng dân trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở tỉnh
Khánh Hòa
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử giữ nước của dân tộc Việt Nam đã
chứng kiến: thế trận toàn dân giữ nước bao hàm thế trận trên các lĩnh vực như
15


kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự, ngoại giao, cả trên lĩnh vực hoạt động vật
chất và trên lĩnh vực hoạt động tinh thần của toàn thể dân tộc. Thế trận toàn
dân giữ nước ấy huy động toàn thể dân tộc, mọi con dân đất Việt tất cả các

vùng miền của Tổ quốc, trên cơ sở những yếu tố mang bản chất truyền thống
của người Việt là lòng yêu nước, ý thức tự hào, tự tôn dân tộc. Trong điều
kiện một nước quân không đông, tiềm lực kinh tế không mạnh, vũ khí không
hiện đại so sánh tương quan lực lượng với kẻ thù còn thua kém nhiều mặt, thường
phải “lấy yếu chống mạnh”, “lấy ít địch nhiều”, thì không còn cách nào khác phải
phát huy cao nhất sức mạnh chính trị - tinh thần, dựa chắc vào đó mà xây dựng thế
trận toàn dân giữ nước, nhờ đó mới tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn hơn hẳn kẻ thù
để giữ nước thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Toàn dân Việt Nam
chỉ có một lòng: quyết không làm nô lệ. Chỉ có một chí: quyết không chịu mất
nước. Chỉ có một mục đích: kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho
Tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng bào đúc thành một bức tường đồng chung quanh
Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyết đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường
đó, chúng cũng phải thất bại”[29].
Lòng dân bao gồm nhận thức, tình cảm, niềm tin và ý chí chiến đấu vì độc
lập của toàn dân tộc, trong đó cốt lõi và bao trùm nhất là lòng yêu nước, tinh
thần đoàn kết, ý chí quyết tâm chiến đấu hy sinh vì sự tồn vong của Tổ quốc.
Các yếu tố đó được các lực lượng đại biểu lợi ích của dân tộc khơi dậy, quy tụ,
phát huy, tạo nên nền tảng chính trị - tinh thần vững chắc, cho phép huy động
sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu giữ nước.
Cội nguồn sâu xa của TTLD là lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc,
ý chí tự lực, tự cường, không chịu khuất phục trước kẻ thù, tinh thần sẵn sàng
hi sinh vì nghĩa lớn, vì độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc. Đó
chính là nguồn gốc, động lực tạo nên bản lĩnh, khí phách, truyền thống anh
hùng của nhân dân ta, dân tộc ta trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Vì vậy, TTLD trong bảo vệ CQBĐ là nền tảng chính trị - tinh thần của
nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, của tiềm lực quốc
phòng của đất nước, phát huy sức mạnh chính trị - tinh thần của nhân dân vì sự
16



nghiệp bảo vệ vững chắc CQBĐ. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng khẳng định: “Giữ vững an ninh nội địa, giải quyết kịp thời các mâu
thuẫn, tranh chấp trong nhân dân; xây dựng thế trận lòng dân làm nền tảng phát
huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó Quân đội nhân dân và Công an
nhân dân là nòng cốt”. [14. Tr.190]
Với cách tiếp cận trên có thể quan niệm: Thế trận lòng dân trong bảo vệ
chủ quyền biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa là lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý
chí chiến đấu của nhân dân được cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã
hội khơi dậy, quy tụ, phát huy, tạo nên nền tảng chính trị - tinh thần vững chắc,
cho phép huy động sức mạnh tổng hợp của địa phương vào nhiệm vụ giữ vững
chủ quyền biển, đảo quê hương.
Thế trận lòng dân trong bảo vệ CQBĐ ở tỉnh khánh Hòa là một tổ hợp các
thành tố, các bộ phận cấu thành rất phong phú, đa dạng tạo nên một chỉnh thể.
Với cách tiếp cận theo nội dung thì những yếu tố cấu thành TTLD trong bảo vệ
CQBĐ ở tỉnh Khánh Hòa bao gồm:
Một là, nhận thức, tinh thần yêu nước của nhân dân trong bảo vệ CQBĐ
Trong nội hàm của TTLD thì lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý
thức tự lực, tự cường của nhân dân ta, đó là nền tảng, nguồn gốc, động lực của
thế trận toàn dân bảo vệ Tổ quốc. Lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí chiến
đấu của toàn dân được củng cố, giữ vững và nâng cao là cơ sở có ý nghĩa quyết
định để huy động toàn dân tham gia giữ nước, xây dựng nền quốc phòng toàn
dân, thực hiện khởi nghĩa toàn dân, chiến tranh nhân dân giữ nước. Đó là bí
quyết giữ nước của dân tộc Việt Nam. Vì thế, lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết,
ý chí chiến đấu của toàn thể nhân dân - “lòng dân”, là nhân tố nền tảng tạo nên
sức mạnh vô địch của sự nghiệp bảo vệ CQBĐ.
Lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí chiến đấu của toàn thể nhân dân
là những phẩm chất quý báu đã trở thành truyền thống của dân tộc Việt Nam
cũng như của nhân dân Khánh Hòa. Lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí
chiến đấu của toàn dân trong việc bảo vệ và khẳng định mình trước cộng đồng
nhân loại, trước các thế lực ngoại bang bắt nguồn từ chính điều kiện KT-XH,

truyền thống lịch sử và tầng sâu văn hóa dân tộc ở tỉnh Khánh Hòa.
17


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: lòng yêu nước, sự đoàn kết của
toàn dân là một lực lượng vô địch trong sự nghiệp giữ nước Việt Nam. Người
viết: “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to
lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng quân
Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà
chúng ta cách mạng thành công, giành được độc lập. Nhờ lực lượng ấy mà sức
kháng chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và dân ta
quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói khổ, tang tóc, quyết một
lòng đánh tan quân giặc cướp nước. Nhờ lực lượng ấy mà với gậy tầm vông và
súng hỏa mai lúc đầu, chúng ta đã liên tiếp thắng địch”.[30. Tr.281, 282]
Khánh Hòa là một phần của đất nước Việt Nam, nhân dân Khánh Hòa là
một phần máu thịt của dân tộc Việt Nam. Sự nhận thức rõ CQBĐ, với một ý
thức rõ ràng, đầy đủ từng vùng biển, từng hòn đảo, tình yêu vô bờ bến đối với
biển, đảo quê hương, đất nước đã trui rèn nên ý chí quật cường, quyết tâm
chiến đấu chống ngoại xâm để bảo vệ cuộc sống của mình là một nội dung cốt
lõi, một phẩm chất cao đẹp của dân tộc ta nói chung và của nhân dân Khánh
Hòa nói riêng. Tinh thần yêu nước và ý chí quật cường ấy mỗi khi đất nước
lâm nguy lại bùng lên, tạo nên bức thành vững chắc bảo vệ CQBĐ Tổ quốc.
Tinh thần và ý chí ấy đã trở thành truyền thống quý báu của những người con
mang trong mình dòng máu Lạc Hồng. V.I.Lênin đã khẳng định: Trong mọi
cuộc chiến tranh “rốt cuộc” thắng hay bại phụ thuộc vào tâm trạng của quần
chúng đang đổ máu trên chiến trường. Nhưng ở Việt Nam, nguyên lý ấy còn
được bổ sung thêm rằng: thắng hay bại của sự nghiệp toàn dân bảo vệ Tổ
quốc “rốt cuộc” phụ thuộc vào “lòng dân”.
Hai là, sự thống nhất nhận thức của nhân dân về nhiệm vụ, quyền lợi và
nghĩa vụ công dân trong sự nghiệp bảo vệ CQBĐ

Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng của TTLD trong bảo vệ CQBĐ. Bởi vì,
sức mạnh bảo vệ CQBĐ chỉ có thể được phát huy cao độ, biến thành sức
mạnh vật chất khi mỗi người dân thực sự nhận thức một cách sâu sắc về
nhiệm vụ bảo vệ CQBĐ.
18


Đó là sự hiểu biết về truyền thống, kinh nghiệm bảo vệ CQBĐ của cha
ông trong lịch sử dựng nước và giữ nước, về mục tiêu, nhiệm vụ, ý nghĩa, nội
dung, nguyên tắc, phương thức bảo vệ CQBĐ của quân và dân ta, những
chiến công, tấm gương anh dũng của quân và dân ta trong nhiệm vụ bảo vệ
CQBĐ. Nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò chiến lược của biển, đảo Việt Nam
nói chung, biển, đảo tỉnh Khánh Hòa nói riêng trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Cập nhật đầy đủ và chính xác thông tin về tình hình biển, đảo, những
khu vực biển, đảo đang còn tồn tại tranh chấp về chủ quyền giữa các nước
trong khu vực; những chứng cứ, tư liệu lịch sử có giá trị pháp lý để khẳng
định CQBĐ của dân tộc ta từ xưa đến nay. Nhận thức rõ về tình hình an ninh
quốc gia trên biển; phạm vi chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của
quốc gia về tài nguyên biển, đảo nước ta; những kiến thức cơ bản, phổ thông về
lịch sử, địa kinh tế, địa chính trị của biển, đảo Việt Nam; các quan điểm của
Đảng, các văn bản pháp luật về biển, đảo của Nhà nước ta; Công ước của Liên
hợp quốc về Luật biển năm 1982; Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển
Đông (DOC). Nhận thức về âm mưu, tham vọng “độc chiếm Biển Đông” của
Trung Quốc và thế lực nước ngoài.
Sự nhận thức sâu sắc về nhiệm vụ bảo vệ CQBĐ mọi tầng lớp nhân dân
cần hiểu rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng nước ta của chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo
loạn lật đổ, tiến hành chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao khi có thời cơ; gây
xung đột quân sự, lấn chiếm lãnh thổ, CQBĐ của Tổ quốc; hiểu rõ các đối tác,
đối tượng của cách mạng nước ta; có tinh thần cảnh giác cách mạng, không chủ

quan, mơ hồ về bạn, thù, không ảo tưởng, mất cảnh giác trước những biến đổi
mau lẹ của tình hình thế giới, khu vực liên quan đến bảo vệ CQBĐ, là những nội
dung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng tạo nên TTLD ở Khánh Hòa.
Nhân dân ta hiểu rõ, quán triệt sâu sắc mọi đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Trên cơ sở đó mỗi người dân nhận thức sâu sắc, đầy đủ về quyền và
nghĩa vụ công dân trong sự nghiệp bảo vệ CQBĐ sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ
19


bảo vệ Tổ quốc. Chỉ có như vậy, TTLD mới đủ sức đảm bảo cho nhiệm vụ
bảo vệ CQBĐ.
Còn một khi người dân thờ ơ, bàng quan về chính trị, không quan tâm đến
nhiệm vụ bảo vệ CQBĐ, không hiểu biết về yêu cầu nhiệm vụ, nội dung,
phương thức bảo vệ CQBĐ; không quan tâm đến âm mưu, thủ đoạn chống phá
của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, không quan tâm đến tình hình
chính trị trong nước và thế giới, từ đó cũng không quan tâm đến quyền và
nghĩa vụ công dân trong sự nghiệp bảo vệ CQBĐ thì đó là nguy cơ lớn đối với
sự mất còn của biển, đảo quê hương - vùng lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
Ba là, Niềm tin và thái độ đồng lòng, hưởng ứng của nhân dân đối với
quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước và chủ trương, chính sách của
tỉnh Khánh Hòa đối với nhiệm vụ bảo vệ CQBĐ
Thế trận lòng dân trong bảo vệ CQBĐ khi được toàn thể nhân dân, các
lực lượng hợp sức, đồng lòng ủng hộ quan điểm, đường lối lãnh đạo của
Đảng, chủ trương chính sách của ủy ban nhân dân, hội đồng nhân dân tỉnh
trong chống ngoại bang xâm lược, chống các lực lượng phản bội Tổ quốc, các
lực lượng xâm phạm CQBĐ xâm hại lợi ích của nhân dân. Nhân dân luôn tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo của chính quyền, sẵn sàng mang
hết sức người, sức của để bảo vệ CQBĐ, chống ngoại bang xâm lược dù đó là
đối tượng có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh như thế nào. “Lòng dân”

đối với Đảng, với Tổ quốc khi nào cũng có, được biểu hiện ở tình yêu quê
hương, đất nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý thức cố kết cộng đồng dân tộc,
tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, tinh thần bất khuất, không chịu
khuất phục trước ngoại bang, lòng căm thù giặc sâu sắc, ý chí kiên cường,
khắc phục khó khăn, gian khổ, hy sinh, lòng tin vào chế độ xã hội, vào
Đảng, nhà nước, chính quyền địa phương của mình, ý chí, quyết tâm chiến
đấu, sẵn sàng đóng góp sức người, sức của, kể cả tính mạng của mình vì sự
tồn vong của Tổ quốc. Tuy mức độ khác nhau nhưng trong cuộc sống hàng
ngày những vấn đề trên luôn tồn tại trong nhận thức, tư tưởng, tình cảm, ý
chí của mỗi người. Nếu không được định hướng, tác động, quy tụ thì những
20


nhận thức, tư tưởng, tình cảm đó sẽ rơi vào tình trạng tản mạn, manh mún,
chia rẽ, thậm chí dẫn đến trái ngược nhau, mâu thuẫn với nhau, gây ra sự
khủng hoảng tư tưởng, niềm tin trong xã hội. Vì vậy, những biểu hiện về
nhận thức, tư tưởng, tình cảm, ý chí của “lòng dân” chỉ có thể trở thành
TTLD trong sự nghiệp bảo vệ CQBĐ khi được giáo dục, khơi dậy, chăm lo
củng cố, phát triển trong chỉnh thể thống nhất theo đường lối, chính sách,
mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ CQBĐ được lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ,
thống nhất từ trên xuống dưới, đồng bộ giữa các cơ quan, ban, ngành, làm
cho nhân dân thực sự tin tưởng, đoàn kết muôn người như một, cùng nhau
chung sức, đồng lòng bảo vệ CQBĐ.
Trong công cuộc bảo vệ CQBĐ ở Khánh Hòa, TTLD đã trở thành nền
tảng chính trị - tinh thần của nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh
nhân dân giữ biển, đảo. Nếu thế trận toàn dân bảo vệ biển, đảo là thế trận của
lực lượng vật chất và tinh thần trên mọi lĩnh vực của tỉnh Khánh Hòa được tổ
chức, xây dựng nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp để giữ vững biển, đảo, thì
TTLD là sự khơi dậy, quy tụ, phát huy lực lượng tinh thần của nhân dân, lực
lượng tinh thần này thống nhất, phù hợp với ý chí của nhân dân, trở thành nền

tảng để huy động sức mạnh toàn dân giữ vững CQBĐ. Với TTLD, công cuộc
bảo vệ CQBĐ trở nên vững chắc, bởi nó dựa vào nhân tố quan trọng nhất là
lòng người, tạo thành thế trận vừa có bề rộng, vừa có chiều sâu, cho phép huy
động tiềm lực của nhân dân toàn tỉnh vừa sẵn sàng chiến đấu bảo vệ CQBĐ
vừa củng cố ý chí của ta, làm tan rã ý chí xâm lược của các thế lực ngoại bang
xâm lấn biển, đảo.
Thái độ, lòng tin của nhân dân đối với Đảng, chính quyền nhà nước, chế
độ xã hội không phải là cái gì trừu tượng, mà nó luôn được biểu hiện, phản
ánh sinh động trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người dân. Vì vậy, ý thức,
trách nhiệm của nhân dân trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân,
thế trận chiến tranh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân trong sự nghiệp bảo
vệ CQBĐ. Đây vừa là biểu hiện sinh động của TTLD trong bảo vệ CQBĐ,
21


nhưng đồng thời thông qua đó để có chủ trương, biện pháp xây dựng, củng cố
TTLD trong bảo vệ CQBĐ vững chắc.
Bốn là, sự thống nhất ý chí quyết tâm, tinh thần sẵn sàng chiến
đấu, phục vụ chiến đấu của nhân dân Khánh Hòa trong sự nghiệp bảo
vệ CQBĐ
Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng phản ánh trình độ, cấp độ phát triển
của TTLD bảo vệ CQBĐ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền gốc để bảo vệ
vững chắc Tổ quốc là sự đoàn kết toàn dân, muôn người như một, “chỉ
một ý chí”, “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không
chịu làm nô lệ” và gắn liền với nó là thực hiện một chính sách hợp lòng
dân, vì nhân dân, vì con người trong thời bình cũng như thời chiến. Người
khẳng định một chân lý: “Không quân đội nào, không khí giới nào có thể
đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc… Trước nạn
ngoại xâm, toàn thể quốc dân đã đoàn kết chặt chẽ thành một khối kiên

cố, thành một lực lượng thống nhất mà không quân đội xâm lăng nào đánh
tan được”.[27. Tr.77, 78]
Trong tình hình hiện nay, trước âm mưu độc chiếm biển Đông của
Trung Quốc, tình hình tranh chấp biển, đảo trên biển Đông ngày càng gay
gắt đã và đang đặt ra những khó khăn, thách thức về bảo vệ CQBĐ của
nhân dân tỉnh Khánh Hòa. Một số nước trong khu vực đang đẩy mạnh công
tác tuyên truyền biển, đảo, nhằm tạo dư luận quốc tế có lợi để tìm mọi cách
chiếm ưu thế trong giải quyết tranh chấp CQBĐ đối với Việt Nam. Các thế
lực thù địch sẵn sàng gây chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao.
Tuy nhiên, trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào nhân dân Khánh Hòa
cũng luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng và ý chí quyết tâm khắc
phục mọi nguy hiểm, khó khăn, gian khổ, luôn sát cánh cùng Đảng, chính
quyền và các LLVT thống nhất cao về ý chí quyết tâm bảo vệ CQBĐ sẵn
sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, coi chiến đấu bảo vệ CQBĐ - bảo vệ
Tổ quốc là trách nhiệm cao cả và là vinh dự to lớn của mọi người dân. Sẵn
22


sàng xả thân bảo vệ CQBĐ đáp ứng yêu cầu chiến tranh bảo vệ CQBĐ
trong mọi tình huống.
1.1.2. Những nhân tố quy định sự hình thành, phát triển của thế trận lòng
dân trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở tỉnh Khánh Hòa hiện nay
- Sự hình thành, phát triển TTLD trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo ở
tỉnh Khánh Hòa phụ thuộc vào tinh thần yêu nước, truyền thống cách mạng
và đấu tranh bảo vệ CQBĐ của nhân dân nơi đây
Tình yêu quê hương xứ sở, lòng khao khát độc lập, tự do đã hun đúc cho
nhân dân Khánh Hoà lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần đấu tranh kiên
cường bất khuất. Tinh thần yêu nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa
Mác - Lênin sớm bám rễ và phát triển, làm ngọn đuốc soi đường cho nhân
dân Khánh Hoà cùng cả nước hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Khánh Hoà là nơi hoạt động của các chí sĩ yêu nước Phan Chu Trinh,
Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, những người đề xướng phong trào Duy
Tân nhằm mục đích khuyến khích tân học, ''khai dân trí, chấn dân sinh''.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nhân dân Khánh Hòa đã
có nhiều cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như cuộc khởi nghĩa của ông Trịnh Phong,
người làng Phú Vinh (xã Vĩnh Thạnh) cùng các ông Quản trấn Lê Nghi, Tổng
trấn Trần Đường, Tham tán Phạm Chánh, Tán tương quân vụ Nguyễn Khanh,
Tham tán Nguyễn Dị, Kiểm biện Nguyễn Lương, Hiệp trấn Nguyễn Sum,
Nhiếp binh Phạm Long đứng lên thành lập ''Bình Tây cứu quốc đoàn'' kêu gọi
nhân dân gia nhập nghĩa quân, đóng góp lương thực nuôi quân, rèn vũ khí,
luyện tập quân sĩ sẵn sàng chiến đấu chống quân Pháp xâm lược.
Nhờ biết cách khơi dậy tinh thần yêu nước của nhân dân, phát huy nguồn
sức mạnh từ nhân dân, nghĩa quân đã quy tụ, tập hợp nhân dân Khánh Hòa
dưới ngọn cờ giải phóng dân tộc, giải phóng quê hương. Kết quả, nghĩa quân
của Bình Tây Đại tướng quân Trịnh Phong lãnh đạo đã đánh chiếm được
thành Diên Khánh làm Tổng hành dinh, huy động nhân dân đắp đập ngăn
sông Cái để chặn tàu chiến của địch và dành nhiều thắng lợi trong kháng
chiến chống thực dân Pháp. Đây được coi là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu đầu
23


tiên của tinh thần đoàn kết nhân dân, của TTLD trong phong trào đấu tranh
cách mạng của nhân dân tỉnh Khánh Hòa chống thực dân Pháp những năm
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Ngay từ những ngày đầu khi Đảng Cộng sản Việt Nam mới ra đời,
hưởng ứng lời hiệu triệu của Đảng, Đảng bộ tỉnh Khánh Hoà đã phát động
nhân dân trong tỉnh tiến hành phong trào đấu tranh rộng lớn, mở đầu bằng
cuộc mít tinh kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1-5 (năm 1930). Tiếp đến, ngày
16-7-1930, Đảng bộ Khánh Hoà đã lãnh đạo trên 1.000 nhân dân huyện Tân
Định (nay là huyện Ninh Hoà) biểu tình với cờ đỏ búa liềm, trống lệnh rầm

rập tiến vào huyện đường Tân Định, đấu tranh đòi chính quyền bù nhìn tay sai
của thực dân Pháp bãi bỏ sưu cao, thuế nặng.
Trong những năm 30 phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân trong
tỉnh Khánh Hòa đã phát triển rộng khắp ở thị xã, thị trấn và vùng nông thôn, đi
vào các đồn điền, xí nghiệp và công sở của địch. Điển hình là cuộc đấu tranh ở
vùng cao su Đồng Trăn, Suối Dầu, công nhân hỏa xa Nha Trang, của các tầng
lớp tiểu thương, tiểu chủ ở Chợ Đầm (Nha Trang), chợ Dinh (Ninh Hoà).
Tháng 10 - 1945, sau khi đánh chiếm các tỉnh Nam Bộ, thực dân Pháp
tiến hành đánh chiếm Nha Trang - Khánh Hòa, hòng cắt đứt con đường chi
viện của quân ta từ miền Bắc và miền Trung cho miền Nam. Trước tình hình
trên, quân và dân Khánh Hòa lại bước vào cuộc chiến đấu với một khí thế sôi
nổi. Cùng các đơn vị Nam tiến, lực lượng tự vệ của tỉnh đã xây dựng các
phòng tuyến và chuẩn bị tấn công vào các mục tiêu quan trọng của địch
Trận chiến đấu mở màn ngày 23-10-1945 đã làm cho kẻ thù khiếp sợ.
Cũng từ đây, trong suốt 101 ngày đêm, quân và dân Khánh Hòa đã liên tục
tấn công kìm hãm, giam chân quân địch, làm thất bại âm mưu ''đánh nhanh
thắng nhanh'' của địch, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân trong
tỉnh cùng cả nước tiến hành thắng lợi cuộc bầu cử đầu tiên của Quốc hội
nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà (ngày 6-1-1946), được Chủ tịch Hồ Chí
Minh gửi thư khen ngợi
24


Năm 1948, Tỉnh đội Khánh Hoà được thành lập nhằm thống nhất chỉ
huy các lực lượng vũ trang và bán vũ trang trong tỉnh. Trong thời gian này,
thực hiện chủ trương đánh địch bằng cả hai mặt quân sự và binh vận, nhằm
chống lại âm mưu dùng người Việt đánh người Việt của thực dân Pháp,
quân và dân Khánh Hoà đã đánh thắng một số trận tiêu biểu như diệt đồn
Trại Cá (Cam Ranh), đồn Thương Chánh (Hòn Khói - Ninh Hoà), tiến công
đồn Vĩnh Xương. Với sự hỗ trợ tích cực của chính quyền và nhân dân địa

phương, LLVT Khánh Hòa không ngừng trưởng thành, lớn mạnh, cùng với
nhân dân tạo nên thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân
vững chắc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ CQBĐ quê
hương trong tình hình mới.
- Sự hình thành, phát triển TTLD trong bảo vệ CQBĐ ở tỉnh Khánh Hòa
phụ thuộc vào vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng, năng lực quản lý của chính
quyền các cấp, vai trò tiền phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên
Tổ chức Đảng các cấp trong tỉnh và các cấp chính quyền từ tỉnh đến
huyện (thành phố), xã (phường) là chủ thể lãnh đạo, quản lý toàn bộ quá trình
bảo vệ CQBĐ. Công tác chính trị, tư tưởng của Đảng bộ các cấp thực sự vững
mạnh; luôn được đổi mới về nội dung, phương pháp theo hướng chủ động
bám sát cơ sở, tình hình dư luận xã hội và thực tiễn của địa phương, có năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao; chính quyền các cấp trong tỉnh thực sự
trong sạch vững mạnh; phẩm chất, đạo đức, lối sống trong sạch lành mạnh
của đội ngũ cán bộ, đảng viên là yếu tố có ý nghĩa quyết định để xây dựng,
củng cố niềm tin của nhân dân, làm cho tổ chức Đảng và bộ máy chính quyền
các cấp có đủ uy tín và năng lực quy tụ, phát huy lòng yêu nước, ý thức tự
hào, tự tôn dân tộc, tinh thần tự lực, tự cường, ý chí quyết chiến, quyết thắng nội dung cốt lõi của lòng dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp, một nhân tố có ý
nghĩa quan trọng góp phần bảo đảm thực hiện thắng lợi sự nghiệp bảo vệ
CQBĐ. Đây là điều kiện tiên quyết để hình thành TTLD trong bảo vệ CQBĐ
của tỉnh Khánh Hòa hiện nay.
25


×