Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Pháp luật về lao động tàn tật ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.1 KB, 77 trang )

PHẠM THỊ THANH VIỆT

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ THANH VIỆT

*
PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG TÀN TẬT Ở VIỆT NAM

PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG TÀN TẬT
Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

*

Hà Nội 2009

Hà Nội – 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ THANH VIỆT

PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG TÀN TẬT
Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật Kinh tế


Mã số

: 603850

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Hoài Thu

Hà Nội – 2009


MỤC LỤC

Trang

Lời mở đầu

3

Chƣơng 1. Khái quát chung về lao động tàn tật và sự cần thiết

7

phải có những quy định riêng đối với lao động tàn tật
1.1 Lao động tàn tật – Một loại lao động có đặc điểm riêng

7

1.1.1 Lao động có đặc điểm riêng theo pháp luật lao động Việt Nam


7

1.1.2 Lao động tàn tật – Một loại lao động có đặc điểm riêng

9

1.1.2.1 Khái niệm lao động tàn tật

9

1.1.2.2 Phân loại lao động tàn tật

12

1.2. Sự cần thiết phải có quy định riêng đối với lao động tàn tật

14

1.2.1 Đặc điểm về sinh lý, sức khoẻ

14

1.2.2 Đặc điểm về tâm lý

16

1.2.3 Yếu tố xã hội

17


1.3 Ý nghĩa của những quy định riêng đối với lao động tàn tật

22

1.4 Lƣợc sử quá trình hình thành và phát triển pháp luật về lao

26

động tàn tật ở Việt Nam
Chƣơng 2. Chế độ pháp lý hiện hành về lao động tàn tật và thực

35

tiễn áp dụng ở Việt Nam
2.1. Các quy định pháp luật cơ bản đối với lao động tàn tật

34

2.1.1 Nhóm các quy định về chế độ đối với lao động tàn tật

34

2.1.1.1 Quy định về quyền làm việc của lao động tàn tật

34

2.1.1.2 Nhóm các quy định về học nghề và việc làm cho lao động

36


tàn tật
2.1.2 Nhóm các quy định về cơ sở dạy nghề, cơ sở sản xuất kinh

39

doanh
2.1.2.1 Nhóm các quy định về cơ sở dạy nghề, cơ sở sản xuất

39

kinh doanh dành riêng cho người tàn tật
2.1.2.2 Nhóm các quy định về cơ sở dạy nghề và doanh nghiệp
khác thuộc mọi thành phần kinh tế

1

42


2.1.2.3 Nhóm các quy định riêng về dạy nghề cho lao động tàn

43

2.1.3 Quy định về tỷ lệ lao động tàn tật mà doanh nghiệp phải nhận

46

tật
vào làm việc
2.1.4 Về quỹ việc làm cho người tàn tật


48

2.1.5 Nhóm các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi

50

2.1.6 Nhóm các quy định về an tồn lao động, vệ sinh lao động

51

2.2 Thực trạng lao động tàn tật và việc thực hiện các quy định

52

pháp luật đối với lao động tàn tật
2.2.1 Thực trạng lao động tàn tật

52

2.2.2 Việc thực hiện pháp luật về lao động tàn tật

54

Chƣơng 3 Hoàn thiện pháp luật về lao động tàn tật ở Việt Nam

57

3.1 Một số nhận xét và đánh giá pháp luật về lao động tàn tật


57

3.1.1 Về ưu điểm

57

3.1.2 Về hạn chế

59

3.2 Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về lao động tàn tật

62

3.2.1 Về mặt khách quan

62

3.2.2 Về mặt chủ quan

63

3.3 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về lao động tàn tật

64

3.3.1 Về các quy định của pháp luật

64


3.3.2 Về các biện pháp tổ chức thực hiện và hỗ trợ

67

Kết Luận

70

Tài liệu tham khảo

71

2


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ và Việt Nam vừa
gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), u cầu về nguồn nhân lực có
trình độ cao là rất lớn, vấn đề tạo việc làm cho người lao động đang là mối quan
tâm bức thiết của người dân nói chung và người tàn tật nói riêng.
Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục và tạo việc làm cho người tàn tật, tạo điều
kiện cho họ vượt qua những khó khăn, hịa nhập vào đời sống cộng đồng, xã hội
là những hoạt động có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội và nhân văn sâu sắc.
Theo số liệu thống kê, ở nước ta hiện có khoảng 5,3 triệu người tàn tật chiếm
6,34% dân số, trong đó trên 69% đang ở độ tuổi lao động. Đại bộ phận lao động
tàn tật không thể sống tự lập, khoảng 70% phải sống dựa vào gia đình, chỉ có
khoảng 30% có hoạt động tạo thu nhập bằng các nghề thủ công truyền thống.
93,4% người khuyết tật từ 16 tuổi trở lên không có chun mơn kỹ thuật; số có
chứng chỉ nghề chỉ có khoảng 6,5%. (theo số liệu của ngành lao động – thương

binh và xã hội). Do vậy, vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động tàn tật là
một vấn đề hết sức khó khăn, cịn nhiều vướng mắc cần phải giải quyết.
Bộ luật lao động được Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thơng qua ngày 23 tháng 6 năm 1994, có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 01 năm 1995 và Bộ luật đến nay đã qua ba lần sửa đổi, bổ sung vào các
năm 2002, 2006, 2007. Bộ luật lao động đã có những quy định riêng cho một số
loại lao động đặc thù, trong đó có lao động là người tàn tật. Những quy định về
“Lao động là người tàn tật” tại mục III, Chương XI của Bộ luật lao động là sự
kế thừa và phát triển các văn bản pháp luật trước đó trong lĩnh vực lao động.
Trong thời gian qua, mặc dù, việc ban hành các chính sách, quy định pháp luật
đã tương đối đầy đủ song vì nhiều nguyên nhân khác nhau, các chính sách và
quy định pháp luật vẫn chưa được thực hiện có hiệu quả và người tàn tật vẫn
gặp khó khăn trong việc tìm được một việc làm cùng thu nhập ổn định. Tình
3


trạng sử dụng lao động tàn tật khơng có hợp đồng lao động, khơng có bảo hiểm
xã hội, sự vi phạm về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, về an tồn vệ sinh
lao động,… cịn xảy ra khá phổ biến. Hơn thế, cơng tác thanh kiểm tra cịn lỏng
lẻo, việc xử lý vi phạm còn bị xem nhẹ, việc tuyên truyền phổ biến pháp luật
trong đối tượng này cịn chưa thường xun và chưa sâu rộng.
Từ tình hình trên em lựa chọn “Pháp luật về lao động tàn tật ở Việt
Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình, với mong muốn góp phần vào việc
hồn thiện những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật đối với lao động tàn
tật ở nước ta.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu gồm hai mặt là:
- Phân tích và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các
quy định pháp luật đối với lao động là người tàn tật.
- Từ đó, rút ra những kết luận cần thiết, những ý kiến đề xuất nhằm góp

phần hồn thiện chế độ pháp lý đối với lao động tàn tật, cũng như áp dụng có
hiệu quả chúng trong thực tiễn đời sống.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Khái quát chung về lao động tàn tật, thực trạng lao động tàn tật ở Việt
Nam.
- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật đối với lao động tàn tật
và thực tiễn áp dụng.
- Ngoài ra, luận văn còn nêu lên những điểm hạn chế, bất cập trong các
quy định pháp luật về lao động tàn tật, để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật về lao động tàn tật ở Việt Nam.
4. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu pháp luật về lao động tàn tật ở Việt Nam là một đề tài khá
mới mẻ trên cả bình diện lý luận và thực tiễn. Đã có một số bài báo và một vài
cơng trình nghiên cứu về vấn đề này, như:

4


- Khóa luận tốt nghiệp (2000), “Chế độ lao động đối với người tàn tật”,
của Trần Thị Hoa.
- Khóa luận tốt nghiệp (2004), “Chế độ lao động đối với người tàn tật ở
Việt Nam” của Nguyễn Thị Kim Oanh.
Ngoài ra, còn một số bài báo cũng đề cập đến lao động tàn tật như: “Tạo
cơ hội cho người khuyết tật hịa nhập và tiếp cận đầy đủ trong q trình phát
triển” của TS. Đàm Hữu Đắc đăng trên Tạp chí Lao động và Xã hội số 324/2007
hay “Để người khuyết tật Việt Nam có việc làm phù hợp và ổn định” của
Nghiêm Xuân Tuệ đăng trên Tạp chí Lao động và Xã hội số 304 + 305/2007,…
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu đó chưa làm rõ các khía cạnh
pháp lý đối với lao động tàn tật. Hầu hết các cơng trình, bài viết của các tác giả
chủ yếu tiếp cận vấn đề từ khía cạnh xã hội mà chưa quan tâm nhiều đến khía

cạnh pháp lý của vấn đề lao động là người tàn tật. Do đó, có thể nói rằng, đề tài
“Pháp luật về lao động tàn tật ở Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu một cách
có hệ thống, tương đối toàn diện lao động tàn tật dưới góc độ pháp luật. Trước
thực tiễn lao động tàn tật ở Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu có hệ thống vấn
đề này mang tính thời sự cao, nhất là chúng ta đang bắt tay vào việc sửa đổi, bổ
sung Bộ luật lao động, dự kiến trình Quốc hội vào năm 2011, xây dựng Luật
Người tàn tật, dự kiến trình Quốc hội vào năm 2010. Kết quả của đề tài sẽ góp
phần vào việc hồn thiện các quy định của pháp luật lao động cũng như quá
trình tổ chức thực hiện pháp luật đối với lao động này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả lấy phép biện chứng của triết
học Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho q trình nghiên cứu. Ngồi ra,
phương pháp phân tích, đối chiếu so sánh, khảo sát, thu thập,… được sử dụng
phù hợp với từng mặt, từng lĩnh vực nghiên cứu của đề tài. Hệ thống các văn
bản quy phạm pháp luật, đặc biệt trong lĩnh vực lao động liên quan đến người
tàn tật là cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý cho quá trình nghiên cứu.

5


6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mục lục, lời nói đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Khái quát chung về lao động tàn tật và sự cần thiết phái có
những quy định riêng đối với lao động tàn tật.
Chương 2. Các quy định pháp lý hiện hành về lao động tàn tật và thực
tiễn áp dụng ở Việt Nam
Chương 3. Hoàn thiện pháp luật về lao động tàn tật ở Việt Nam

6



CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LAO ĐỘNG TÀN TẬT VÀ SỰ CẦN THIẾT
PHẢI CÓ NHỮNG QUY ĐỊNH RIÊNG ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG TÀN TẬT
1.1. Lao động tàn tật – Một loại lao động có đặc điểm riêng
1.1.1 Lao động có đặc điểm riêng theo pháp luật lao động Việt Nam
Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001), một văn bản
pháp lý có hiệu lực cao nhất của nước ta đã ghi nhận: “Lao động là quyền và
nghĩa vụ của công dân” (Điều 55) và “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp
luật” (Điều 52). Như vậy, quyền và nghĩa vụ lao động là một phạm trù pháp lý
phổ biến áp dụng với mọi công dân Việt Nam, điều này cũng phù hợp với
Tuyên ngôn của Đại hội đồng Liên hiệp quốc về quyền con người (năm 1948).
Trong Bộ luật lao động Việt nam có nêu “Người lao động là người có ít
nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động: (Điều
6). Song có một thực tế là trong số những người lao động đáp ứng cả ba yếu tố
trên không phải đều tham gia vào quan hệ lao động một cách giống nhau. Xuất
phát từ tính chất, đặc điểm của ngành nghề, công việc cũng như đặc điểm riêng
của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ lao động mà ngoài những quy định
chung cho mọi người lao động, Bộ luật lao động đã dành riêng Chương XI, quy
định lao động có tính đặc thù. Cần phải lưu ý rằng, việc quy định một số chế độ
lao động áp dụng riêng cho một số lao động đặc biệt không phải là một đặc
quyền, đặc lợi mà xuất phát từ hoàn cảnh thực tế khách quan, từ nhu cầu chính
đáng của lao động này, giúp họ giảm bớt những khó khăn, thiệt thịi trong cuộc
sống, hịa nhập với cộng đồng và bảo vệ họ khi tham gia vào quan hệ lao động.
Như vậy, có thể hiểu lao động có đặc điểm riêng là hệ thống các quy
phạm điều chỉnh một số quan hệ lao động có những yếu tố đặc thù nhằm bảo vệ
những lợi ích của bản thân người lao động cũng như lợi ích chung của xã hội.
Trong điều kiện hiện nay, lao động có đặc điểm riêng được coi như một
chế định của luật lao động Việt Nam, chế định này được phân loại dựa trên một

số yếu tố cơ bản và có tính phổ biến sau:

7


Thứ nhất, xuất phát từ những đặc điểm của bên chủ thể là người lao động
có:
- Lao động nữ
- Lao động chưa thành niên
- Lao động là người tàn tật
- Lao động là người cao tuổi
- Lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao
- Lao động là người nước ngoài
Thứ hai, xuất phát từ những đặc điểm của bên chủ thể là người sử dụng
lao động có:
- Lao động cho tổ chức, cá nhân nước ngoài
- Lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài
- Lao động ở những nơi sử dụng dưới 10 người lao động
Thứ ba, xuất phát từ những đặc điểm, tính chất của cơng việc có:
- Lao động nghệ thuật
- Lao động làm việc tại nhà
- Lao động giúp việc gia đình
Cho đến nay, ở nước ta chưa có tiêu chí và phân loại thống nhất về người
tàn tật cũng như lao động tàn tật. Theo báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh
và Xã hội tại Tờ trình Chính phủ về Dự án luật người khuyết tật số 45/TTrLĐTBXH ngày 07 tháng 8 năm 2009 thì cả nước hiện có khoảng 5,3 triệu người
tàn tật, chiếm 6,34% dân số. Trong đó: 29,41% tàn tật vận động, 16,82% tâm
thần, 17% đa dạng tật, 13,84% thị giác, các dạng tật thính giác, ngơn ngữ, trí tuệ
chiếm tỷ lệ thấp hơn (từ 6 – 10%). Nguyên nhân gây ra tàn tật có tới 35,8% bẩm
sinh, do bệnh tật chiếm 32,24%; do hậu quả chiến tranh là 25,56%, còn lại là
các nguyên nhân khác như tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và tai nạn giao

thông… Dự báo trong nhiều năm tới số lượng người tàn tật ở Việt Nam chưa
giảm do tác động của ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng của chất độc hóa học do

8


Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam, tai nạn giao thông và tai nạn lao động,
hậu quả thiên tai.
Trong số những người tàn tật thì trên 69% đang ở độ tuổi lao động. Đại
bộ phận lao động tàn tật không thể sống tự lập, khoảng 70% phải sống dựa vào
gia đình, chỉ có khoảng 30% có hoạt động tạo thu nhập bằng các nghề thủ công
truyền thống. 93,4% người khuyết tật từ 16 tuổi trở lên khơng có chun mơn
kỹ thuật; số có chứng chỉ nghề chỉ có khoảng 6,5%. 31, tr.4.
1.1.2 Lao động tàn tật – Một loại lao động có đặc điểm riêng
1.1.2.1 Khái niệm lao động tàn tật
Cơ sở xác định ai sẽ được công nhận là người tàn tật và từ đó được bảo vệ
bởi hệ thống luật pháp liên quan, phụ thuộc rất nhiều vào mục tiêu mà luật hoặc
các chính sách cụ thể đó theo đuổi. Do vậy, khơng có một khái niệm chung nào
về người tàn tật có thể được áp dụng cho tất cả các văn bản pháp luật. Có hai
cách tiếp cận khác nhau cho khái niệm này như sau:
Định nghĩa nhắm tới đối tượng hưởng lợi ở quy mô hẹp và đồng nhất, có
liên quan đến suy giảm khả năng, được sử dụng để xây dựng các văn bản luật
với mục tiêu hỗ trợ về mặt vật chất hoặc tài chính cho từng cá nhân tàn tật, hoặc
người sử dụng lao động tàn tật.
Định nghĩa khác mang ý nghĩa bao quát hơn nhằm bảo vệ những người
tàn tật khỏi bị phân biệt đối xử, định nghĩa này có đối tượng bảo vệ rộng hơn,
bao gồm cả những người tàn tật nhẹ.
Ở Trung Quốc, Luật của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về bảo vệ
người khuyết tật ban hành năm 1990 định nghĩa người khuyết tật là người bị
mất khả năng về nhìn, nghe, nói hoặc về thể chất, mất khả năng về trí não, rối

loạn tâm thần, khuyết tật bị đa tật và/hoặc các dạng khuyết tật khác [34, tr.17].
Định nghĩa này mang tính bao quát, đã nêu thế nào là tàn tật, khuyết tật, làm cơ
sở cho việc bảo vệ người tàn tật khỏi bị phân biệt đối xử.
Ở Ấn Độ, Luật về người khuyết tật ban hành năm 1995 (về cơ hội bình
đẳng, bảo vệ quyền và đảm bảo cho người khuyết tật tham gia mọi hoạt động xã
9


hội) định nghĩa khuyết tật bao gồm tình trạng bị mù, nghe kém, lành bệnh
phong, thính lực kém, suy giảm khả năng vận động, chậm phát triển trí óc và
mắc bệnh về tâm thần; trong khi đó định nghĩa về người khuyết tật lại được nêu
“một người bị bất kỳ một khuyết tật nào không dưới bốn mươi phần trăm theo
xác nhận của một cơ quan y tế có thẩm quyền” [34, tr.17]. Như vậy, về người
khuyết tật, luật pháp Ấn Độ có 2 định nghĩa, một là về khuyết tật, với mục đích
chống phân biệt đối xử đối với người khuyết tật, còn định nghĩa dạng thứ hai
nhằm hướng tới đối tượng hẹp hơn, có khuyết tật từ 40% trở lên.
Luật bình đẳng về việc làm của Nam Phi định nghĩa người khuyết tật là
“người bị suy giảm khả năng về thể lực hoặc trí lực trong một thời gian dài hoặc
tiếp diễn nhiều lần, khiến cho người đó bị hạn chế đáng kể về khả năng tham gia
hoặc phát triển trong nghề nghiệp [34, tr.18]. Đây cũng là một loại định nghĩa
với phạm vi điều chỉnh rộng, bao quát, với mục tiêu bình đẳng về việc làm giữa
người khyết tật và người không bị khuyết tật.
Theo quan điểm của Tổ chức y tế thế giới, người tàn tật (person with
disability) là người khi họ bị giảm chức năng và hạn chế sự tham gia các hoạt
động xã hội, là kết quả của sự kết hợp tình trạng cá nhân như bệnh tật, chấn
thương hoặc các rối loạn chức với các yếu tố môi trường cản trở. Đây là định
nghĩa dạng bao quát, nhằm chống phân biệt đối xử với người tàn tật.
Việc quan tâm của xã hội đến những người tàn tật không chỉ bằng những
khoản trợ cấp xã hội, cái quý hơn là giúp họ tự lực và cải thiện đời sống, tạo
điều kiện cho họ thể hiện mình là người vẫn có ích cho xã hội. Các nước trên

thế giới ngày càng chú ý đến lao động là người tàn tật. Tổ chức lao động quốc tế
(ILO) đã có hai Cơng ước về lao động tàn tật, đó là Cơng ước số 128 ban hành
năm 1967 và Công ước số 159 ban hành năm 1983 về tái thích ứng cho lao động
là người tàn tật.
Theo quan điểm của Việt Nam, trong Nghị định số 81/CP của Chính phủ
ngày 23 tháng 11 năm 1995: “Người tàn tật nói trong Nghị định này là người
mà khả năng lao động bị suy giảm từ 21% trở lên do tàn tật, được Hội đồng

10


giám định y khoa xác nhận”. Đây là một định nghĩa được nêu trong Nghị định
hướng dẫn Bộ luật lao động nên phạm vi hướng tới của nó hẹp, chỉ là các đối
tượng “suy giảm khả năng lao động từ 21% trở lên” có giám định y khoa. Định
nghĩa này không nêu rõ thế nào là “tàn tật” mà chỉ đưa ra hậu quả của thương
tật.
Đến năm 1998, tại Điều 1, Pháp lệnh người tàn tật số 06/1998/PLUBTVQH10 có nêu: “Người tàn tật theo quy định của Pháp lệnh này không
phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật là người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ
phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy
giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó
khăn”. Đây là một khái niệm hết sức bao quát về người tàn tật, làm cơ sở để xác
định ai là người tàn tật. Khái niệm cũng làm cơ sở cho việc xây dựng khái niệm
lao động tàn tật sau này.
Ngày 23 tháng 4 năm 2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
116/2004/NĐ-CP sửa đổi, bỏ sung Nghị định số 81/CP ngày 23 tháng 11 năm
1995, trong đó có sửa đổi, bổ sung khái niệm về lao động tàn tật: “Lao động là
người tàn tật theo quy định tại Nghị định này là người lao động không phân biệt
nguồn gốc gây ra tàn tật, bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc
chức năng, biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, bị suy giảm khả năng lao
động từ 21% trở lên, được Hội đồng giám định y khoa hoặc cơ quan y tế có

thẩm quyền xác nhận theo quy định của Bộ Y tế” (Điều 1). Đây là khái niệm
tương đối toàn diện về lao động tàn tật, khắc phục những bất cập trong khái
niệm lao động tàn tật nêu ở Nghị định số 81/CP, bởi ngoài việc nêu hậu quả của
tàn tật là suy giảm khả năng lao động 21%, có giám định y khoa, khái niệm cịn
nêu rõ thế nào là tàn tật: bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc
chức năng, biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau.
Khái niệm lao động tàn tật trong Nghị định số 116/2004/NĐ-CP thực chất
là sự “kết hợp” giữa khái niệm lao động tàn tật trong Nghị định số 81/CP và
khái niệm người tàn tật trong Pháp lệnh người tàn tật. Sự kết hợp này đã đạt đến

11


sự hợp lý cho khái niệm lao động tàn tật, các dấu hiệu, tiêu chí của lao động tàn
tật đã rất rõ ràng. Khái niệm này sẽ rất thuận lợi cho các mục tiêu hỗ trợ về mặt
vật chất hoặc tài chính cho từng lao động tàn tật, hoặc người sử dụng lao động
tàn tật. Điều này mang lại ý nghĩa to lớn, giúp cho việc hoạch định chính sách
và thực hiện chính sách đối với lao động tàn tật được hiệu quả.
Như vậy, lao động tàn tật là người ở độ tuổi lao động (nam từ 15 – 60
tuổi, nữ từ 15 – 55 tuổi) không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật, bị khiếm
khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng, biểu hiện dưới những
dạng tật khác nhau, bị suy giảm khả năng lao động từ 21% trở lên, được Hội
đồng giám định y khoa hoặc cơ quan y tế có thẩm quyền xác nhận theo quy định
của Bộ Y tế. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, khái niệm này sẽ được sử dụng
xuyên suốt trong luận văn này.
1.1.2.2 Phân loại lao động tàn tật
Để phân loại người tàn tật nói chung và lao động tàn tật nói riêng, có thể
dựa vào các tiêu chí sau đây:
a/ Theo nguyên nhân dẫn đến tàn tật gồm có:
- Nhóm nguyên nhân tàn tật do bẩm sinh

- Nhóm nguyên nhân tàn tật do bệnh tật
- Nhóm nguyên nhân tàn tật do chiến tranh
- Nhóm nguyên nhân tàn tật do tai nạn lao động
- Do những nguyên nhân khác
Cách phân loại này có thể giúp ngành y tế có biện pháp chăm sóc sức
khỏe phù hợp. Tuy nhiên, phân loại theo cách này không được thuận tiện cho
việc thống kê và khó áp dụng các chính sách hỗ trợ cần thiết. Do vậy, để thuận
lợi hơn người ta phân loại theo mức độ tàn tật.
b/ Theo tiêu chuẩn phân loại theo khả năng suy giảm, khuyết tật và trở
ngại (ICIDH) do Tổ chức Y tế thế giới ban hành vào năm 1980 thì cách phân
loại này phân biệt giữa mức độ khuyết tật của cơ thể (suy giảm), cấp độ con

12


người (khuyết tật) và cấp độ xã hội (trở ngại). Các định nghĩa về người khuyết
tật theo ICIDH gồm 7 dạng: [33, tr.5]
- Suy giảm khả năng vận động như bị cụt chân, cụt tay, liệt, bại não,..
- Suy giảm thính giác/nói (giao tiếp)
- Suy giảm thị giác bao gồm mù, mù màu,…
- Hành vi cư xử xa lạ (thường là do kết quả bệnh thần kinh phân liệt hay
chứng loạn thần kinh hay những bệnh tâm thần khác)
- Chứng động kinh/ngất xỉu
Tiêu chuẩn phân loại này được các Bộ, ngành có lĩnh vực hoạt động liên
quan nhất về vấn đề người khuyết tật sử dụng như: Bộ Lao động – Thương binh
và Xã hội, Bộ Y tế và Bộ Giáo dục – Đào tạo.
c/ Theo bộ chỉ số đa mục tiêu
- Phản ánh tình hình chung về tàn tật: Phân loại tàn tật theo chức năng:
nhìn, nghe, vận động, thông tin, nhận thức về một vấn đề, tự chăm sóc bản thân;
mức độ khó khăn do tàn tật

- Phản ánh nguyên nhân khuyết tật: bẩm sinh, ốm đau, bệnh tật; tai nạn
lao động, tai nạn giao thông; chiến tranh, xung đột, nguyên nhân khác;
- Phản ánh cơ cấu, địa bàn cư trú của người khuyết tật theo địa giới hành
chính: cả nước, tỉnh, huyện, xã, vùng kinh tế, khu vực thành thị và nông thôn;
- Phản ánh theo nhân khẩu học: giới tính, độ tuổi, dân tộc, tình trạng hơn
nhân;
- Phản ánh theo trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghề
nghiệp;
- Phản ánh nhu cầu đa dạng của người khuyết tật theo nhu cầu trợ giúp:
chỉnh hình phục hồi chức năng, khám chữa bệnh khi ốm đau; học văn hoá, học
nghề, tạo việc làm; phương tiện vận động chuyên dùng, máy trợ thính; trợ cấp
xã hội; ni dưỡng trong các cơ sở xã hội…
Tóm lại, cách phân loại như trên chỉ là tương đối, tùy thuộc vào từng mục
đích, sử dụng mà người ta phân loại cho phù hợp. Ở Việt Nam, hiện chưa có

13


tiêu chí và phân loại thống nhất về người tàn tật. Tuy nhiên, theo báo cáo của
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tại Tờ trình Chính phủ về Dự án luật
người khuyết tật số 45/TTr-LĐTBXH ngày 07 tháng 8 năm 2009 cho thấy cuộc
điều tra về người tàn tật đã phân loại người tàn tật theo các dạng tật, các nguyên
nhân gây ra tàn tật.
1.2. Sự cần thiết phải có quy định riêng đối với lao động tàn tật
1.2.1 Đặc điểm về sinh lý, sức khoẻ
Sức khoẻ là vốn vô cùng quý giá của con người. Với bất kỳ ai nếu khơng
có sức khoẻ thì họ sẽ khơng thể làm được gì và điều đó đồng nghĩa với việc
khơng có thu nhập ni sống bản thân, để góp phần xây dựng gia đình và xã hội.
Nhà nước ta cũng đã có những chủ trương chính sách quan tâm đến sức khoẻ
của toàn dân nhằm tăng nguồn nhân lực đất nước.

Như trong khái niệm về lao động tàn tật ta đã thấy lao động tàn tật bị suy
giảm khả năng lao động từ 21% trở lên, điều đó cho thấy sức khỏe của lao động
tàn tật không thể như những người bình thường khác.Lao động tàn tật là một
trong những nhóm người yếu thế, cần được hỗ trợ nhiều nhất về các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe. Chăm sóc sức khỏe cho người tàn tật là truyền thống, là đạo
lý của dân tộc, của xã hội và là trách nhiệm của các nhà hoạch định chính sách,
của Nhà nước ta hiện nay. Tuy nhiên, số lao động tàn tật có bảo hiểm y tế chưa
nhiều. Khi họ đi khám chữa bệnh họ cũng được đối xử bình đẳng như những
người không tàn tật khác. Họ chủ yếu được chăm sóc bởi gia đình, họ hàng, ít
hoặc chưa được tiếp cận các hệ thống bảo trợ xã hội của nhà nước.
Chính những đặc điểm về sức khỏe này mà lao động tàn tật bị cản trở
trong lao động và tìm kiếm việc làm, khiến cho họ giảm các cơ hội có việc làm
và thu nhập so với các lao động bình thường khác. Chính vì vậy, nhà nước cần
có các quy định riêng đối với loại lao động này, tạo điều kiện cho họ có cơ hội
tìm được việc làm phù hợp với sức khỏe của họ. Đây chính là một lý do cơ bản
đầu tiên của sự cần thiết phải có quy định riêng đối với lao động tàn tật.

14


Một điều hiển nhiên là lao động tàn tật chỉ làm được một só cơng việc
nhất định, song từ kinh nghiệm và nghiên cứu đã chỉ ra rằng nếu họ được đào
tạo phù hợp gắn với công việc mà lao động tàn tật có khả năng tham gia và họ
được giúp đỡ để thích nghi trong một mơi trường lao động thuận lợi thì lao động
tàn tật làm được rất nhiều loại hình cơng việc khơng thua kém người bình
thường bởi họ cũng có kiến thức, kỹ năng, tài năng, mục đích, khát vọng như
những người lao động bình thường khác, ngồi ra cịn có thêm sự quyết tâm và
nghị lực rất cao. Nhưng quan trọng hơn là phải nhìn nhận được các loại hình
phong phú của cơng việc mà người tàn tật có khả năng làm được và yêu thích,
biết tạo điều kiện lao động phù hợp nhất đối với họ và loại khỏi những yếu tố

bất lợi cho họ. Tuỳ theo loại dị tật nào mà có các loại hình cơng việc tương ứng.
Chẳng hạn, đối với dạng tật vận động (cụt chi, khèo, thọt, liệt,…), hoạt động của
các chi giảm hẳn, rất khó khăn trong vận động di chuyển nên cần được sử dụng
vào những công việc khơng địi hỏi phải đi lại, di chuyển nhiều như: văn phòng,
trực điện thoại,.. Những người tàn tật về thị giác (mù hay khiếm thị) họ có thể
làm các cơng việc như: làm tăm, dệt may, đan lát, vấn chổi, mátsa, châm cứu,..
Đối với người tàn tật về ngôn ngữ thì ưu tiên họ làm những cơng việc chân tay
khơng cần giao tiếp.
Chính vì yếu tố sức khoẻ này mà về hình thức trơng họ khơng được
nhanh nhẹn lắm và người sử dụng lao động cho rằng họ không thể lao động như
những lao động bình thường khác và do vậy người sử dụng lao động ít muốn
nhận lao động tàn tật vào làm việc. Trong khi đó, người lao động tàn tật thì tha
thiết được làm việc. Chính vì vậy, chúng ta cần xây dựng một chế độ lao động
riêng đối với người tàn tật đến độ tuổi lao động mà cịn khả năng lao động để
giải phóng sức lao động cho lao động tàn tật, góp phần tạo ra của cải vật chất
cho xã hội
1.2.2 Đặc điểm về tâm lý
Cảm nhận của mọi người khi tiếp xúc với người tàn tật đó là người tàn tật
sống rất khép kín, khơng thích giao tiếp, ít hịa nhập vào cộng đồng. Tâm lý

15


chung ở người tàn tật là mặc cảm, tự ti và bi quan về tật nguyền của mình.
Chính cách sống này khiến họ trở nên rất thiếu thông tin, thiếu hiểu biết, ngay
cả những vấn đề liên quan trực tiếp tới bản thân họ đó là quyền lợi của mình.
Ngun nhân dẫn đến tâm lý trên chủ yếu là bản thân người tàn tật không
tự tin về bản thân, họ mặc cảm nghĩ rằng mình khơng giúp được gì cho gia đình,
cho xã hội, cộng thêm định kiến xã hội, cho rằng người tàn tật là gánh nặng của
gia đình và có thái độ kỳ thị, phân biệt đối xử. Mặt khác, do đặc điểm đặc thù

của người tàn tật Việt Nam phần lớn sống trong hộ gia đình nghèo nên càng
khiến họ khơng tự tin, sống rất khép kín.
Lao động tàn tật cũng khơng nằm ngồi những đặc điểm này của người
tàn tật nói chung, thậm chí cịn tự ti, mặc cảm nặng nề hơn những đối tượng tàn
tật khác. Nếu như trẻ em tàn tật, người già tàn tật (những người tàn tật không
nằm trong độ tuổi lao động) ít có những quan tâm, mặc cảm liên quan đến việc
làm, thu nhập, thì ngược lại với người tàn tật trong độ tuổi lao động, nhu cầu có
việc làm, có thu nhập là vơ cùng bức thiết. Tuy nhiên, vì nhiều rào cản, trên
thực tế lao động tàn tật đa phần sống dựa vào gia đình, ít có các hoạt động tạo
thu nhập. Nhiều người lao động tàn tật đã khơng thể tìm được một nghề nghiệp
bền vững ngay cả khi đã hoàn thành việc học nghề, thêm vào đó là cả những
thất bại và chán nản. Thất vọng vì bị phân biệt đối xử và vì những định kiến sai
lầm về khả năng lao động, nhiều người đã khơng cịn tích cực tìm kiếm việc làm
và chỉ cịn trông chờ vào phúc lợi dành cho người tàn tật nếu có, hoặc kiếm sống
bằng những nghề có giá trị gia tăng thấp trong nền kinh tế phi chính thức với sự
giúp đỡ của gia đình và cộng đồng. Tâm lý của lao động tàn tật nặng nề hơn bởi
lẽ những người bình thường trong độ tuổi của họ đã có thể kiếm tiền, có thu
nhập để ni sống bản thân, giúp đỡ gia đình. Suy nghĩ này tạo nên thái độ sống
mặc cảm, tự ti của lao động tàn tật. và càng mặc cảm, tự ti thì lao động tàn tật
càng khó tìm được việc làm để có thu nhập. Từ thực trạng này khơng có gì ngạc
nhiên khi thấy có mối liên kết vũng chắc giữa tình trạng đói nghèo và tàn tật.

16


Một yêu cầu đặt ra là: hình thành ý thức xã hội quan tâm đến người tàn
tật, tuyên truyền phổ biến pháp luật đến tất cả mọi người trong xã hội để cộng
đồng có sự nhận thức đầy đủ và đúng mức về người tàn tật, về lao động tàn tật.
Và từ sự nhận thức đầy đủ sẽ dẫn đến thái độ và hành vi của cộng đồng được
đúng đắn hơn để người tàn tật cảm thấy mình được tơn trọng, được động viên,

khuyến khích, trợ giúp để hịa nhập cộng đồng, tiếp cận việc làm, tạo thu nhập
và ổn định cuộc sống.
1.2.3 Yếu tố xã hội
Lao động tàn tật là chủ thể được quan tâm nghiên cứu không chỉ vì lợi ích
của bản thân đối tượng này mà cịn vì lợi ích của tồn xã hội. Cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước đang địi hỏi cơng sức đóng góp của tồn xã hội, địi hỏi
phải phát huy tiềm năng của mọi thành phần kinh tế, mọi lực lượng lao động.
Do đặc thù của đất nước gần một nửa thế kỷ chống giặc ngoại xâm, giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước nên số người tàn tật thương binh nhiều, nhà nước
cần có những chế độ ưu đãi, những chính sách phù hợp với những người có
cơng, thể hiện truyền thống tốt đẹp của dân tộc “uống nước nhớ nguồn”. Đối với
những người tàn tật không phải do chiến tranh, họ là những người “yếu thế”,
thiệt thòi hơn những người bình thường khác, Nhà nước cần phải có chính sách
cụ thể về vấn đề người tàn tật. Với mục tiêu xây dựng các các chính sách kinh
tế, xã hội, phát triển đất nước vì con người, cho con người thì việc xây dựng
chính sách đối với lao động tàn tật cần được đặc biệt quan tâm. Về phía lao
động tàn tật, nhu cầu có việc làm là rất lớn, họ ln mong muốn được lao động,
được làm việc, có thu nhập, trước hết là nuôi sống bản thân, sau là giúp đỡ gia
đình, tạo ra của cải vật chất góp phần xây dựng đất nước. Một chính sách kinh
tế bền vững phải gắn với việc giải quyết tốt các vần đề thất nghiệp, trong đó có
vấn đề việc làm cho lao động tàn tật. Vấn đề xã hội này trong nền kinh tế thị
trường đang ngày càng trở lên cấp bách.
Để xử lý đúng đắn những vấn đề xã hội cấp bách trong cơ chế mới, Đảng
ta đã lập danh mục những nhiệm vụ cụ thể để giải quyết từng bước các vấn đề

17


xã hội: giải quyết việc làm, sử dụng tối đa tiềm năng lao động xã hội là mục tiêu
quan trọng hàng đầu của chiến lược… Hướng ưu tiên là giải quyết việc làm cho

những người đến tuổi lao động, …Là các vấn đề xã hội nhưng khi giải quyết lại
phải gắn rất chặt với các vần đề kinh tế bởi vì tăng trưởng kinh tế là tiền đề rất
quan trọng để giải quyết các vấn đề xã hội. Ngược lại, giải quyết tốt vấn đề xã
hội là điều kiện ổn định xã hội, phát triển kinh tế. Có ý kiến cho rằng cứ phát
triển kinh tế cao thì tức khắc khắc sẽ giải quyết được mọi vấn đề xã hội và dẫn
đến tiến bộ xã hội. Song thực tế ở nhiều nước cho thấy, nền kinh tế hùng mạnh
nhưng các vấn đề xã hội lại trở nên căng thẳng và nhức nhối như bạo lực, tệ nạn
xã hội, bất bình đẳng. Bài học rút ra cho thực trạng này là: Tăng trưởng kinh tế
tự nó khơng giải quyết được tất cả các vấn đề xã hội, trong những trường hợp cụ
thể còn làm trầm trọng thêm nhiều vấn đề như thất nghiệp, ô nhiễm môi trường
… Tăng trưởng kinh tế tự nó cũng khơng dẫn đến tiến bộ xã hội mặc dù nó có
thể góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Ở nước ta, dù là trong chiến tranh hay
hịa bình xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước ta đều có những chủ trương và
giải pháp xử lý các vấn đề xã hội phù hợp với điều kiện và thực tiễn. Ngày nay,
khi vận hành cơ chế thị trường trong nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần,
với tư duy khoa học và trí tuệ thực tiễn, Đảng ta đã xác lập những quan điểm
đúng đắn và thiết kế những nội dung và các giải pháp thực hiện chính sách hợp
lý trong hồn cảnh mới. Như vậy là chính sách kinh tế và chính sách xã hội phải
phải thực hiện song song với nhau, đan xen với nhau, lồng quyện vào nhau. Nếu
ngược lại, chính sách xã hội đi sau chính sách kinh tế thì người ta coi các vấn đề
xã hội như là gánh nặng của nền kinh tế và giải quyết được đến đâu hay tới đó,
khi ấy sẽ phát sinh những gay cấn khó lường. Cịn nếu chính sách xã hội đi
trước chính sách kinh tế thì sẽ rơi vào tình trạng khơng có điều kiện vật chất bảo
đảm chính sách sẽ trở thành lời hứa suông [41, tr.25]. Xuất phát tử những quan
điểm ấy, Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách đúng đắn cho mọi đối
tượng xã hội nói chung và chính sách cho lao động tàn tật nói riêng.

18



Ngoài ra, các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia xã hội – rào cản đối với
lao động tàn tật. Lao động tàn tật muốn tìm kiếm được việc làm, trước hết họ
phải tham gia xã hội đầy đủ và độc lập. Việc tham gia xã hội đầy đủ và độc lập
chính là điều kiện, tiền đề để có thể giải quyết việc làm cho lao động tàn tật.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay, người tàn tật không được tham gia đầy đủ các hoạt
động xã hội, bao gồm các hoạt động sinh hoạt văn hóa, học văn hóa, học nghề,
tìm kiếm việc làm,… Các yếu tố cản trở đến sự tham gia đầy đủ của người tàn
tật vào các hoạt động của xã hội bao gồm:
Thứ nhất là thái độ của cộng đồng đối với lao động tàn tật. Thái độ của
một người đối với sự vật, sự việc bắt nguồn từ tập quán văn hóa, quan điểm và
nhận thức của họ đối với sự vật, sự việc đó. Thái độ của của cộng đồng đối với
người tàn tật từ trước đến nay theo quan điểm nhân đạo, tức là người tàn tật là
những đối tượng cần được bảo trợ, cần được chăm sóc. Các hoạt động cưu
mang, giúp đỡ người tàn tật là việc làm nhân đạo. Chính từ phương pháp nhìn
nhận này, mà người tàn tật bị coi là khơng có khả năng làm việc (do sự khiếm
khuyết của họ ngăn cản họ làm việc), coi người tàn tật là gánh nặng của gia
đình, xã hội và có thái độ kỳ thị, phân biệt đối xử. Chính thái độ của cộng đồng
đã khiến người tàn tật mất tự tin vào bản thân, sống mặc cảm. Do vậy, phải có
các quy định riêng đối với lao động tàn tật, để tạo điều kiện cho họ được tham
gia lao động, sản xuất như những lao động nình thường khác.
Thứ hai là các cơng trình xây dựng cơng cộng. Điều 52, khoản 1, điểm đ
Luật xây dựng số 26/2003/QH11 của Quốc hội ngày 26/11/2003 quy định:
“….đối với các công trình cơng cộng phải bảo đảm thiết kế theo tiêu chuẩn cho
người tàn tật”. Theo đó, Bộ xây dựng đã ban hành bộ quy chuẩn xây dựng cơng
trình cơng cộng đảm bảo cho người tàn tật, …:các tòa nhà mới xây, các cơ sở hạ
tầng mới đã dễ dàng tiếp cận hơn đối với người tàn tật (dễ dàng đi lại đối với xe
lăn, thang máy có bảng điều khiển dành cho người khiếm thị…).
Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau (như điều kiện kinh tế cịn nhiều khó
khăn, sự quản lý chưa chặt chẽ của cơ quan nhà nước, thiếu cơ chế giám sát,..)


19


nhiều tòa nhà, cơ sở hạ tầng mặc dù được xây dựng mới xong vẫn không đáp
ứng các yêu cầu tiếp cận đối với người tàn tật. Sự việc này diễn ra thậm chí cả ở
những khu vực thành thị: nhiều tịa nhà cũng khơng dễ dàng đi lại đối với xe lăn
ngay cả dưới tầng một, bao gồm các trường học, bệnh viện, các tịa nhà của
Chính phủ và những nơi làm việc.
Mặt khác, nhiều tòa nhà, cơ sở hạ tầng được xây dựng từ trước ít có sự
sửa đổi, nâng cấp nên rất bất cập trong việc tiếp cận đối với người tàn tật.
Những nguyên nhân này là một trong những rào cản để người tàn tật tham gia
xã hội đầy dủ.
Thứ ba là các cơng trình giao thông đường bộ. Các quy định về giao
thông tiếp cận cho người tàn tật cũng được Nhà nước hết sức quan tâm. Luật
giao thông đường bộ số 23/2008/QH12 ngày 13/11/2008 có 3 điều quy định liên
quan đến người tàn tật, là các Điều 23, 33 và 44. Điều 33 quy định về người
khuyết tật, người già yếu tham gia giao thơng:
“1. Người khuyết tật sử dụng xe lăn khơng có động cơ được đi trên hè phố
và nơi có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ.
2. Người khiếm thị khi đi trên đường bộ phải có người dắt hoặc có cơng cụ
để báo hiệu cho người khác nhận biết đó là người khiếm thị.
3. Mọi người có trách nhiệm giúp đỡ người khuyết tật, người già yếu khi đi
qua đường”.
Điều 44 quy định về bảo đảm yêu cầu kỹ thuật và an tồn giao thơng của
cơng trình đường bộ:
“1. Cơng trình đường bộ xây dựng mới, nâng cấp và cải tạo phải bảo đảm
tiêu chuẩn kỹ thuật và điều kiện an tồn giao thơng cho người, phương tiện
tham gia giao thơng đường bộ, trong đó có người đi bộ và người khuyết tật.
Đường đơ thị xây dựng phải có hè phố, phần đường, cầu vượt, hầm và tổ chức
giao thông cho người đi bộ, người khuyết tật đi lại an toàn, thuận tiện”.

Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, việc thực hiện các quy định này còn
rất hạn chế. Người tàn tật nói chung và lao động tàn tật nói riêng tham gia giao

20


thơng rất thiếu an tồn. Chẳng hạn, vỉa hè là dành cho người đi bộ, và người tàn
tật dùng xe lăn, nhưng xe máy vẫn thường xuyên leo lên vỉa hè, điều này gây
mất an tồn cho mọi người nói chung và lao động tàn tật nói riêng.
Thứ tư, là các yếu tố xã hội: Việt Nam là một nước chậm phát triển.
Trong điều kiện kinh tế cịn nhiều khó khăn như vậy, người tàn tật khó có điều
kiện để tham gia hoạt động xã hội đầy đủ. Theo kết quả khảo sát người tàn tật
do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tiến hành năm 2005 thì phần lớn các
hộ gia đình có người tàn tật có mức sống thấp. Theo đánh giá của các hộ gia
đình thì có 32,5% số hộ thuộc loại nghèo (chung cả nước là 22%), 58% số hộ có
mức sống trung bình, chỉ có 9% số hộ thuộc loại khá và 0,5% số hộ thuộc loại
giàu. Hộ càng có nhiều người tàn tật thì mức sống càng giảm, trong nhóm hộ có
01 người tàn tật, 31% là thuộc diện hộ nghèo, song tỷ lệ hộ nghèo ở nhóm có 3
người tàn tật lại lên trên 63%. Mức sống thấp này cũng khiến người tàn tật ít có
điều kiện để có thể tham gia xã hội đầy đủ.
Thứ năm. chính sách và pháp luật về người tàn tật chưa được cộng đồng
quan tâm nhiều. Nhiều người cho rằng hỗ trợ người tàn tật là việc làm từ thiện,
nhân đạo, chủ yếu là quyên góp bằng tiền, ủng hộ qua các tổ chức từ thiện. Điều
này đúng với việc giúp đỡ trẻ em tàn tật, người già tàn tật - những người khơng
có khả năng tạo ra thu nhập, khơng có tài sản tích luỹ. Nhưng riêng đối với lao
động tàn tật thì giúp lao động tàn tật có được việc làm, tự tạo thu nhập mới là
điều quan trọng hơn cả, mới là cái gốc của vấn đề. Đó khơng chỉ là việc làm từ
thiện, mà trên hết là trách nhiệm của các cấp, các ngành và tất cả mọi người.
Tuy nhiên, nhận thức về chính sách và pháp luật về lao động tàn tật của đa số
cộng đồng chưa thực sự đúng đắn. Hơn nữa, trong một môi trường mà nhiều

người thất nghiệp như hiện nay, các nhà chức trách, những người chủ sử dụng
lao động, gia đình và những người khác thường chưa coi việc tìm việc làm cho
người tàn tật là ưu tiên.
Thứ sáu, là tình trạng sống chung, phụ thuộc vào gia đình. Hầu hết người
tàn tật sống chung với gia đình của họ. Theo kết quả khảo sát của Bộ Lao động

21


– Thương binh và Xã hội năm 2005 thì có tới trên 24% số hộ gia đình đang sống
trong các căn nhà tạm; 65% có nhà bán kiên cố và 11% có nhà kiên cố. Điều
này cản trở lao động tàn tật có cuộc sống độc lập.
1.3. Ý nghĩa của những quy định riêng đối vói lao động tàn tật
1.3.1. Ý nghĩa kinh tế
“Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật
chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất chất lượng và
hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước” [2, tr.1]. Pháp
luật lao động tàn tật góp phần xây dựng đất nước, giải phóng sức lao động bởi lẽ
pháp luật về lao động tàn tật đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho lao động tàn
tật, vượt qua mặc cảm, khó khăn của bản thân để lao động sản xuất, giúp họ tự
lập, ổn định cuộc sống. Có lao động, người tàn tật khơng phải sống dựa vào gia
đình, vào sự cưu mang của xã hội, góp phần giải phóng sức lao động, tạo ra của
cải vật chất cho xã hội xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.
Pháp luật về lao động tàn tật đã tạo cơ hội cho người tàn tật phát huy tiềm
năng, trí lực và cả sức lao động của họ cho sự phát triển xã hội. Lao động tàn tật
là một lực lượng lao động không nhỏ, đồng thời cũng là một lực lượng tiêu dùng
những sản phẩm công nghệ như điện thoại cho những người câm điếc, xe lăn,
chân tay giả, máy trợ thính, gậy dẫn đường, sách chữ nổi,… Đó là chưa kể đến
khi người lao động có cơ hội giáo dục, học nghề, việc làm sẽ giảm đi rất nhiều
khoản trợ cấp xã hội và bảo hiểm y tế mà hiện nay hàng năm nhà nước ta vẫn

phải tốn hàng trăm tỷ đồng. Rõ ràng, lao động tàn tật đã góp phần quan trọng
vào nền kinh tế quốc dân, công việc mà họ đang làm đã giúp giảm bớt chi phí
dành cho phúc lợi tàn tật và có thể giảm nghèo.
Hơn nữa, pháp luật lao động tàn tật có chế độ ưu đãi đối với cơ sở dạy
nghề, cơ sở sản xuất kinh doanh dành riêng cho người tàn tật; đồng thời quy
định quyền lợi và nghĩa vụ của cơ sở dạy nghề và doanh nghiệp nhận người tàn
tật vào học nghề và làm việc, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, cơ

22


sở sản xuất kinh doanh, cơ sở dạy nghề tìm kiếm lợi nhuận, góp phần xây dựng
kinh tế xã hội.
1.3.2 Ý nghĩa xã hội
Thứ nhất, pháp luật lao động tàn tật thể hiện truyền thống tốt đẹp của dân
tộc. “Thương người như thể thương thân”, “Lá lành đùm lá rách”, “Mỗi người
vì cộng đồng”, sự chia sẻ, đùm bọc đối với đồng bào mình vừa là truyền thống
vừa là đạo lý, là nhu cầu, là lẽ sống của hầu hết mọi người Việt Nam. Pháp luật
về lao động tàn tật đã phát huy và nâng cao thêm truyền thống đó.
Điều 31 Pháp lệnh về người tàn tật có quy định: “Ngày 18 tháng 4 hàng
năm được lấy là ngày bảo vệ, chăm sóc người tàn tật”. Chăm sóc người tàn tật là
truyền thống, là đạo lý của dân tộc, của xã hội và là trách nhiệm của các nhà
hoạch định chính sách, của Nhà nước ta hiện nay. Tuy nhiên, bảo vệ chăm sóc
như thế nào để mọi tiềm năng được phát huy, được sử dụng, giúp họ thay đổi
được vị thế của mình từ người phụ thuộc đến người độc lập trong cuộc sống mới
là rất cần thiết.
Sự phát triển kinh tế, phát triển khoa học công nghệ là tiền đề vật chất, kỹ
thuật cho sự hòa nhập, tạo cơ hội bình đẳng cho người tàn tật. Nhưng bản thân
sự phát triển kinh tế không tự động đem cơ hội bình đẳng cho người tàn tật nếu
như xã hội chưa nhận thức đúng cũng như chưa có hành động cụ thể để biến sức

mạnh kinh tế, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ để tạo điểu kiện
sinh hoạt cho người tàn tật. Pháp luật về lao động tàn tật tạo nên những chuyển
biến về nhận thức vai trò, khả năng hòa nhập cộng đồng của người tàn tật. Từ
nhận thức đó, các tổ chức, cá nhân đã giúp đỡ người tàn tật khơng chỉ khắc phục
khó khăn trước mắt mà còn giúp họ các điều kiện cần thiết để thực hiện sự bình
đẳng về nghĩa vụ và trách nhiệm như các công dân khác trong xã hội.
Đã có nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế
trong cả nước đã tích cực đóng góp giúp đỡ cho người tàn tật với giá trị lên đến
hàng nghìn tỷ đồng.

23


×