Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Cặp phạm trù nguyên nhân, kết quả docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.45 KB, 13 trang )

Cặp phạm trù nguyên nhân –kết quả
Lời mở đầu
Việt Nam nổi tiếng với một kho tàng ca dao tục ngữ đồ sộ được lưu truyền từ đời này qua
đời khác. Tục ngữ chính là những tri thức dân gian được rút ra trên cơ sở quan sát và miêu tả sự
cái cụ thể, đó là những tri thức kinh nghiệm, những "lẽ phải thông thường". Tục ngữ có mục đích
triết lý, luôn luôn cố gắng phát hiện ra bản chất và tính quy luật của các sự vật và hiện tượng tự
nhiên, xã hội và đời sống con người, do đó có thể nói tục ngữ chính là hình thức “triết học dân
gian”. Điều đó được thể hiện ở chỗ trong nội dung tục ngữ có chứa đựng những yếu tố của tư
tưởng triết học, nghĩa là những tư tưởng triết học không được thể hiện một cách đầy đủ và chặt
chẽ như những quy luật, nguyên lý và mệnh đề triết học mà nó chỉ được thể hiện một phần nào
đó và bằng cách nào đó trong nội dung của tục ngữ.
Đối với mỗi con người Việt Nam những câu như “Ở hiền gặp lành”, “Ở ác gặp dữ”,
“Gieo gió gặt bão”, “Trèo cao ngã đau”, “Nhân nào quả đấy”…là những câu tục ngữ rất đỗi quen
thuộc mà ai cũng đã từng nghe hoặc từng nói, mang ý nghĩa giáo dục về những hành động và
những điều ta nhận lại sau hành động đó. Ẩn chứa trong những câu tục ngữ hết sức gần gũi với
đời sống của mỗi chúng ta lại chính là một phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật trong
triết học. Đó là phạm trù về nguyên nhân và kết quả, hay còn gọi là phép nhân quả.
Không chỉ trong ca dao tục ngữ, ngay trong Phật giáo – tín ngưỡng gần với cuộc sống của
chúng ta cũng đề cập rất nhiều đến thuyết nhân quả, qua từng câu chuyện, từng lời răn. Ví dụ
như trong những điều Phật dạy có câu: “Sự chấp trước của ngày hôm nay sẽ là niềm hối hận cho
ngày mai” hay “Có lòng thương yêu vô tư thì sẽ có tất cả”.
Qua đó ta có thể thấy thực sự mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả có
mặt ở khắp mọi nơi trong cuộc sống. Mỗi hiện tượng, mỗi sự vật, sự việc xảy ra và tồn tại xung
quanh chúng ta, từ việc nhỏ như thức ăn được nấu chín có nguyên nhân là do sự tương tác giữa
nhiệt độ với thức ăn làm biến đổi thức ăn, hay những việc trọng đại như chiến tranh xảy ra ở một
quốc gia với nguyên nhân chủ yếu là mục đích kinh tế. Tất cả xảy ra đều có nguyên nhân của nó,
mọi việc đã làm đều nhận được kết quả tương xứng.
Vậy triết học nói chung và chủ nghĩa Mác- Lênin nói riêng có quan điểm như thế nào về
phạm trù về nguyên nhân và kết quả, một phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật. Trong
giới hạn bài thu hoạch này, nhóm chúng tôi xin trình bày về đề tài “Phân tích nội dung của cặp
phạm trù nguyên nhân và kết quả và ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù này.”


I. Phạm trù nguyên nhân và kết quả:
I.1. Khái niệm phạm trù. Bản chất của phạm trù.
I.1.1 Khái niệm phạm trù:
Trong quá trình suy nghĩ, con người thường xuyên phải sử dụng những khái niệm nhất
định như “người”, “động vật”, “kim loại”…Những khái niệm đó là hình thức của tư duy để phản
ánh những thuộc tính quan trọng nhất của lớp sự vật, hiện tượng nhất định. Tuỳ thuộc vào số
lượng của sự vật, hiện tượng được phản ánh mà ta có các khái niệm rộng, hẹp khác nhau. Trong
đó, phạm trù là khái niệm rộng nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ
chung và cơ bản nhất của các sự vật và hiện tưọng thuộc một lĩnh vực hiện thực nhất định.
Mỗi bộ môn khoa học đều có phạm trù riêng của mình. Chẳng hạn, vật lý học có các
phạm trù năng lượng, khối lượng; trong sinh học có phạm trù biến dị, di truyền; trong kinh tế học
có các phạm trù hàng hóa, giá trị; mỹ học có các phạm trù cái đẹp, cái bi, cái hài…
Phạm trù của phép biện chứng duy vật là những khái niệm chung nhất, phản ánh những
mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản phổ biến nhất của toàn bộ thế giới hiện thực
(bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy), ví dụ như các phạm trù: vật chất, ý thức, mâu thuẫn,
nguyên nhân, kết quả, bản chất, hiện tượng…
I.1.2. Bản chất của phạm trù.
Trong lịch sử triết học có nhiều quan điểm khác nhau về bản chất của phạm trù. Có nhà
triết học coi phạm trù là có sẵn, có trước con người như I.Kant - nhà triết học người Đức. Các
nhà triết học thuộc phái duy thực cho những khái niệm (phạm trù) có trước các sự vật riêng lẻ, cá
biệt và quy định các sự vật riêng lẻ, cá biệt đó. Các nhà duy danh ngược lại cho rằng, những khái
niệm (phạm trù) chỉ là tên gọi, không có nội dung, chỉ có những sự vật riêng lẻ, cá biệt là tồn tại
thực…Những quan niệm trên đều chưa đúng.
Theo triết học duy vật biện chứng, phạm trù không có sẵn bẩm sinh, mà được hình thành
trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người, bằng con đường khái quát hoá,
2
trừu tượng hoá những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có bên trong bản thân sự vật. Do vậy,
nguồn gốc, nội dung phạm trù là khách quan mặc dù hình thức thể hiện của nó là chủ quan.
Phạm trù có các tính chất sau:
- Tính khách quan: Mặc dù phạm trù là kết quả của tư duy, song nội dung mà nó phản ánh

là khách quan, do hiện thực khách quan mà nó phản ánh quy định. Nghĩa là phạm trù khách quan
về nguồn gốc, về cơ sở, nội dung, còn hình thức thể hiện của phạm trù là chủ quan.
- Tính biện chứng: Tính chất này thể hiện ở chỗ, nội dung mà phạm trù phản ánh luôn
vận động, phát triển cho nên các phạm trù cũng luôn vận động, thay đổi không đứng im. Các
phạm trù có thể thâm nhập, chuyển hoá lẫn nhau. Tính biện chứng của bản thân sự vật, hiện
tượng mà phạm trù phản ánh quy định biện chứng của phạm trù. Điều này cho chúng ta thấy
rằng, cần phải vận dụng, sử dụng phạm trù hết sức linh hoạt, uyển chuyển, mềm dẻo, biện chứng.
I.2. Cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả.
Mối quan hệ nhân quả là một trong mối quan hệ được loài người phát hiện sớm nhất
trong triết học Ấn Độ cổ đại. Mối quan hệ này là cơ sở để hình thành nhiều lý luận khác nhau,
nhất là các học thuyết tôn giáo, triết học. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều ý kiến tranh luận về việc hiểu
như thế nào là nguyên nhân, thế nào là kết quả; song giữa chúng đều có những điểm tương đồng.
Nguyên nhân và kết quả là một cặp phạm trù trong phép biện chứng duy vật. Nguyên
nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với
nhau, gây ra một biến đổi nào đó. Kết quả là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động
lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra, qua đó phản ánh
mối quan hệ hình thành của các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan. Theo định nghĩa
của B. Russell: Định luật nhân quả là bất kỳ định luật nào có thể cho chúng ta khả năng dựa tên
một biến cố để đưa ra một kết luận nào đó về một biến cố khác (hay nhiều biến cố khác).
I.2.1. Khái niệm nguyên nhân, kết quả.
Nguyên nhân là phạm trù triết học chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật
hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định.
Kết quả là phạm trù triết học chỉ là những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau
trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
3
Ví dụ: Sự tương tác lẫn nhau giữa các yếu tố trong hạt ngô là nguyên nhân làm cho từ hạt
ngô nảy mầm lên cây ngô. Sự tác động giữa điện, xăng, không khí, áp suất…(nguyên nhân) gây
ra sự nổ động cơ (kết quả).
I.2.2. Phân biệt nguyên nhân và nguyên cớ, nguyên nhân và điều kiện.
Nguyên cớ là một sự kiện nào đó trực tiếp xảy ra trước kết quả, có liên hệ với kết quả

nhưng chỉ là liên hệ bên ngoài không bản chất.
Chẳng hạn, không phải nguồn điện là nguyên nhân làm bóng đèn phát sáng mà chỉ là
tương tác của dòng điện với dây dẫn (trong trường hợp này, với dây tóc của bóng đèn) mới thực
sự là nguyên nhân làm cho bóng đèn phát sáng.
Một ví dụ khác, nước Mỹ lợi dụng nguyên cớ chống khủng bố và cho rằng Iraq có vũ khí
huỷ diệt hàng loạt để tiến hành chiến tranh xâm lược Iraq. Thực chất, Iraq không có liên quan tới
khủng bố và không có vũ khí huỷ diệt hàng loạt như thanh tra của Liên Hợp quốc đã kết luận.
Điều kiện là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân nhưng lại có
tác dụng biến khả năng chứa đựng trong nguyên nhân thành kết quả, thành hiện thực. Vì vậy,
điều kiện là cái không thể thiếu được cho sự xuất hiện kết quả. Điều kiện là hiện tượng cần thiết
để nguyên nhân phát huy tác dụng. Điều kiện khác với nguyên nhân. Nguyên nhân bao giờ cũng
tham gia vào kết quả còn điều kiện chỉ là môi trường để cho sự tác động xảy ra.
Ví dụ: nguyên nhân của hạt thóc nảy mầm là do những yếu tố bên trong hạt thóc tác động
lẫn nhau gây nên, nhưng để nẩy thành mầm thì phải có điều kiện về nhiệt độ, độ ẩm,…
Tại sao hai sinh viên khác nhau, chịu cùng một sự tác động lại cho những kết quả khác
nhau? Tương tự, tại sao trong cùng một môi trường sống, chịu tác động của cùng một hoàn cảnh
nhưng lại có người tốt, kẻ xấu? Nguyên nhân của điều này chính là sự tác động qua lại giữa hoàn
cảnh và con người. Hoàn cảnh giống nhau, nhưng tác động vào những con người có năng khiếu
khác nhau, bản lĩnh khác nhau sẽ tạo ra những con người khác nhau.
Khi một cánh cửa bị gió làm vỡ người ta nói nguyên nhân là do gió chứ không tính đến
đặc điểm của tấm kính. Chính do việc chỉ hiểu một nhân tố là nguyên nhân như thế nên nhiều lúc
người ta khó trả lời cho những câu hỏi của cuộc sống.
Cần phân biệt nguyên nhân với nguyên cớ và nguyên nhân với điều kiện. Nguyên cớ và
điều kiện không sinh ra kết quả, mặc dù nó xuất hiện cùng với nguyên nhân.
4
I.2.3. Tính chất của mối liên hệ nhân quả.
Là một cặp phạm trù của phép duy vật biện chứng, cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả
bao gồm các tính chất sau: tính khách quan, tính phổ biến và tính tất yếu.
Về tính khách quan: Thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó cho thấy vật chất đang
vận động quy đến cùng là nguyên nhân duy nhất, là nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng, quá

trình; và mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có căn cứ của nó trong những sự vật, hiện tượng,
quá trình khác. Vậy nên không có sự vật hiện tượng nào không có nguyên nhân mà chỉ có chúng
ta chưa tìm ra nguyên nhân của hiện tượng đó, và cũng không có một hiện tượng nào không sinh
ra kết quả mà chỉ có chúng ta chưa tìm ra được kết quả của nó.
Về tính phổ biến: Tính phổ biến của quan hệ nhân quả thể hiện ở chỗ mọi sự vật và hiện
tượng đều nảy sinh từ những sự vật hiện tượng khác. Trong đó cái sản sinh ra cái khác được gọi
là nguyên nhân và cái được sinh ra gọi là kết quả.
Về tính tất yếu: Thực tiễn cho thấy rằng một nguyên nhân nhất định trong hoàn cảnh nhất
định chỉ có thể gây ra kết quả nhất định. Điều đó chứng tỏ mối liên hệ nhân - quả trong những
điều kiện nhất định có tính tất yếu. Cùng một nguyên nhân như nhau, trong những điều kiện như
nhau thì kết quả gây ra phải như nhau. Nghĩa là nguyên nhân tác động trong những điều kiện
càng ít khác nhau thì kết quả do chúng gây ra càng giống nhau.
Ví dụ: Nước ở áp suất 1 atm luôn luôn sôi ở 1000 độ C.
II. Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
II.1. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ khách
quan, bao hàm tính tất yếu: không có nguyên nhân nào không dẫn tới kết quả nhất
định và ngược lại không có kết quả nào là không có nguyên nhân.
Nữ diễn viên nổi tiếng Marilyn Monroe đã từng nói “I believe that everything happens
for a reason”, có nghĩa rằng “Tôi tin là mọi việc xảy ra đều có lí do của nó”. Mối quan hệ nhân
quả là mối quan hệ mang tính tất yếu hiển nhiên và được tất cả mọi người công nhận. Mọi sự
vật, hiện tượng xung quanh ta đều có một nguyên nhân nhất định, từ những điều nhỏ nhất cho tới
những điều to lớn nhất.
5
Ví dụ: Phần lớn các nhà khoa học đều chung quan điểm về thuyết Vụ nổ lớn (Big Bang
Theory) đã tạo nên Hệ Mặt trời. Vụ nổ lớn chính là nguyên nhân, còn sự hình thành Hệ Mặt trời
(trong đó có Trái Đất) là kết quả. Mặc dù lí thuyết này đã được chứng minh bằng thực nghiệm
vật lý (chứng minh qua định luật Hubble về sự giãn nở của vũ trụ, bức xạ phông vũ trụ, sự phân
bố và tiến hóa của các thiên hà và đặc biệt là sự hình thành các nguyên tố cơ bản), thậm chí đã
được tái tạo thành công bởi các nhà khoa học Anh; song nó vẫn gặp nhiều phản bác từ các tín đồ
tôn giáo; họ cho rằng thuyết Vụ nổ lớn đi ngược lại với sự sáng thế trong Kinh thánh hay Kinh

Qur’an. Tuy nhiên, nhiều người theo đạo Cơ đốc, Ấn Độ giáo và Hồi giáo đã thừa nhận tính
đúng đắn của thuyết Big Bang, đặc biệt là Giáo hội Công giáo La Mã và Giáo hoàng Pius XII.
II.2. Nguyên nhân sinh ra kết quả, do vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả,
còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân.
Tuy nhiên, không phải hai hiện tượng nào nối tiếp nhau về thời gian cũng là quan hệ nhân
quả. Ví dụ như ngày kế tiếp đêm, sấm kế tiếp chớp…nhưng không phải đêm là nguyên nhân của
ngày hay chớp là nguyên nhân của sấm. Cần phân biệt rõ ràng quan hệ nhân quả với sự kế tiếp
về mặt thời gian. Quan hệ nhân quả có tính chất kế tiếp về mặt thời gian, nhưng những hiện
tượng kế tiếp nhau về thời gian chưa chắc đã có quan hệ nhân quả.
Thực tế, nguyên nhân sinh ra ngày và đêm là sự tự quay của Trái Đất quanh trục Bắc
Nam của nó, ánh sáng mặt trời chỉ chiếu sang phần bề mặt Trái Đất hướng về phía mặt trời. Sấm
và chớp đều do sự phóng điện giữa các đám mây tích điện trái dấu nhau, nhưng vì vận tốc ánh
sáng truyền trong không gian nhanh hơn vận tốc âm thanh nên chúng ta sẽ thấy chớp trước khi
nghe thấy tiếng sấm.
II.3. Một nguyên nhân có thể sinh ra một hoặc nhiều kết quả và một kết quả có thể do
một hoặc nhiều nguyên nhân tạo nên.
- Trường hợp một nguyên nhân sinh ra một kết quả: Vì đói nên người ta phải ăn, vì khát
nên người ta phải uống Đây là bản năng của mỗi người, khi đó họ sẽ có phản xạ có điều kiện:
tìm kiếm đồ ăn trong tủ lạnh hoặc đi mua đồ uống ở cửa hàng yêu thích…
- Trường hợp một nguyên nhân sinh ra nhiều kết quả: Cuộc khủng hoàng tài chính tại Mĩ
không chỉ gây ra sự nổ tung thị trường bất động sản và thị trường tài chính, sự phá sản của nhiều
ngân hàng ở Mĩ mà còn kéo theo sự khủng hoảng ở các nước châu Âu và lan rộng ra toàn thế
6
giới. Hàng triệu người Anh lâm vào cảnh thất nghiệp. Tổ chức lương thực và nông nghiệp Liên
hợp quốc (FAO) dự báo sẽ có khoảng 17 triệu người lâm vào cảnh thiếu đói. Ngoài ra còn rất
nhiều những tác động khác của cuộc khủng hoảng kinh tế vẫn đang tồn tại trên toàn thế giới.
- Trường hợp nhiều nguyên nhân sinh ra một kết quả: Hiện tượng mất mùa có thể xảy ra
vì nhiều nguyên nhân: không diệt trừ được hết sâu bệnh gây hại cho lúa, đất canh tác không được
cày bừa đào xới cẩn thận, không chăm sóc bón phân thường xuyên, thiên tai, hạn hán lũ lụt dẫn
tới mất mùa…ngoài ra còn có rất nhiều những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác.

II.4. Vị trí và vai trò của các nguyên nhân là khác nhau trong việc hình thành kết quả;
ngược lại, một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả khác nhau.
Khi một kết quả được sinh ra bởi nhiều nguyên nhân, những nguyên nhân có thể tác động
theo các hướng thuận nghịch khác nhau vè đều có ảnh hưởng tới sự hình thành kết quả, nhưng vị
trí và vai trò của chúng là khác nhau. Có nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân gián tiếp, nguyên
nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài…Ngược lại, một nguyên nhân có thể đưa đến nhiều kết
quả, trong đó có kết quả chính, kết quả phụ, kết quả cơ bản, kết quả trực tiếp, kết quả gián tiếp…
Ví dụ: Cuộc xâm lược của Liên quân Hoa Kì, Anh, Úc và Ba Lan (chủ yếu là Hoa Kì)
vào Iraq vào năm 2003 sau khi tranh cãi về vấn đề vũ khí hạt nhân, vũ khí sinh học và vũ khí hóa
học ở Iraq. Có nhiều nguyên nhân cho cuộc xâm lược này, cụ thể như sau:
Nguyên nhân trực tiếp (hay chính là cái cớ để Hoa Kì đưa quân vào Iraq và hợp pháp hóa
cuộc chiến) là sự nghi ngờ của Mĩ và đồng minh phương Tây về vấn đề vũ khí hạt nhân và vũ
khí hóa học ở Iraq mà sau này chính các quốc gia đó khẳng định là ở Iraq không có những vấn đề
này.
Nguyên nhân gián tiếp (nguyên nhân sâu xa) chính là nguồn tài nguyên dầu mỏ phong
phú của Iraq mà theo Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa OPEC, trữ lượng dầu của Iraq đã tăng
24% so với 115 tỉ thùng của những năm 70 thế kỉ XX, chỉ đứng sau hai nước là Saudi Arabia và
Venezuela. Một nguyên nhân khác nữa chính là sự bất hòa giữa Iraq và Israel – đồng minh quan
trọng nhất của Mĩ ở khu vực Trung Đông.
Sau mười hai năm, cuộc xâm lược này đã để lại nhiều hậu quả khôn lường tới nền kinh tế
và xã hội Iraq. Chín năm sau khi chính quyền Saddam Hussein bị lật đổ, Iraq vẫn chưa thành lập
được chính phủ sau cuộc bầu cử ngày 7/3, vì các đảng phái vẫn bất đồng với nhau, mâu thuẫn
sắc tộc Shite, Sunni và Kurd, đa số người dân đang sống trong cảnh nghèo đói cùng cực. Hơn 1
7
triệu người Iraq bị giết hại. Kiệt quệ, nợ nần, Iraq đang hoang tàn. Đường sá, bệnh viện, nền kinh
tế… cần phải tái thiết lại tất cả. Còn thiếu 1 triệu nhà ở, 5.000 trường học. Chi phí cho tái thiết sẽ
vượt quá 500 tỉ USD, một con số khổng lồ.
Không đơn thuần là tuổi thơ không lành lặn, cuộc chiến còn cướp đi mạng sống và hằn in
những khiếm khuyết trên cơ thể hàng ngàn trẻ em Iraq.
Về phía Mĩ, cuộc chiến tranh Iraq đã làm hơn 4.400 binh sĩ Mỹ chết, hàng nghìn binh sĩ

bị thương. Nhiều người dân Mỹ bất bình khi chứng kiến hằng ngày con em họ phải đổ máu ở
một đất nước xa xôi. Rồi cả những nỗi đau bị giày vò cả về thể xác lẫn tinh thần, hàng ngàn
người mắc bệnh tâm thần với "Hội chứng Iraq".
Cuộc chiến tranh Iraq đã tiêu tốn của Mỹ 740 tỷ USD, trong khi nước Mỹ đang phải gồng
mình để vượt qua khủng hoảng, phục hồi kinh tế. Chính quyền Mỹ cũng phải cay đắng thừa
nhận, một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế là do sa lầy" trong cuộc chiến
ở Iraq và Afghanistan.
Trái với tuyên truyền của Mỹ rằng sẽ đem lại tự do cho người dân Iraq, đất nước này gần
9 năm qua đã chìm trong bom đạn, chết chóc, đau thương. Mỹ không những không trấn áp được
khủng bố mà Iraq còn trở thành một "địa bàn" cho khủng bố tung hoành. Sự hận thù của người
dân Iraq càng thổi bùng làn sóng chống Mỹ và đây cũng là một trong những nguyên nhân làm
gia tăng các vụ đánh bom liều chết.
II.5. Trong sự vận động của thế giới vật chất, không có nguyên nhân đầu tiên và kết
quả cuối cùng.
Friedrich Engels đã viết: “Chúng ta cũng thấy rằng nguyên nhân và kết quả là những khái
niệm chỉ có ý nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt
nhất định; nhưng một khi chúng ta nghiên cứu trường hợp riêng biệt ấy trong mối liên hệ chung
của nó với toàn thế giới thì những khái niệm ấy lại vẫn gắn với nhau và xoắn xuýt với nhau trong
một khái niệm về sự tác động qua lại lẫn nhau một cách phổ biến, trong đó nguyên nhân và kết
quả luôn luôn thay đổi vị trí cho nhau; cái ở đây hoặc trong lúc này là nguyên nhân thì ở chỗ
khác hoặc ở lúc khác lại là kết quả, và ngược lại.”
Hiểu một cách đơn giản, “nguyên nhân” và “kết quả” cũng mang tính tương đối, tương tự
như khái niệm về “đứng yên” và “chuyển động” trong Vật lí. Một vật được coi là đứng yên với
vật này nhưng lại coi là chuyển động với vật khác. Tương tự như vậy, một hiện tượng có thể là
8
“nguyên nhân” trong trường hợp riêng biệt này nhưng lại là “kết quả” trong trường hợp riêng
biệt khác. Khi nghiên cứu những trường hợp riêng biệt này trong mối quan hệ với những trường
hợp khác, ta sẽ nhận ra được sự gắn bó và tác động qua lại của chúng với nhau.
Ví dụ: Khói bụi và khí thải công nghiệp, khí độc hại như cacbon oxit, lưu huỳnh dioxit,
CFC…là một trong những nguyên nhân gây ra ô nhiễm không khí, gây ra những hiện tượng như

hiệu ứng nhà kính hay sự nóng lên của Trái Đất. Tuy nhiên, chúng lại là kết quả của những hoạt
động sản xuất công nghiệp của con người mà không qua xử lí khí thải, của sinh hoạt hàng ngày,
của hoạt động giao thông vận tải…
III. Ý nghĩa phương pháp luận.
Thông qua việc tìm hiểu về khái niệm nguyên nhân, kết quả, mối quan hệ biện chứng
giữa chúng, ta có thể rút ra một số ý nghĩa về phương pháp luận của cặp phạm trù nguyên nhân
kết quả, cụ thể như sau:
Thứ nhất, vì mối liên hệ nhân quả là mối quan hệ có tính khách quan, tất yếu nên
trong nhận thức và thực tiễn không thể phủ nhận quan hệ nhân quả. Trong thế giới hiện
thực không thể tồn tại những sự vật, hiện tượng hay quá trình biến đổi không có nguyên
nhân và ngược lại không có nguyên nhân nào không dẫn tới những kết quả nhất định.
Ví dụ: Vấn đề ô nhiễm môi trường.
+ Môi trường là không gian sống, là nơi cung cấp nguồn tài nguyên cần thiết cho dân
sinh và hoạt động sản xuất của con người, là nơi chứa đựng các phế thải do con người tạo ra
trong cuộc sống và hoạt động sản xuất. Môi trường là cơ sở để tồn tại cuộc sống của con người.
+ Hiện nay trong bối cảnh toàn cầu nói chung, trước sự phát triển như vũ bão của nền
kinh tế, môi trường đang bị ô nhiễm trầm trọng, đặc biệt là các nước đang phát triển, trong đó có
Việt Nam.
+ Ô nhiễm môi trường xảy ra sẽ để lại những hậu quả nghiên trọng, khôn lường, nó ảnh
hưởng rất lớn đến cuộc sống tốt đẹp của mọi quốc gia và sự phát triển của nền kinh tế trên toàn
thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng. Do vậy, con người muốn tồn tại và phát triển phải không
ngừng chăm lo bảo vệ môi trường, bảo vệ và cải thiện môi trường đang là một trong những vấn
đề quan trọng được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm trong chiến lược phát triển chung về kinh
9
tế xã hội. Nhất là trong những năm gần đây, nước ta đang tiến dần trên con đường công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đã thúc đẩy quá trình đô thị hóa. Đô thị hóa không chỉ mang lại lợi ích riêng về
tăng trưởng kinh tế mà còn có ý nghĩa xã hội như: nâng cao chất lượng cuộc sống, nâng cao dân
trí và cải thiện các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Tuy nhiên, cùng với những lợi ích này thì đô thị
hóa lại đưa đến những hậu quả xã hội nghiêm trọng, đặc biệt là ô nhiễm môi trường.
Như vậy, nguyên nhân là do đô thị hóa đã dấn tới nhiều kết quả mà trong đó vấn đề nổi

cộm là hậu quả ô nhiễm môi trường.
Thứ hai, vì mối liên hệ nhân quả rất phức tạp, đa dạng nên phải phân biệt chính xác
các loại nguyên nhân để có phương pháp giải quyết đúng đắn, phù hợp với mỗi trường hợp
cụ thể trong nhận thức và thực tiễn.
Muốn tìm nguyên nhân phải tìm trong thế giới hiện thực, trong bản thân các sự vật, hiện
tượng tồn tại trong thế giới vật chất chứ không được tưởng tượng ra từ trong đầu óc của con
người, tách rời thế giới hiện thực. Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những
nguyên nhân này có vai trò khác nhau đối với việc hình thành kết quả. Vì vậy trong hoạt động
thực tiễn chúng ta cần phân loại các nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân chủ
yếu, nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách
quan Đồng thời phải nắm được chiều hướng tác động của các nguyên nhân, từ đó có biện pháp
thích hợp tạo điều kiện cho nguyên nhân có tác động tích cực đến hoạt động và hạn chế sự hoạt
động của nguyên nhân có tác động tiêu cực.
Ví dụ: Anh A giết chết người.
+ Nếu anh A phòng vệ chính đáng theo đúng quy định của pháp luật hình sự thì anh ta sẽ
được khoan hồng giảm mức án hoặc không bị kết án.
+ Nếu anh A cố ý gây chết người (cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp) thì anh A sẽ bị xử lí
theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, trong quá trình điều tra xét xử, cơ quan điều tra, Tòa án và
Viện kiểm sát có thể tìm ra những yếu tố để tăng nặng hoặc giảm nhẹ mức án của anh A (ví dụ
như giết người trong tình trạng bị kích động, giết người khi không có hoặc không có đầy đủ năng
lực hành vi, tái phạm khi chưa xóa án tích…).
10
Vì mối liên hệ nhân quả rất phức tạp, đa dạng nên phải phân biệt chính xác các loại
nguyên nhân để có phương án giải quyết đúng đắn, phù hợp với mỗi trường hợp cụ thể trong
nhận thức và thực tiễn.
Thứ ba, một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả và ngược lại, một kết quả có
thể do nhiều nguyên nhân, vì thế trong nhận thức và thực tiễn cần phải có cách nhìn toàn
diện và lịch sử, cụ thể trong phân tích để giải quyết và ứng dụng quan hệ nhân quả.
Ví dụ: Công cuộc cách mạng giải phóng miền Nam thống nhất đất nước của chúng ta
thắng lợi, đó là kết quả của nhiều nguyên nhân, bao gồm:

+ Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và nhà nước.
+ Nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân ta đã phát huy truyền thống yêu nước của
dân tộc, một lòng đi theo Đảng, đi theo Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm ngoan cường, bền bỉ, lao
động quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và vì quyền sống của con
người.
+ Việt Nam đã kêu gọi được sự ủng hộ của các nước, các dân tộc xã hội chủ nghĩa và các
nước, các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới.
Có thể nói, cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả không phải là một vấn đề triết học xa lạ,
khó hiểu, trái lại, nó vô cùng thiết thực với cuộc sống của mỗi cá nhân và những vấn đề của cộng
đồng, đặc biệt với những người đang ngồi trên giảng đường đại học, những sinh viên – chủ nhân
tương lai của đất nước; đặc biệt khi thời gian gần đây, những vấn đề như chất lượng đào tạo,
phương pháp đào tạo, vấn đề bằng cấp và thất nghiệp ngày càng trở nên nóng hổi. Thiết nghĩ,
nguyên nhân nào dẫn tới những điều này, và những vấn đề này sẽ để lại hậu quả ra sao?
Nhu cầu học của tất cả mọi người trong xã hội ngày một gia tăng, khả năng tiếp cận và
cập nhật thông tin của sinh viên ngày càng tiến bộ, liệu rằng những thông tin ghi trong sách giáo
khoa có còn phù hợp? Phương pháp dạy học mang tính lí thuyết nhàm chán, thiếu thực tế liệu có
hiệu quả? Việc các công ty tuyển dụng quá coi trọng vấn đề bằng cấp sẽ dẫn đến những hậu quả
gì? Thực tế đã chỉ ra rằng, tình trạng thất nghiệp của sinh viên ra trường vì thiếu việc làm hay vì
thiếu kinh nghiệm thực tế, vấn đề “thừa thầy thiếu thợ”, cả những nghi án tiêu cực “chạy bằng
11
cấp”…tất cả những thứ đó là hậu quả dễ thấy nhất, và không ai khác, chính chúng ta phải hứng
chịu những hậu quả đó.
.


Kết luận
Trong cuộc sống xung quanh chúng ta, mỗi hành động cử chỉ đều có kết quả của nó, mỗi
tác động dù là nhỏ nhất cũng có thể là nguyên nhân cho một kết quả to lớn. Chính vì vậy cặp
phạm trù nguyên nhân – kết quả là một cặp phạm trù vô cùng phổ biến trong đời sống. Bài thu
hoạch này nhằm khẳng định giá trị về mặt tư tưởng, khoa học của cặp phạm trù cơ bản nguyên

nhân kết quả, qua đó để mỗi người chúng ta có cái nhìn sâu rộng hơn về vấn đề nhân quả trong
đời sống. Để những kiến thức triết học tác động vào đời sống, giúp chúng ta thay đổi cái nhìn
phiến diện, thay bằng cái nhìn da diện nhiều chiều với cuộc sống, để mỗi con người khi đã được
tiếp cận với triết học nói chung và về cặp phạm trù nguyên nhân kết quả nói riêng sẽ hiểu rằng
mọi hành động dù tốt dù xấu của chúng ta ngày hôm nay, luôn có một hoặc nhiều kết quả cho
tương lai, hay những kết quả mà hôm nay ta nhận được cũng luôn có nguyên nhân tạo nên.
Nhìn vào cuộc sống ngày hôm nay, chúng ta đang sống ở đây, trên mảnh đất quê hương
này một cách bình yên, hòa bình, chính là kết quả đấu tranh của đời đời lớp lớp cha ông ta để lại.
Chúng ta học tập ngày hôm nay là nền tảng của những thành công trong tương lai ta đạt được.
Chính vì lẽ đó, những học sinh, sinh viên của đất nước càng cần phải biết gắn bó, gánh vác, hi
sinh cho Tổ Quốc, để xứng đáng với cha ông đi trước; trong đó việc làm thiết thực nhât đó là học
tập và rèn luyện để có đủ tri thức, bản lĩnh, sức khỏe, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc giàu đẹp hơn.
Ví dụ: Khi nói về chiến tranh xâm lược của Pháp tại Việt Nam trong vào giữ thế
kỷ XIX thì ai cũng biết rõ đó là do thời kì này các nước tư bản đang trên con đường phát
triển nhanh của chủ nghĩa tư bản nhu cầu về thị trường, nhân công ,thuộc địa ngày càng
12
lớn trong khi đó chế độ phong kiến ở các nước phương Đông ( Đông Nam Á) lại đang
trong tình trạng khủng hoảng , vì vậy đây chính là mục tiêu nhòm ngó của các nước
phương Tây trong đó có Việt Nam. Nhưng nguyên cớ mà Pháp sử dụng để hợp pháp hóa
cuộc xâm lược của mình lại là triều đình Nguyễn làm nhục quốc thể Pháp và bảo vệ đạo
Ki tô.
13

×