Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Luận văn " Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang các nước ASEAN trong khuôn khổ AFTA " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 122 trang )

§Èy m¹nh xuÊt khÈu hµng ho¸ cña ViÖt Nam sang c¸c níc trong AFTA
NguyÔn Anh Tó Líp A7 K38B
1




KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP







Đẩy mạnh xuất khẩu hàng
hoá của Việt Nam sang các
nước ASEAN trong khuôn
khổ AFTA
§Èy m¹nh xuÊt khÈu hµng ho¸ cña ViÖt Nam sang c¸c níc trong AFTA
NguyÔn Anh Tó Líp A7 K38B
2

MỤC LỤC
Mở đầu 1
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về xuất khẩu và sự hình thành khu vực mậu
dịch tự do ASEAN -AFTA 9
I. Cơ sở lý luận về đẩy mạnh xuất khẩu trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế 9
1. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá 9
1.1. Xuất khẩu giúp các quốc gia tận dụng lợi thế so sánh. 9


1.2. Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ
sự nghiệp công nghiệp hoá. 9
1.3. Xuất khẩu đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy
sản xuất phát triển 10
1.4 Xuất khẩu giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống
người dân 11
1.5 Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ
kinh tế đối ngoại 11
2. Các lý thuyết chính về thương mại 11
2.1. Mô hình cổ điển về lợi thế so sánh của David Ricardo 11
2.2. Lý thuyết tân cổ điển về lợi thế so sánh của Heckscher- Ohlin.
12
2.3. Học thuyết về chu kỳ sống của sản phẩm quốc tế 12
2.4. Lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia. 15
3. Các mô hình thương mại quốc tế được sử dụng trong hoạch định
chính sách xuất khẩu 17
3.1. Chiến lược thay thế nhập khẩu 17
3.2. Chiến lược hướng về xuất khẩu 18
4. Ngoại thương trong khu vực mậu dịch tự do 20
II. Giới thiệu về AFTA 23
1. Sự ra đời của AFTA 23
2. Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) 26
§Èy m¹nh xuÊt khÈu hµng ho¸ cña ViÖt Nam sang c¸c níc trong AFTA
NguyÔn Anh Tó Líp A7 K38B
3

2.1. Nội dung cắt giảm thuế quan 26
2.2. Cơ chế trao đổi nhượng bộ của CEPT 28
2.3. Vấn đề loại bỏ các rào cản phi thuế quan 29
3. Đặc điểm thương mại của khu mậu dịch tự do ASEAN. 30

3.1 Đi lên từ nông nghiệp 30
3.2 Đi từ sử dụng nhiều lao động đến sử dụng nhiều tư bản và
kỹ thuật cao 31
3.3 Từ chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu đến
hướng vào xuất khẩu 31
3.4. Vốn và công nghệ của nước ngoài là một trong những yếu tố
then chốt để chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu.32
4. Tác động của việc thực hiện AFTA tới các nước ASEAN 32
Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào các nước
ASEAN trước và sau khi tham gia AFTA 37
I. Quá trình hội nhập của Việt Nam vào AFTA. 37
1. Hội nhập của Việt Nam vào AFTA 37
2. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam khi gia nhập AFTA. 38
2.1. Cơ hội 39
2.2. Thách thức 40
II. Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam vào các nước
ASEAN trước khi Việt Nam gia nhập AFTA. 44
III. Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam vào các nước
ASEAN sau khi Việt Nam gia nhập AFTA. 46
1. Kim ngạch và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu 46
2. Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu 48
2.1 Dầu thô 50
2.2. Gạo 52
2.3. Linh kiện điện tử và ti vi, linh kiện máy tính và máy tính. 55
2.4. Hàng dệt may 56
2.5. Cà phê 58
§Èy m¹nh xuÊt khÈu hµng ho¸ cña ViÖt Nam sang c¸c níc trong AFTA
NguyÔn Anh Tó Líp A7 K38B
4


2.6. Thuỷ sản. 59
3. Đánh giá hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vào các nước
thành viên AFTA 62
3.1. Xuất khẩu Việt Nam sang Singapore 62
3.2. Xuất khẩu Việt Nam sang Thái Lan 66
3.3. Xuất khẩu Việt Nam sang Malaysia 68
3.5 Xuất khẩu Việt Nam - Philippines 73
3.6 Xuất khẩu của Việt Nam vào Campuchia 75
III. Đánh giá hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vào các nước trong
AFTA thời gian qua 77
1. Thành tựu. 77
2. Một số tồn tại và nguyên nhân 78
2.1 Tồn tại 78
3.2 Nguyên nhân 82
Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam
sang các nước ASEAN 84
I. Những định hướng lớn về thúc đẩy xuất khẩu sang các nước
trong AFTA 84
1. Xu hướng phát triển của AFTA trong giai đoạn tới 84
2. Định hướng chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam
vào ASEAN 87
2.1. Về quan điểm 87
2.2. Về nguyên tắc. 89
3. Định hướng cơ cấu mặt hàng xuất khẩu 89
II. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam vào
các nước trong AFTA 94
1. Giải pháp về phía Nhà nước 94
1.1 Đổi mới căn bản nội dung cơ chế chính sách: 94
1.2. Chính sách vốn – tài chính – tiền tệ – tín dụng 97
1.3. Chính sách công nghệ. 100

§Èy m¹nh xuÊt khÈu hµng ho¸ cña ViÖt Nam sang c¸c níc trong AFTA
NguyÔn Anh Tó Líp A7 K38B
5

1.5. Đảm bảo quyền bình đẳng của các chủ thể tham gia hoạt động
xuất nhập khẩu 102
1.6. Các vấn đề về thông tin thị trường và xúc tiến thương mại. 103
1.7. Đẩy mạnh cải cách hành chính, xoá bỏ các rào cản bất hợp lý
đang cản trở hoạt động xuất khẩu. 105
2. Về phía doanh nghiệp . 107
2.1 Xây dựng chiến lược dài hạn hướng ra thị trường ngoài nước.
109
2.2 Xây dựng lợi thế cạnh tranh tổng hợp trên thị trường quốc tế.
110
2.3. Đổi mới,hiện đại hoá công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu với
chi phí thấp. 111
2.4. Tạo ra thương hiệu mạnh mang tầm vóc quốc tế 112
2.5. Liên kết các doanh nghiệp trong nước để tạo ra sức mạnh
cạnh tranh quốc tế 114
Kết luận 115
Tài liệu tham khảo.

§Èy m¹nh xuÊt khÈu hµng ho¸ cña ViÖt Nam sang c¸c níc trong AFTA
NguyÔn Anh Tó Líp A7 K38B
6

MỞ ĐẦU
Vào thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, dưới tác động của cách mạng
khoa học và công nghệ, mà chủ yếu là cách mạng thông tin, các quan hệ kinh
tế thương mại quốc tế đã phát triển hết sức mạnh mẽ. Tự do hoá thương mại

và hội nhập kinh tế quốc tế nổi lên như là một xu thế khách quan lôi cuốn các
nước, vừa thúc đẩy hợp tác vừa tăng cường sức ép cạnh tranh và tính phụ
thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Mở cửa để phát triển đã trở thành một
nhu cầu vừa cấp thiết, vừa cơ bản, lâu dài, đối với mọi quốc gia trên thế giới.
Nhiều khối thương mại tự do đã được thành lập giữa các quốc gia đang
phát triển cũng như giữa họ với các nước phát triển như Diễn đàn Hợp tác
Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Khu vực Mậu dịch Tự do
ASEAN (AFTA), Khu viực Mởu dịch Tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Khối thị
trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR) Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng số
hiệp định thương mại khu vực được ký kết giữa các quốc gia đang phát triển
tuy nhiều nhưng khả năng thành công của chúng là không lớn vì trong nhiều
trường hợp có sự khác biệt quá lớn trong lợi ích thu được từ chương trình tự
do hoá thương mại giữa các nước thành viên.
Tuy nhiên, các nước đang phát triển vẫn đang hào hứng tìm kiếm các
thoả thuận khu vực bởi họ coi đây là "bãi tập cấp tiểu vùng" lý tưởng trước
khi bước vào sân chơi lớn hơn - nền kinh tế toàn cầu. Quá trình toàn cầu hoá
kinh tế đã mở ra những cơ hội và tạo điều kiện cho các quốc gia dân tộc trên
thế giới tận dụng những lợi thế so sánh của mình cho tăng trưởng kinh tế và
phát triển xã hội nhưng cũng đặt mỗi quốc gia, dân tộc dưới sức ép cạnh tranh
và thách thức gay gắt, nhất là đối với các nước đang phát triển. Các nước này
vẫn do dự chưa muốn tiến sâu vào nền kinh tế toàn cầu hoá do e ngại mặt trái
của nó. Nhất là trong bối cảnh nền kinh tế thế giới hiện nay bị chi phối mạnh
mẽ bởi lợi ích của các quốc gia phát triển. Vì vậy, khu vực hoá vừa là sự
chuẩn bị vừa là giải pháp tình thế trước sức ép ngày càng lớn của toàn cầu hoá
và hội nhập kinh tế thế giới.
§Èy m¹nh xuÊt khÈu hµng ho¸ cña ViÖt Nam sang c¸c níc trong AFTA
NguyÔn Anh Tó Líp A7 K38B
7

Trong thế giới đang phát triển, khu vực mậu dịch tự do AFTA được coi

là một trong những khu vực thương mại tự do có triển vọng nhất. Nhằm thực
hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội theo định hướng "xây dựng nền kinh
tế mở, hướng về xuất khẩu, hội nhập với khu vực và toàn cầu", Việt Nam đã
tham gia AFTA và bắt đầu thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan theo
Hiệp định ưu đãi có hiệu lực chung CEPT . Là một quốc gia kém phát triển
hơn, Việt Nam không tránh khỏi những thua thiệt trong quan hệ buôn bán với
các nước ASEAN trong khuôn khổ AFTA. Do đó, đẩy mạnh xuất khẩu sang
các nước ASEAN là vấn đề khó khăn cần phải giải quyết nhằm giảm bớt
chênh lệch trong cán cân thương mại, đảm bảo thực hiện mục tiêu phát triển
kinh tế trong ngắn hạn cũng như dài hạn.
Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua đã góp phần giải
quyết những khó khăn của nền kinh tế, khai thác được nội lực và phát huy
được tiềm năng lợi thế so sánh của đất nước. Tuy nhiên, công tác xuất khẩu
vẫn còn nhiều tồn tại như quy mô kim ngạch xuất khẩu còn nhỏ bé, cơ cấu
mặt hàng xuất khẩu còn ở trình độ lạc hậu, sức cạnh tranh yếu, thị trường xuất
khẩu còn bấp bênh chủ yếu là thị trường gần, còn phụ thuộc vào các thị
trường trung gian; thiếu hợp đồng lớn và dài hạn; chưa tạo dựng được hệ
thống những bạn hàng lớn, gắn bó
Trong thời gian tới, cùng với lộ trình tham gia ngày càng sâu vào
AFTA, sức ép mở cửa thị trường ngày càng lớn đòi hỏi chúng ta phải có
chính sách thương mại quốc tế phù hợp và hữu hiệu để có thể mở rộng thị
trường và gia tăng hoạt động xuất khẩu hàng hoá, đặc biệt là thị trường
ASEAN. Do vậy, việc phân tích và đánh giá hoạt động xuất khẩu hàng hoá
nói chung và một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu nói riêng vào ASEAN để từ
đó đề xuất những giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá vào thị trường
này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
§Èy m¹nh xuÊt khÈu hµng ho¸ cña ViÖt Nam sang c¸c níc trong AFTA
NguyÔn Anh Tó Líp A7 K38B
8


Vì vậy qua quá trình học tập và nghiên cứu, em đã chọn đề tài "Đẩy
mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang các nước ASEAN trong khuôn
khổ AFTA" cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
Khoá luận gồm ba phần:
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về xuất khẩu và sự hình thành
khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)
Chương II: Hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào các
nước ASEAN trước và sau khi tham gia AFTA.
Chương III: Những giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy xuất khẩu
hàng hoá Việt Nam vào thị trường các nước ASEAN.
Do khả năng và thời gian có hạn, khoá luận không tránh khỏi những
khiếm khuyết. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô và
các bạn nhằm hoàn thiện hơn kiến thức của mình.
Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 2003
Sinh viên


Nguyễn Anh Tú
§Èy m¹nh xuÊt khÈu hµng ho¸ cña ViÖt Nam sang c¸c níc trong AFTA
NguyÔn Anh Tó Líp A7 K38B
9

CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU VÀ SỰ
HÌNH THÀNH KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN
-AFTA

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU TRONG
ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá.

Trong xu thế hội nhập để phát triển, thương mại quốc tế là một bộ phận
quan trọng, gắn liền với tiến trình hội nhập và có vai trò quyết định đến lợi thế
của một quốc gia trên thị trường khu vực và thế giới. Vì vậy, thúc đẩy giao
lưu thương mại quốc tế nói chung và đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá dịch vụ
nói riêng là hướng ưu tiên phát triển kinh tế quan trọng hàng đầu của mỗi
quốc gia.
1.1. Xuất khẩu giúp các quốc gia tận dụng lợi thế so sánh.
Các quốc gia khai thác tốt các nguồn lực cho phát triển kinh tế thông
qua việc tập trung vào sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng mình có lợi thế so
sánh. Sức cạnh tranh của hàng hoá được nâng cao, nền kinh tế tăng trưởng
nhanh và ổn định hơn do các nguồn lực được phân bố hiệu quả hơn. Quá trình
này cũng mở ra cơ hội lớn cho tất cả các nước, nhất là các quốc gia đang phát
triển, tiến hành công nghiệp hoá dựa trên thành quả của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ.
1.2. Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ
sự nghiệp công nghiệp hoá.
Con đường tất yếu để thoát khỏi tình trạng nghèo và kém phát triển của
nước ta là công nghiệp hoá theo những bước đi thích hợp. Muốn công nghiệp
hoá, phải có số vốn ngoại tệ lớn cho nhập khẩu máy móc, thiết bị kỹ thuật tiên
tiến. Mỗi quốc gia thu được ngoại tệ từ các nguồn: đầu tư nước ngoài, xuất
khẩu hàng hoá, vay nợ, viện trợ. Đầu tư nước ngoài, viện trợ và vay nợ rất
quan trọng nhưng rồi cũng phải hoàn lại về sau dưới hình thức này hay hình
thức khác. Hơn nữa, nguồn vốn này chỉ chảy vào trong nước thuận lợi khi các
nhà đầu tư, người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu- nguồn vốn ngoại tệ
§Èy m¹nh xuÊt khÈu hµng ho¸ cña ViÖt Nam sang c¸c níc trong AFTA
NguyÔn Anh Tó Líp A7 K38B
10
duy nhất để trả nợ. Trên thực tế, trong các nguồn ngoại tệ thu về, xuất khẩu
luôn chiếm phần rất lớn.
Bảng 1: Các nguồn thu ngoại tệ chủ yếu của Việt Nam

Đơn vị: triệu USD
Năm Du lịch Xuất khẩu FDI ODA Tổng
1995 390,0

5.449

6.530,8

612

12.981,8

1996 291,5

7.256

8.497,3

985

17.029,8

1997 325,4

9.185

4.649,1

1.015


15.174,5

1998 258,3

9.340

3.897,4

1.430

14.925,7

1999 265,2

11.540

1.568,0

1.452

14.816,2

2000 -

14.308

2.012,0

1.500


17.820,0

2001 1.360,0

15.100

2.436,0

1.750

20.646,0

2002





Nguồn: Niên giám thống kê 2000, TS.Kim Ngọc (chủ biên) Kinh tế TG 2001-2002
Đặc điểm và triển vọng, NXB Chính trị Quốc gia
1.3. Xuất khẩu đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy
sản xuất phát triển.
Xuất khẩu tác động tới sản xuất và chuyển dịch cơ cấu theo hai cách
tuỳ thuộc vào cách nhìn nhận hoạt động này.
Một là, xuất khẩu chỉ là việc đẩy ra thị trường thế giới những sản phẩm
thừa, không tiêu dùng hết ở nội địa, tức là bán những gì ta có. Đối với nền
kinh tế còn lạc hậu, kém phát triển như nước ta, nếu chỉ trông vào sự dư thừa
của sản xuất thì kim ngạch xuất khẩu rất nhỏ bé và không có tác dụng thúc
đẩy sản xuất phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Hai là, coi thị trường thế giới là điểm khởi đầu của sản xuất, để hướng

tới thoả mãn nhu cầu rộng lớn trên thị trường này. Tức là, xuất khẩu những gì
thị trường ngoài nước cần. Điều này có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua các tác động sau:
 Tạo ra những nghành sản xuất mới “hướng về xuất khẩu”. Các ngành
này trước đây không có điều kiện phát triển do nhu cầu trong nước không có
hay nhỏ hẹp. Khi mở cửa ra thị trường thế giới rộng lớn, nghành sản xuất các
mặt hàng này phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh đó, các nghành sản suất hàng
xuất khẩu sẽ tạo cơ hội cho việc phát triển các nghành khác có liên quan phát
triển thuận lợi. Chẳng hạn khi phát triển ngành da giầy xuất khẩu sẽ tạo cơ hội
cho sự phát triển của ngành chăn nuôi gia súc, thuộc gia cũng như nghành cơ
khí chế tạo máy móc, thiết bị phục vụ nó.
§Èy m¹nh xuÊt khÈu hµng ho¸ cña ViÖt Nam sang c¸c níc trong AFTA
NguyÔn Anh Tó Líp A7 K38B
11
Xuất khẩu mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nhờ vậy sản xuất
có thể phát triển ổn định, tận dụng được lợi thế theo quy mô.
 Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của ta sẽ tham gia cạnh tranh trên thị
trường thế giới về chất lượng, giá cả, chính sách phân phối, Cuộc cạnh tranh
khốc liệt này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản
xuất luôn thích ứng được với thay đổi của thị trường.
1.4 Xuất khẩu giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống
người dân.
Sản xuất hàng xuất khẩu là khu vực thu hút hàng triệu lao động vào làm
việc với thu nhập khá và ổn định. Xuất khẩu còn tạo nguồn ngoại tệ để nhập
khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng ngày càng phong phú của nhân dân.
1.5 Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ
kinh tế đối ngoại
Xuất khẩu tăng cường địa vị kinh tế chính trị của mỗi quốc gia trên
trường quốc tế. Xuất khẩu và quan hệ kinh tế đối ngoại khác có mối quan hệ

chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu có thể đi trước mở
đường cho các quan hệ kinh tế đối ngoại khác phát triển như: tín dụng, đầu tư,
vận tải, bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, Mặt khác, tham gia sâu và giữ vị
trí ngày càng quan trọng trên thị trường thế giới làm tăng cường địa vị kinh tế
cũng như chính trị của mỗi quốc gia.
2. Các lý thuyết chính về thương mại.
2.1. Mô hình cổ điển về lợi thế so sánh của David Ricardo.
Nhà kinh tế học người Anh David Ricardo đã xây dựng lý thuyết về lợi
thế so sánh vào năm 1817. Ông cho rằng các nước có lợi thế tuyệt đối (hay
bất lợi thế tuyệt đối) trong sản xuất tất cả các sản phẩm vẫn thu được lợi ích
thông qua thương mại quốc tế bằng cách hy sinh sản lượng kém hiệu quả để
sản xuất ra sản lượng có hiệu quả hơn. Thực chất, lợi thế tuyệt đối chỉ sự khác
biệt về chi phí cơ hội. Vì vậy, những lợi ích do chuyên môn hoá và ngoại
thương mang lại phụ thuộc vào lợi thế so sánh chứ không phải lợi thế tuyệt
đối. Theo đó, mỗi nước sẽ có lợi nếu chuyên môn hoá và xuất khẩu các hàng
hoá mà họ sản xuất tương đối có hiệu quả hơn các nước khác và nhập khẩu
những hàng hoá mà mình sản xuất với chi phí tương đối cao.
§Èy m¹nh xuÊt khÈu hµng ho¸ cña ViÖt Nam sang c¸c níc trong AFTA
NguyÔn Anh Tó Líp A7 K38B
12
2.2. Lý thuyết tân cổ điển về lợi thế so sánh của Heckscher- Ohlin.
Lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricardo không giải thích được
nguyên nhân xuất hiện của lợi thế so sánh và vì sao các nước khác nhau lại có
chi phí cơ hội khác nhau.
Để khắc phục hạn chế này, hai nhà kinh tế học Thuỵ Điển là Eli
Heckscher và Bertil Ohlin trong tác phẩm “Thương mại liên khu vực và quốc
tế” đã chỉ ra rằng nguồn gốc của lợi thế so sánh là sự ưu đãi về các yếu tố sản
xuất. Do đó, lý thuyết H-O còn được gọi là lý thuyết so sánh “tỷ lệ các yếu
tố” vốn có trong khả năng cung ứng các nguồn lực (chủ yếu là đất đai, lao
động, vốn) khi chuyên môn hoá quốc tế.

Theo lý thuyết H-O các nước sẽ thu lợi qua buôn bán nếu xuất khẩu
những hàng hoá được sản xuất bằng việc sử dụng ở mức cao yếu tố sản xuất
mà nước đó có tương đối nhiều (và rẻ) và nhập khẩu những hàng hoá mà việc
sản xuất đòi hỏi sử dụng ở mức cao những yếu tố sản xuất mà nước mình có
rất ít. Do đó, trong một nền kinh tế mở, mỗi nước đều hướng đến chuyên môn
hoá các nghành sản xuất cho phép sử dụng nhiều nhất các nguồn lực sản xuất
mà đối với nước đó là thuận lợi nhất (ví dụ như: tài nguyên, lao động, vốn ).
Tuy còn có những khuyết điểm lý luận trước thực tiễn thương mại quốc
tế luôn biến đổi phức tạp, song quy luật này vẫn đang là quy luật chi phối
động thái phát triển của thương mại quốc tế và có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn
quan trọng đối với các quốc gia đang phát triển. Những nước này đa số là
đông dân, thừa lao động nhưng nghèo vốn, do đó, trong giai đoạn đầu công
nghiệp hoá đất nước vẫn tập trung sản xuất và xuất khẩu những hàng hoá sử
dụng nhiều lao động và nhập khẩu những hàng hoá sử dụng nhiều vốn. Sự lựa
chọn những hàng hoá xuất khẩu phù hợp với các lợi thế so sánh về các nguồn
lực sản xuất vốn có là điều kiện cần thiết để các nước đang phát triển nhanh
chóng hội nhập vào sự phân công lao động và hợp tác thương mại quốc tế, và
trên cơ sở lợi ích thương mại thu được sẽ đẩy nhanh sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế ở những nước này.
2.3. Học thuyết về chu kỳ sống của sản phẩm quốc tế.
Vào giữa những năm 60 của thế kỷ XX, Raymond Vernon đã đưa ra lý
thuyết chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm để giải thích thương mại quốc tế đối
với các mặt hàng chế biến, lý thuyết này dựa trên sự vận động của một mặt
hàng theo chu kỳ sống của nó (từ giai đoạn sản phẩm mới đến giai đoạn chín
muồi và chuẩn hoá) để xác định mặt hàng đó sẽ được sản xuất ở đâu.
§Èy m¹nh xuÊt khÈu hµng ho¸ cña ViÖt Nam sang c¸c níc trong AFTA
NguyÔn Anh Tó Líp A7 K38B
13
Giai đoạn 1: Giai đoạn sản xuất mới: mức cầu cao của khách hàng ở
một quốc gia công nghiệp sẽ thúc đẩy một công ty thiết kế và đưa ra một sản

phẩm mới. Sản xuất được tổ chức ở nơi diễn ra hoạt động nghiên cứu và phát
triển nên nhà sản xuất luôn có những cải tiến trong sản phẩm cho phù hợp với
thị hiếu người tiêu dùng, từng bước hoàn thiện sản phẩm. Nhu cầu trong nước
ngày càng mở rộng và vào cuối giai đoạn này sản phẩm mới bắt đầu được
xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.


Nước phát minh
S
ố đ
ơn v
ị sản phẩm

160


120


80


40


0









Xuất khẩu







Nhập khẩu
Giai đoạn 1
Sản phẩm
mới
Giai đoạn 2
Sản phẩm
chín muồi
Giai đoạn 3
Sản phẩm
chuẩn hoá
Giai đoạn 2: giai đoạn sản phẩm chín muồi: Sự tồn tại và những lợi
ích của sản phẩm mới bắt đầu được nhận thức đầy đủ trên cả thị trường trong
và ngoài nước. Mức cầu ngày càng tăng và được duy trì trong thời gian tương
đối dài. Khi lượng xuất khẩu tăng cao và chiếm tỷ trọng khá lớn trong doanh
số bán, công ty phát minh bắt đầu tổ chức sản xuất ở những nước có mức cầu
cao nhất. Đồng thời, các công ty ở các quốc gia phát triển khác cũng sản xuất
mặt hàng tương tự. Gần cuối giai đoạn này, sản phẩm bắt đầu được bán sang
các nước đang phát triển và hoạt động sản xuất có thể bắt đầu tiến hành ở các

quốc gia này.
Các nước công nghiệp khác

§Èy m¹nh xuÊt khÈu hµng ho¸ cña ViÖt Nam sang c¸c níc trong AFTA
NguyÔn Anh Tó Líp A7 K38B
14
S
ố đ
ơn v
ị sản phẩm

160

120

80

40

0








Nhập khẩu







Xuất khẩu
Giai đoạn 1
Sản phẩm
mới
Giai đoạn 2
Sản phẩm
chín muồi
Giai đoạn 3
Sản phẩm
chuẩn hoá
Giai đoạn 3: Giai đoạn sản phẩm chuẩn hoá: nhằm tận dụng chi phí
thấp ở các nước đang phát triển, công ty đẩy mạnh việc chuyển dần hoạt động
sản xuất sang các nước này, từ đó, cung ứng cho thị trường toàn thế giới. Khi
phần lớn cơ sở sản xuất được đặt ngoài nước phát minh, nhu cầu về sản phẩm
của nước này được đáp ứng bởi nhập khẩu từ các nước đang phát triển và các
nước phát triển khác.
Các nước đang và kém phát triển

S
ố đ
ơn v
ị sản phẩm

160


120

80

40

0








Nhập khẩu







Xuất khẩu
Giai đoạn 1
Sản phẩm
mới
Giai đoạn 2
Sản phẩm
chín muồi

Giai đoạn 3
Sản phẩm
chuẩn hoá
Trước thực tiễn biến đổi nhanh chóng và phức tạp của kinh doanh và
thương mại quốc tế, lý thuyết đã không giải thích được một số hiện tượng
hiện nay: Các sản phẩm mới dường như có thể xuất hiện bất kỳ nơi nào khi
các công ty tiếp tục toàn cầu hoá các hoạt động nghiên cứu và phát triển; các
công ty thiết kế sản phẩm mới và thực hiện cải tiến sản phẩm rất nhanh
§Èy m¹nh xuÊt khÈu hµng ho¸ cña ViÖt Nam sang c¸c níc trong AFTA
NguyÔn Anh Tó Líp A7 K38B
15
chóng. Kết quả là vòng đời sản phẩm bị rút ngắn lại, sản phẩm nhanh chóng
bị lạc hậu. Do đó, các công ty phải đồng loạt tung sản phẩm lấp đầy nhiều thị
trường khác để nhanh chóng bù đắp chi phí nghiên cứu và phát triển sản
phẩm.
Tuy nhiên, lý thuyết này vẫn còn giá trị với các quốc gia đang phát
triển, mới tham gia hội nhập vào thị trường thế giới. Đặc biệt trong việc xác
định vị trí thích hợp của mình trên thị trường quốc tế, tham gia lựa chọn sản
xuất, mặt hàng phù hợp với khả năng và trình độ phát triển của mình.
2.4. Lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Năm 1990, Michael Porter đã đưa ra lý thuyết mới nhằm giải thích tại
sao một số quốc gia lại có được vị trí dẫn đầu trong sản xuất một số sản phẩm
nhất định. Lý thuyết cạnh tranh quốc gia cho rằng khả năng cạnh tranh của
một ngành sản xuất phụ thuộc vào năng lực sáng tạo và đổi mới của ngành đó.
Lý thuyết của Porter không nhằm mục đích giải thích cơ cấu xuất nhập khẩu
của các quốc gia mà chỉ lý giải tại sao và bằng cách nào một số nước có khả
năng cạnh tranh cao hơn trong một số ngành công nghiệp. Ông xác định bốn
nhóm yếu tố hình thành nên khả năng cạnh tranh quốc gia, các yếu tố đó mọi
nước đều có sẵn nhưng với mức độ khác nhau. Bốn nhóm yếu tố được mô tả
trong "hình thoi Porter" bao gồm :

(1) Các điều kiện về yếu tố sản xuất.
(2) Điều kiện cầu.
(3) Các ngành có liên quan và các ngành hỗ trợ .
(4) Cơ cấu và cạnh tranh giữa các công ty.
Sơ đồ: Các yếu tố quy định lợi thế cạnh tranh quốc gia








Chiến lược cơ cấu
cạnh tranh giữa các
Công ty

Đ
i

u ki

n v

y
ế
u
tố sản xuất
Điều kiện cầu
§Èy m¹nh xuÊt khÈu hµng ho¸ cña ViÖt Nam sang c¸c níc trong AFTA

NguyÔn Anh Tó Líp A7 K38B
16




 Điều kiện về yếu tố sản xuất :
Porter phân chia yếu tố sản xuất thành 2 loại : yếu tố cơ bản và yếu tố
tiên tiến. Yếu tố cơ bản bao gồm các nguồn lực sẵn có tự nhiên và cố định
như nguồn lao động, tài nguyên thiên nhiên, khí hậu Những yếu tố này tạo
nên lợi thế "tĩnh" của quốc gia. Trái lại các yếu tố được xây dựng bởi chính
sách đầu tư vào các lĩnh vực giáo dục và đổi mới như việc đào tạo nguồn
nhân lực, hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ tạo ra những nguồn
lực rất quan trọng là nguồn nhân lực bao gồm các nhóm có trình độ, kỹ năng
khác nhau, hạ tầng công nghệ quốc gia có chất lượng cao.
Các yếu tố cơ bản chỉ có thể tạo cơ sở ban đầu cho việc sản xuất một
mặt hàng nào đó còn các yếu tố tiên tiến là cần thiết để duy trì và nâng cao
khả năng của quốc gia trong sản xuất mặt hàng đó. Các yếu tố này tạo nên
“lợi thế động” của các quốc gia. Hiện nay, các nước đang phát triển chủ yếu
có được lợi thế tĩnh. Trong điều kiện sản phẩm làm ra có mức độ tinh xảo và
phức tạp ngày càng cao thì những lợi thế này tỏ ra ngày càng kém quan trọng.
Vì vậy, lối thoát cho các quốc gia này là chính sách phù hợp để nâng cao "lợi
thế động" của mình chứ không chỉ dựa vào lợi thế tĩnh.
 Điều kiện cầu
Đòi hỏi cao của khách hàng ở thị trường mà công ty hoạt động (trong
nước hoặc ngoài nước) là nhân tố rất quan trọng đối với lợi thế cạnh tranh
quốc gia về một lĩnh vực sản phẩm nào đó. Một thị trườngkhó tính sẽ buộc
các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến sản phẩm hiện có, phát triển các
sản phẩm mới với công nghệ hoàn toàn mới. Trong điều kiện các nước đang
phát triển nếu chỉ hoạt động ở thị trường trong nước với những khách hàng

"dễ tính" doanh nghiệp đó không có động lực để nâng cao khả năng cạnh
tranh của mình. Động lực này chỉ có được khi nỗ lực vươn ra tiếp cận với thị
trường quốc tế, từng bước cạnh tranh để thâm nhập thị trường khó tính.
 Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan.
Các công ty nằm trong các ngành có khả năng cạnh tranh cao của quốc
gia không thể tồn tại một cách biệt lập. Các ngành công nghiệp hỗ trợ thường
sẽ xuất hiện để cung cấp đầu vào cho các ngành nói trên. Các công ty có thể
có lợi từ sản phẩm hoặc quy trình công nghệ của một ngành có khả năng
Các ngành công nghi

p
hỗ trợ và liên quan
§Èy m¹nh xuÊt khÈu hµng ho¸ cña ViÖt Nam sang c¸c níc trong AFTA
NguyÔn Anh Tó Líp A7 K38B
17
cạnh tranh quốc tế bằng việc xây dựng các nhóm ngành liên quan trên cùng
khu vực địa lý.
Sự xuất hiện các nhóm ngành đó giúp cho việc nâng cao năng suất và
khả năng cạnh tranh của mỗi ngành trong nhóm.
 Chiến lược, cơ cấu và cạnh tranh giữa các công ty .
Các quyết định chiến lược của công ty có ảnh hưởng lâu dài tới khả
năng cạnh tranh trong tương lai. Trách nhiệm hoạch định chiến lược thuộc về
những nhà quản lý. Do đó, mỗi quốc gia cần phải đào tạo được đội ngũ các
nhà quản lý có trình độ cao, có tầm nhìn chiến lược.
Cơ cấu của ngành sản xuất và cạnh tranh giữa các công ty trong quốc
gia cũng đóng vai trò quan trọng không kém. Cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong nước càng khốc liệt thì khả năng cạnh tranh quốc tế của các
doanh nghiệp đó càng cao.
3. Các mô hình thương mại quốc tế được sử dụng trong hoạch định
chính sách xuất khẩu.

3.1. Chiến lược thay thế nhập khẩu.
Nội dung cơ bản của chiến lược này là xây dựng một nền công nghiệp
rộng lớn, trước hết là công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, sau đó là các
ngành công nghiệp khác nhằm sản xuất sản phẩm nội địa thay thế các sản
phẩm nhập khẩu. Bên cạnh hiệu quả tăng trưởng, nền sản xuất công nghiệp
độc lập còn hy vọng thực hiện tiết kiệm nguồn ngoại tệ. Chiến lược này dựa
trên thực tế hiện nay khi các nền kinh tế đang phát triển phải đối mặt với môi
trường kinh tế quốc tế bị chi phối mạnh mẽ bởi các đối thủ cạnh tranh từ các
quốc gia công nghiệp hoá và phát triển cao.
Do đó, mục tiêu của các nước này không chỉ là thay thế một số hàng
hoá xuất khẩu đã được lựa chọn bằng hàng hoá sản xuất trong nước, mà còn
tạo ra một nền kinh tế linh hoạt, đa dạng và nhạy bén. Theo đó, để lĩnh vực
sản xuất công nghiệp có sức cạnh tranh quốc tế thì trước tiên nó phải đứng
vững ở thị trường trong nước. Do đó, việc bảo hộ là cần thiết để tạo điều kiện
cho sự phát triển của một nền kinh tế "hoàn chỉnh" hơn, mở rộng phạm vi tìm
tòi thử nghiệm với nhiều ngành công nghiệp.
Tuy nhiên chủ nghĩa bảo hộ thường gây ra hàng loạt vấn đề bất lợi cho
nền kinh tế:
Thứ nhất, chúng xuyên tạc giá cả, không phản ánh đầy đủ quan hệ
cung cầu do cố tìm cách xây dựng một nền sản xuất công nghiệp riêng bằng
§Èy m¹nh xuÊt khÈu hµng ho¸ cña ViÖt Nam sang c¸c níc trong AFTA
NguyÔn Anh Tó Líp A7 K38B
18
cách tách thị trường trong nước ra khỏi thị trường quốc tế. Các nguồn lực
trong nước không được phân bổ có hiệu quả do thiết lập một cơ cấu kinh tế
sản xuất trong nước không phát huy được lợi thế so sánh. Do sự lệch lạc của
giá cả, kết quả là, thay vì tập trung vào những lĩnh vực mà ở đó đất nước có
những lợi thế so sánh tự nhiên thì lại hướng sản xuất vào những mặt hàng
thường được nhập khẩu tức là những lĩnh vực bất lợi thế tương đối. Trong cơ
cấu sản xuất này, chừng nào cơ cấu giá so sánh không thay đổi theo thời gian,

xét về trung hạn cũng như dài hạn khó có thể tạo ra sức cạnh tranh quốc tế.
Thứ hai, những rào cản nhập khẩu sẽ làm cho sản xuất trong nước trở
thành không hiệu quả. Hơn nữa, sự bảo hộ còn làm giảm khả năng du nhập
kinh nghiệm, kiến thức và công nghệ mới từ nước ngoài. Đồng thời, sức ép
cạnh tranh sai lầm tạo ra tính ỷ lại, do vậy ngăn trở quá trình nối kết với sự
phát triển công nghệ quốc tế.
Thứ ba, việc thay thế nhập khẩu sẽ gây ra những mất cân đối trong cán
cân ngoại thương của đất nước. Một lý do thường được viện dẫn cho sự can
thiệp nhà nước trong thời kỳ đầu của quá trình mở cửa là nguyên lý "công
nghiệp non trẻ" cũng như nguyên lý “thuế quan giáo dục". Nó dựa trên nhận
thức rằng trong nền sản xuất hàng hoá công nghiệp thường tồn tại những mức
độ hiệu quả linh động là những cái xuất hiện do tích luỹ kinh nghiệm trong
quá trình sản xuất. Phải công nhận chính sách bảo hộ có thời hạn có vẻ hấp
dẫn về mặt lý thuyết song nhiều nhà kinh tế học lại rất hoài nghi sự vận dụng
thực tiễn phù hợp của chúng.
Thực tế là không có được đầy đủ các thông tin và năng lực hành chính
cần thiết để xác định ngành công nghiệp đáng được hỗ trợ. Mặt khác, các
nhóm lợi ích của các ngành công nghiệp khác luôn tìm cách gây ảnh hưởng
với người ra quyết định nhằm hưởng sự bảo hộ của nhà nước. Ngay cả khi
chính sách bảo hộ có hiệu lực thì thường nó khó có thể giữ được đặc điểm
lâm thời của nó, vì quá trình chuyển sang thương mại tự do sau này thường
vấp phải sự phản đối quyết liệt của những nhóm hưởng lợi ích.
Để khắc phục hạn chế trên, các nước đang phát triển đang tìm cách
chuyển sang chiến lược hướng ngoại nhằm phát triển dựa trên thị trường thế
giới rộng lớn.
3.2. Chiến lược hướng về xuất khẩu
Một cơ chế thương mại mở cửa và hướng ngoại là có lợi vì giảm được
tính phi hiệu quả do phân bổ không đúng các nguồn lực gây ra; tăng cường
§Èy m¹nh xuÊt khÈu hµng ho¸ cña ViÖt Nam sang c¸c níc trong AFTA
NguyÔn Anh Tó Líp A7 K38B

19
học hỏi kinh nghiệm và thay đổi công nghệ, cải thiện được khả năng linh hoạt
của nền kinh tế trước các cú sốc bên ngoài.
Chiến lược này nhấn mạnh vào ba nhân tố cơ bản sau:
- Thay vì kiểm soát nhập khẩu để tiết kiệm ngoại tệ và kiểm soát tài
chính là mở rộng nhanh chóng khả năng xuất khẩu.
- Hạn chế bảo hộ công nghiệp địa phương, thay vào đó là nâng đỡ và
hỗ trợ các ngành sản xuất hàng xuất khẩu thông qua thuế quan, bù lỗ
xuất khẩu,
- Xây dựng môi trường đầu tư ổn định, hấp dẫn cho các nhà tư bản
thông qua hệ thống các chính sách khuyến khích và kinh tế tự do để
thu hút đến mức tối đa vốn đầu tư của các công ty nước ngoài.
Các nước áp dụng chiến lược hướng về xuất khẩu hy vọng có thể khắc
phục được nhược điểm của chiến lược thay thế nhập khẩu như:
- Chiến lược hướng ngoại tạo khả năng xây dựng cơ cấu kinh tế mới,
năng động.
Ngành công nghiệp trực tiếp xuất khẩu sẽ tác động tới các ngành cung
cấp đầu vào, tạo ra mối quan hệ ngược thúc đẩy sự phát triển của các ngành
này đồng thời sản phẩm thô cũng tạo ra quan hệ xuôi giúp phát triển các
ngành công nghiệp chế biến.
- Chiến lược hướng ngoại tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong
nước ngày càng lớn mạnh, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Thời kỳ đầu có thể có sự trợ giúp của nhà nước song muốn tiếp tục tồn tại thì
phải tự đi trên đôi chân của mình. Mặt khác, thị trường thế giới rộng lớn mở
ra sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thu được hiệu quả nhờ quy mô sản
xuất.
- Chiến lược hướng về xuất khẩu tạo nguồn thu nhập ngoại tệ lớn cho
đất nước. Với những nước đang phát triển, ngoại thương là nguồn tích luỹ
vốn chủ yếu cho giai đoạn đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá.
Nhờ áp dụng chiến lược này nền kinh tế những nước đang phát triển và

chậm phát triển vài ba thập kỷ qua đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao, một số
ngành công nghiệp (chủ yếu là các ngành chế biến xuất khẩu) đạt trình độ tiên
tiến, có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, chiến lược
hướng về xuất khẩu cũng có những nhược điểm không dễ gì khắc phục:
- Tình trạng mất cân đối trầm trọng giữa các ngành hàng sản xuất để
xuất khẩu và ngành không xuất khẩu
§Èy m¹nh xuÊt khÈu hµng ho¸ cña ViÖt Nam sang c¸c níc trong AFTA
NguyÔn Anh Tó Líp A7 K38B
20
- Do ít chú trọng tới các ngành công nghiệp thiết yếu nhất nên nền kinh
tế gắn chặt với thị trường bên ngoài và dễ bị tác động bởi những biến đổi của
thị trường các nước lớn.
- Thực tế sự khác biệt giữa hai chiến lược hướng về xuất khẩu và thay
thế nhập khẩulà không mấy rạch ròi. Hầu hết các nước đang phát triển đã áp
dụng cả hai chiến lược với các mức chú trọng khác vào các thời điểm khác.
4. Ngoại thương trong khu vực mậu dịch tự do
Một hiệp định thương mại ưu đãi khu vực hình thành khi một nhóm
quốc gia quyết định hạ bớt hay xoá bỏ các hàng rào thương mại áp dụng cho
các nước thành viên thấp hơn mức rào cản thương mại áp đặt cho phần còn lại
của thế giới. Có bốn mức hợp tác kinh tế từ khu vực thương mại tự do, tới liên
minh thuế quan, thị trường chung và cuối cùng là liên minh kinh tế khi các
nước tham gia hoàn toàn dung hoà các chính sách tài khoá, kinh tế, xã hội.
Trong khu vực thương mại tự do, thuế quan giữa các quốc gia thành viên
được bãi bỏ. Tuy nhiên các quốc gia này có quyền tự do lập nên hàng rào
thương mại với các nước không phải thành viên của nhóm.
Có quan niệm sai lầm về khu vực thương mại tự do rằng, do mỗi nước
thành viên tự đặt cơ cấu thuế quan riêng, hàng hoá nhập khẩu từ các nước phi
thành viên sẽ đổ vào nước có mức thuế quan thấp nhất rồi tràn vào các quốc
gia thành viên còn lại. Tuy nhiên, những người theo quan điểm lệch lạc này
cần lưu ý rằng mức thuế quan ưu đãi chỉ được áp dụng với những sản phẩm

đạt tỷ lệ phần trăm tối thiểu trong hàm lượng hàng hoá nội địa. Trong khu vực
AFTA hàm lượng tối thiểu theo yêu cầu của ASEAN là 40%.
Ảnh hưởng của khu vực thương mại tự do lên tính hiệu quả của nền
kinh tế cũng như phúc lợi vẫn còn nhiều tranh cãi. Trong đó có cả vấn đề về
tự do hoá hay bảo hộ nền kinh tế của các quốc gia thành viên. Trong khi các
nước phải đối mặt với sự cạnh tranh mạnh mẽ hơn từ quốc gia trong khối thì
họ lại biệt lập hơn với phần còn lại của thế giới.
Khi đánh giá tác động đến các nước thành viên, với nhiều nhà kinh tế
học điều quan trọng là liệu thương mại tự do khu vực có tác dụng tạo lập
thương mại (trade creation) ở các nước trong khối không hay chỉ làm chệch
hướng thương mại (trade diversion) của các đối tác trong phạm vi hợp tác.
Tác động tạo lập thương mại sẽ xuất hiện sau khi xoá bỏ thuế quan
trong khu vực, các nhà sản xuất có hiệu quả thuộc các nước thành viên áp đảo
các nhà sản xuất nội địa của các quốc gia thành viên khác về chất lượng và
chi phí sản xuất, kéo theo gia tăng thương mại giữa các nước. Trên cơ sở đó,
§Èy m¹nh xuÊt khÈu hµng ho¸ cña ViÖt Nam sang c¸c níc trong AFTA
NguyÔn Anh Tó Líp A7 K38B
21
nền thương mại được tạo lập và làm tăng mức sống của các nước thành viên
do tăng cường chuyên môn hoá trong sản xuất. Nếu các nước thành viên
chiếm lĩnh được thị trường rộng lớn trong khu vực để nâng cao khả năng cạnh
tranh từ đó mở rộng xuất khẩu sang các nước thứ ba thì các nước này sẽ
hưởng lợi từ việc hình thành khối thương mại tự do trên.
Ngược lại, tác động chệch hướng thương mại xuất hiện khi những nhà
sản xuất làm ăn hiệu quả hơn từ bên ngoài khối bị thay thế bởi những nhà sản
xuất kém cạnh tranh hơn từ nội bộ khối. Nguyên nhân là do việc cắt giảm
thuế quan làm cho hàng hoá được sản xuất từ các nước trong khu vực hợp tác
có khả năng cạnh tranh cao hơn. Khi đó, tác động này sẽ gây tổn hại cho các
nước thành viên vì phải tăng nhập khẩu những hàng hoá kém hiệu quả hơn.
Các quốc gia khi gia nhập khu vực thương mại tự do cần cân nhắc tác

động tạo lập thương mại và tác động chệch hướng thương mại. Các tiêu chí
sau sẽ xác định một tổ chức thương mại được thành lập theo thiên hướng tạo
lập hay chệch hướng :
 Tổ chức thương mại càng lớn, quy mô tạo lập thương mại càng rộng
 Có tác động tạo lập thương mại khi mức thuế quan trung bình sau
khi thành lập tổ chức thấp hơn mức thuế quan trung bình trước khi thành lập.
Ngược lại, nếu cao hơn sẽ dẫn tới chệnh hướng thương mại.
 Sức cạnh tranh của nền kinh tế các nước thành viên càng mạnh, khả
năng hình thành tạo lập thương mại càng lớn. Tuy nhiên, phải có sự khác biệt
trong cơ cấu sản xuất, mỗi thành viên phải có sức cạnh tranh cao nhất trong
sản xuất những mặt hàng mà đối tác của mình bảo hộ và sản xuất kém hiệu
quả.
 Trao đổi thương mại giữa các nước thành viên trước khi có hoạt
động thương mại càng cao thì khả năng xảy ra chệch hướng thương mại càng
ít. Do trước đó khối lượng trao đổi thương mại lớn đã được hình thành dựa
trên lợi thế so sánh quốc tế.
Từ các tiêu chí trên, rõ ràng là một khu vực thương mại tự do giữa một
nhóm nhỏ các quốc gia đang phát triển có trình độ phát triển gần như nhau
khó có thể mang lại hiệu quả kinh tế to lớn. Sự chênh lệch chi phí không lớn
và sự đa dạng hoá sản phẩm ở trình độ thấp của các nước thành viên không
thể đem lại tăng trưởng thương mại. Hơn nữa, trong lĩnh vực sản xuất các
hàng công nghiệp đòi hỏi công nghệ cao thì khoảng cách lớn về tính cạnh
tranh giữa các thành viên khối và các nước công nghiệp phát triển không phải
là thành viên sẽ tạo ra chệnh hướng thương mại. Nhất là các quốc gia thành
§Èy m¹nh xuÊt khÈu hµng ho¸ cña ViÖt Nam sang c¸c níc trong AFTA
NguyÔn Anh Tó Líp A7 K38B
22
viên kém phát triển hơn, có độ mở nền kinh tế thấp hơn so với các thành viên
khác, thường chỉ nhận được tác động chệch hướng.
Thêm vào đó, các khu vực thương mại tự do thường được thành lập với

mục tiêu cải thiện điều kiện thương mại giữa các thành viên do đó thường có
xu hướng thiên về tác động chệch hướng thương mại là chủ yếu. Bởi vì khi đó
các nước này sẽ giảm nhập khẩu từ các nước thứ ba và tăng nhập khẩu từ các
nước thành viên khác. Kết quả là sự hợp tác sẽ mang lại cho các nước thành
viên hiệu quả thịnh vượng khác nhau. Sự phân phối lợi nhuận khác nhau tiềm
ẩn khả năng căng thẳng giữa các nước thành viên. Chẳng hạn trong trường
hợp phải chịu tác động quá nhiều của chệnh hướng thương mạI, các nước
trong khối sẽ vì lợi ích bản thân mà dỡ bỏ hàng rào thuế quan để có thể nhập
khẩu những hàng hoá được sản xuất hiệu quả từ các nước ngoài khối hoặc tìm
kiếm thoả thuận khu vực thương mại tự do với những quốc gia phát triển.
Nhưng tại sao các nước đang phát triển vẫn tập hợp lại trong các khối
thương mại tự do trong khi tác dụng về mặt thương mại là rất hạn chế. Bởi vì,
các nước này có thể thu được lợi ích từ những tác động xảy ra theo thời gian
của việc hình thành khối thương mại tự do là làm tăng cạnh tranh, đạt nền
kinh tế theo quy mô, khuyến khích đầu tư và sử dụng tốt hơn các nguồn lực.
Trong đó, tác động thúc đẩy cạnh tranh là thách thức lớn nhất đối với các
nước đang phát triển trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Khi chưa thành lập khối tự do, các nhà sản xuất kém hiệu quả trong
nước được bảo hộ bằng các hàng rào thương mại. Khi chúng được hạ thấp hay
dỡ bỏ, các nhà sản xuất có hiệu quả hơn từ các nước thành viên sẽ tràn vào
cạnh tranh gay gắt hơn sẽ buộc các công ty phải sản xuất có hiệu quả hơn,
giảm giá bán, đầu tư vào phát triển cải tiến sản phẩm. Những hãng không đủ
sức cạnh tranh sẽ bị loại bỏ. Những nhà sản xuất còn trụ lại là những người
sản xuất có hiệu quả trong khu vực và do đó có khả năng cạnh tranh trên thị
trường thế giới. Do đó, nguồn lực cho phát triển kinh tế của các quốc gia sẽ
được tái phân bổ theo hướng có hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, một thị trường khu vực rộng lớn cũng mở ra cơ hội cho
các công ty khai thác hiệu quả kinh tế quy mô. Để đạt được quy mô đầu ra
hiệu quả, một nhà máy sản xuất hiện đại phải sản xuất được một lượng hàng
hoá lớn hơn những nhu cầu trong nước: Hiệu quả kinh tế theo quy mô cũng

khuyến khích mức độ chuyên môn hoá sâu hơn trong khu vực. Yếu tố này làm
phát triển khả năng cạnh tranh của các nền kinh tế trong khu vực và làm cho
môi trường đầu tư hấp dẫn hơn. Sức hấp dẫn với đầu tư trực tiếp nước ngoài
tăng lên không chỉ đối với các nước trong khu vực mà còn đối với các nước
§Èy m¹nh xuÊt khÈu hµng ho¸ cña ViÖt Nam sang c¸c níc trong AFTA
NguyÔn Anh Tó Líp A7 K38B
23
ngoài khu vực hợp tác bởi thông qua đầu tư trực tiếp vào một nước có thể
thâm nhập vào thị trường các nước trong khối một cách dễ dàng.
Hơn nữa, gia nhập khu vực thương mại tự do là phương cách hiệu quả
cho các chính phủ tiến hành cải cách kinh tế. Việc buộc phải tuân thủ các quy
định, nghĩa vụ khi trở thành thành viên của khối là công cụ, hữu hiệu buộc
những nhà sản xuất được bảo hộ trong nước, thế lực luôn cản trở tiến trình tự
do hoá, phải tham gia cạnh tranh quốc tế. Trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế
hiện nay. Các quốc gia nhỏ có xu hướng coi khu vực thương mại tự do như
một "sân tập nhỏ" trước khi tham gia vào "sân chơi lớn" - hội nhập kinh tế
quốc tế. Hội nhập khu vực trở thành phương thức hội nhập nền kinh tế thế
giới đầy hiệu quả và an toàn. Trong điều kiện thế giới chưa sẵn sàng cho
thương mại tự do ở mức toàn cầu, khi tham gia một hiệp định thương mại khu
vực các nước thành viên sẽ có cơ hội làm quen với tự do hoá ở cấp cao hơn và
từ đó có khả năng để tham gia vào hợp tác đa phương.
II. GIỚI THIỆU VỀ AFTA
1. Sự ra đời của AFTA.
ASEAN được biết đến như một khu vực phát triển tăng trưởng nhanh,
ổn định và thực hiện cải cách kinh tế tương đối hiệu quả. Trên nền tảng của
chính sách hướng ngoại và kinh tế thị trường, khu vực này ngày càng thu hút
dòng thương mại và đầu tư trên thế giới. Tuy vậy, trước khi AFTA ra đời,
những nỗ lực hợp tác kinh tế của ASEAN đều không đạt được mục tiêu mong
muốn. Các kế hoạch hợp tác kinh tế của ASEAN như thoả thuận thương mại
ưu đãi (PTA), các dự án công nghiệp ASEAN (AIP), kế hoạch hỗ trợ công

nghiệp ASEAN (AIC), kế hoạch hỗ trợ sản xuất công nghiệp cùng nhãn mác
(BBC) và liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV) lần lượt đổ vỡ hoặc thu
được không mấy hiệu quả. Những kế hoạch này chỉ gây được tác động nhỏ tới
thương mại nội bộ khối và không đủ khả năng ảnh hưởng tới đầu tư trong
khối.
Trong bức tranh đa dạng của thế giới sau chiến tranh lạnh, xuất hiện
những tổ chức hợp tác và liên kết kinh tế khu vực, thu hút sự hội nhập của
nhiều nền kinh tế. Trong đó, ngoài tổ chức thương mại thế giới (WTO) ra đời
từ GATT phải kể đến liên minh Châu Âu (EU), tổ chức hợp tác kinh tế Châu
Á - Thái Bình Dương (APEC), khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA).
Cùng với đó là những thay đổi trong môi trường chính trị, kinh tế khu vực và
quốc tế đã đặt kinh tế các nước ASEAN đứng trước những thử thách lớn
không dễ vượt qua nếu không có sự liên kết chặt chẽ hơn và những nỗ lực
§Èy m¹nh xuÊt khÈu hµng ho¸ cña ViÖt Nam sang c¸c níc trong AFTA
NguyÔn Anh Tó Líp A7 K38B
24
chung của Hiệp hội. Vì vậy, vai trò của ASEAN cũng thay đổi, tập trung
nhiều vào hợp tác kinh tế thay vì an ninh khu vực thuần tuý. Vì mục đích này,
AFTA được coi là sự phản ứng mang tính chiến lược trước những thay đổi kể
trên. Dưới đây là những nguyên nhân chính dẫn đến sự hình thành AFTA:
Thứ nhất, quá trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới diễn ra nhanh chóng
và mạnh mẽ hình thành nên môi trường kinh tế toàn cầu với tính cạnh tranh
cao hơn. Trong đó, quá trình sản xuất được quốc tế hoá, giao dịch thương mại
xuyên biên giới được đẩy mạnh cùng với việc mở ra kỷ nguyên thông tin và
mạng kinh tế toàn cầu đã kích thích các hoạt động kinh tế bên trong và giữa
các quốc gia.
Thứ hai, sự lớn mạnh của chủ nghĩa khu vực đã hình thành và phát
triển các tổ chức hợp tác khu vực mới như EU và NAFTA sẽ trở thành những
khối thương mại lớn khép kín, gây trở ngại cho hàng hoá ASEAN khi thâm
nhập vào thị trường này.

Thứ ba, khi chiến tranh lạnh kết thúc, đã xuất hiện những đối thủ cạnh
tranh nguồn đầu tư nước ngoài vốn là động lực phát triển cho các nước
ASEAN như Trung Quốc, Nga và các nước Đông Âu. Những nước này trở
thành thị trường đầu tư hấp dẫn nhờ vào chính sách mở cửa, khuyến khích và
dành ưu đãi rộng rãi cho các nhà đầu tư nước ngoài cùng với lợi thế so sánh
về tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực.
Thứ tư, các nước ASEAN ở mức độ khác nhau đều chọn chiến lược
kinh tế hướng vào xuất khẩu vì thế tự do hoá thương mại là điều kiện tiên
quyết cho thành công của các nước này. Bên cạnh đó phát triển kinh tế của
các nước ASEAN phụ thuộc nhiều vào luồng đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI). Với việc hình thành AFTA, các nước ASEAN hy vọng làm tăng tính
hấp dẫn của họ với nguồn FDI.
Chính những nhân tố trên đã thúc đẩy sự ra đời của khu vực thương
mại tự do ASEAN mà nhiều người tin rằng sẽ phục vụ tốt hơn cho quyền lợi
của ASEAN cũng như củng cố tiếng nói của khu vực này trên các diễn đàn
quốc tế.
Về bản chất, mục tiêu của AFTA là "tăng cường khả năng cạnh tranh
của khu vực ASEAN với tư cách là cơ sở sản xuất của thị trường thế giới".
Nói cách khác, AFTA là phương tiện tăng cường sức cạnh tranh quốc tế của
các thành viên và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Đồng thời, đây cũng là
công cụ để thúc đẩy thương mại và sản xuất nội bộ vùng. Kết quả là, ngày
28/1/1992, theo sáng kiến của Thai Lan, Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần
§Èy m¹nh xuÊt khÈu hµng ho¸ cña ViÖt Nam sang c¸c níc trong AFTA
NguyÔn Anh Tó Líp A7 K38B
25
thứ tư họp tại Singapore đã quyết định thành lập khu vực mậu dịch tự do
ASEAN.
Mục tiêu của AFTA là thành lập một thị trường khu vực lớn và mở cửa
với mức thuế quan thấp (từ 0% - 5%) và xoá bỏ các rào cản thương mại phí
thuế quan của các nước thành viên. Công cụ chính để thực hiện môi trường

này là hiệp định ưu đãi Thuế quan có hiệu lực chung (CFPT).
Tuy nhiên các nước ASEAN đều hiểu rằng chỉ riêng AFTA thì chưa đủ
để đạt được các mục tiêu kinh tế trên trừ khi có một hệ thống các chính sách
bổ trợ khác vượt ngoài khuôn khổ tự do hoá thương mại như xoá bỏ các rào
cản đối với đầu tư nước ngoài, hợp tác công nghiệp, thống nhất các tiêu
chuẩn, quy tắc cạnh tranh và tham vấn kinh tế vĩ mô. Hệ thống này được gọi
là AFTA – Bổ sung.
Dưới góc độ đó, nhiều người cho rằng AFTA chỉ là “bãi tập” cấp tiểu
vùng để đưa ASEAN tới một hệ thống thương mại đa phương mở cấp khu
vực và toàn cầu. Sự phụ thuộc kinh tế giữa ASEAN và khối Hợp tác kinh tế
châu Á - Thái Bình Dương (APEC) có xu hướng tăng lên mà nhóm hạt nhân
bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore cùng với
Malaysia và Thái Lan. Các nước khu vực Thái Bình Dương chiếm phần lớn
trong thương mại của ASEAN-5 (gồm Indonesia, Malaysia, Singapore,
Philippineses và Thái Lan). Ví dụ, ba phần tư tổng xuất khẩu của các nước
ASEAN-5 trong năm 1995 là với khu vực Thái Bình Dương, trong khi cũng
khu vực này chiếm tới hai phần ba tổng nhập khẩu của các nước ASEAN.
Khu vực châu Á- Thái Bình Dương là khu vực vô cùng rộng lớn và đa
dạng: lớn nhất về mặt địa lý và cũng bao gồm sự khác biệt lớn nhất về thu
nhập bình quân đầu người trong số ba khu vực kinh tế chủ yếu của thế giới là
Tây Âu, Bắc Mỹ và Châu Á - Thái Bình Dương. Tuyên bố Bogor (Indonesia,
11/1994) đã đặt mục tiêu tự do hoá thương mại vào năm 2020, nhưng với
thành tích tăng trưởng kinh tế thành công của mình, APEC cố gắng trở thành
một khu vực mở rộng của châu Á - Thái Bình Dương, chứ không phải thuần
tuý là một khối hay một vùng hội nhập.
Các nước ASEAN tham gia tích cực vào toàn bộ quá trình trên và nhận
thức rõ rằng kết quả của sự gia tăng thương mại do việc thực thi các thoả
thuận của vòng đàm phán Urugoay còn lớn hơn nhiều so với kết quả mà
AFTA có thể đưa lại. Bằng việc đẩy mạnh tiến trình AFTA, các nước ASEAN
hy vọng sẽ đi trước các thoả thuận thương mại tự do khác trong khuôn khổ

GATT (WTO) và APEC. Với tư cách là thành viên của WTO và APEC,

×