Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Pháp luật về Sở Giao dịch chứng khoán tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (559.09 KB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ KHUÊ

PHÁP LUẬT V S GIAO DCH CHNG
KHON
TI VIT NAM

luận văn thạc sĩ luËt häc

Hµ néi - 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ KHUÊ

PHÁP LUẬT VỀ SỞ GIAO DỊCH CHỨNG
KHOÁN
TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Giang Thu


Hµ néi - 2009


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN PHÁP LUẬT VỀ SỞ GIAO DỊCH CHỨNG

5

KHỐN TẠI VIỆT NAM

1.1.

Khái niệm, lịch sử hình thành, nguyên tắc pháp lý và quan
điểm chỉ đạo trong việc xây dựng Sở Giao dịch chứng khoán
tại Việt Nam

5

1.1.1.

Khái niệm, lịch sử hình thành Sở Giao dịch chứng khốn tại

Việt Nam

5

1.1.2.

Nguyên tắc pháp lý và quan điểm chỉ đạo trong việc xây
dựng Sở Giao dịch chứng khoán tại Việt Nam

7

1.1.2.1. Nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc xây dựng mơ
hình pháp lý của Sở Giao dịch chứng khoán

7

1.1.2.2. Hệ thống pháp luật phải đảm bảo khả năng vận hành, hoạt
động của Sở Giao dịch chứng khoán một cách tốt nhất

8

1.1.2.3. Pháp luật phải bảo đảm việc xây dựng và phát triển Sở Giao
dịch chứng khoán từ quy mơ nhỏ đến quy mơ lớn, từ chưa
hồn thiện đến hồn thiện hơn, phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của đất nước và khả năng phát triển trong tương lai

10

1.1.2.4. Pháp luật phải bảo đảm xây dựng được mơ hình Sở Giao dịch
chứng khốn vận hành an tồn hiệu quả, cơng bằng, cơng
khai, minh bạch, bảo vệ nhà đầu tư


11


1.2.

Vị trí pháp lý và chức năng của Sở Giao dịch chứng khốn
trong thị trường chứng khốn

12

1.2.1.

Vị trí pháp lý của Sở Giao dịch chứng khoán trong thị trường
chứng khoán

12

1.2.2.

Chức năng của Sở Giao dịch chứng khoán

13

1.3.

Nội dung cơ bản của pháp luật quy định hình thức tổ chức và
hoạt động của Sở Giao dịch chứng khoán tại Việt Nam

14


1.4.

Pháp luật về mơ hình cơ cấu tổ chức và hoạt động của Sở
Giao dịch chứng khoán một số nước trên thế giới và những
kinh nghiệm thực tiễn rút ra cho Việt Nam

17

1.4.1.

Pháp luật về mơ hình cơ cấu tổ chức và hoạt động của Sở
Giao dịch chứng khoán một số nước trên thế giới

17

1.4.1.1. Pháp luật về mơ hình cơ cấu tổ chức của Sở Giao dịch
chứng khoán

17

1.4.1.2. Pháp luật về hoạt động của Sở Giao dịch chứng khoán một
số nước trên thế giới

25

Những kinh nghiệm thực tiễn rút ra cho Việt Nam

30


Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HÌNH THỨC TỔ CHỨC

35

1.4.2.

VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN
TẠI VIỆT NAM

2.1.

Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hình thức tổ chức và
hoạt động của Sở Giao dịch chứng khoán tại Việt Nam

35

2.2.

Những điểm khác biệt cơ bản giữa Sở Giao dịch chứng khoán
và doanh nghiệp hoạt động dưới hình thức pháp lý cơng ty
trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên theo pháp luật Việt Nam

39

2.3.

Đánh giá thực trạng pháp luật về Sở Giao dịch chứng khoán
tại Việt Nam hiện nay

42


2.3.1.

Về hình thức pháp lý, cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý và
điều hành của Sở Giao dịch chứng khoán

42


2.3.1.1. Hình thức pháp lý

42

2.3.1.2. Bộ máy quản lý và điều hành của Sở Giao dịch chứng khoán

50

2.3.1.3. Quyền và nghĩa vụ của Sở Giao dịch chứng khoán

53

2.3.2.

Thực trạng pháp luật về hoạt động của Sở Giao dịch chứng

55

khoán tại Việt Nam
2.3.2.1. Việc thực hiện các nguyên tắc hoạt động của Sở Giao dịch


55

chứng khoán
2.3.2.2. Quy định về thành viên giao dịch tại Sở Giao dịch chứng khoán

58

2.3.2.3. Quy định về niêm yết chứng khoán tại Sở Giao dịch chứng khoán

61

2.3.2.4. Quy định về tổ chức giao dịch và giám sát giao dịch chứng

67

khoán tại Sở Giao dịch chứng khoán
2.3.2.5. Quy định về công bố thông tin trên Sở Giao dịch chứng khoán

71

2.3.2.6. Quy định về quản lý rủi ro, xử lý vi phạm, giải quyết tranh

74

chấp và các vấn đề khác
Chương 3:

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ XÂY DỰNG

78


PHÁP LUẬT VỀ SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN
TẠI VIỆT NAM

3.1.

Sự cần thiết, cơ sở xây dựng, hoàn thiện pháp luật về mơ

78

hình pháp lý cơ cấu sở hữu, tổ chức và hoạt động của Sở
Giao dịch chứng khoán tại Việt Nam
3.1.1.

Cơ sở lý luận

78

3.1.2.

Cơ sở thực tiễn

80

3.1.2.1. Thực tiễn từ xu hướng chuyển đổi, cải tổ các Sở Giao dịch

80

chứng khoán trên thế giới
3.1.2.2. Từ thực trạng, những bất cập về cơ cấu tổ chức và hoạt động

của Sở Giao dịch chứng khoán Việt Nam

82


3.2.

Một số giải pháp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về mơ
hình cơ cấu sở hữu, tổ chức và hoạt động của Sở Giao dịch
chứng khoán tại Việt Nam

84

3.2.1.

Giải pháp và kiến nghị hồn thiện pháp luật về mơ hình cơ
cấu sở hữu, tổ chức của Sở Giao dịch chứng khốn tại Việt Nam

84

3.2.1.1. Đa dạng hóa về hình thức sở hữu đối với Sở Giao dịch
chứng khoán

85

3.1.1.2. Pháp luật cần phân định chức năng quản lý Sở Giao dịch
chứng khốn của Chính phủ, Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước và xây dựng mối quan hệ pháp lý về sự
phối hợp trong hoạt động giữa các Sở Giao dịch chứng
khoán với nhau, giữa Sở Giao dịch chứng khoán với Trung

tâm lưu ký chứng khoán

87

3.3.1.3. Bổ sung thêm các quy định liên quan đến cơ cấu tổ chức và
hoạt động của Sở Giao dịch chứng khoán

90

Giải pháp và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hoạt động
của Sở Giao dịch chứng khốn tại Việt Nam

90

3.2.2.1. Hồn thiện pháp luật về tổ chức lại thị trường giao dịch tại
hai Sở Giao dịch chứng khốn

90

3.2.2.2. Hồn thiện pháp luật về giao dịch và giám sát giao dịch trên
Sở Giao dịch chứng khốn

92

3.2.2.3. Hồn thiện quy định pháp luật về niêm yết chứng khốn tai
Sở Giao dịch chứng khốn

93

3.2.2.4. Hồn thiện quy định về công bố thông tin trên Sở Giao dịch

chứng khốn

94

3.2.2.5. Hồn thiện pháp luật quy định về quản lý rủi ro, xử lý vi
phạm, giải quyết tranh chấp và các vấn đề khác

94

3.2.2.

KẾT LUẬN

99

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

99


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BKS

: Ban kiểm sốt

CTCK

: Cơng ty chứng khốn


ĐHĐCĐ

: Đại hội đồng cổ đơng

HĐQT

: Hội đồng quản trị

LCK

: Luật Chứng khoán

SGDCK

: Sở giao dịch chứng khoán

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

TTCK

: Thị trường chứng khoán

TTGDCK : Trung tâm giao dịch chứng khoán
UBCK

: Ủy ban Chứng khoán

UBCKNN : Ủy ban Chứng khoán Nhà nước



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, chúng ta chứng kiến sự phát triển vượt bậc của
thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam và thấy được rõ nét vai trị của
TTCK - là cơng cụ đắc lực giúp các chủ thể huy động vốn trung và dài hạn để
đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là phải lựa chọn
và xây dựng được một mơ hình TTCK {trong đó yếu tố rất quan trọng là mơ
hình pháp lý về cơ cấu sở hữu, tổ chức và hoạt động của Sở Giao dịch chứng
khoán (SGDCK)} sao cho phù hợp với bối cảnh nền kinh tế nước ta nói riêng
và với xu hướng trào lưu quốc tế nói chung.
Năm 2007 và năm 2009, SGDCK Thành phố Hồ Chí Minh và SGDCK
Hà Nội được thành lập trên cơ sở kế thừa từ hai Trung tâm giao dịch chứng
khoán (TTGDCK) trước đây. Điều này cho thấy sự chuyển đổi mơ hình pháp
lý về cơ cấu sở hữu, tổ chức và hoạt động của SGDCK tại Việt Nam là một
bước ngoặt có ý nghĩa to lớn và tất yếu, xuất phát từ các nhu cầu chủ quan và
các điều kiện khách quan gắn với sự phát triển của thị trường và tiến trình mở
cửa hội nhập của TTCK Việt Nam.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu các quy định pháp luật về SGDCK một số
nước trên thế giới và đánh giá được đúng đắn sự phát triển của TTCK Việt
Nam trong thời gian qua cũng như thực tiễn hoạt động theo mơ hình pháp lý
mới của các SGDCK hiện nay, chúng ta thấy xét về lâu dài, mơ hình pháp lý
về cơ cấu sở hữu, tổ chức và hoạt động của SGDCK tại Việt Nam hiện nay
chưa phải là một mơ hình lý tưởng và chưa phù hợp với xu thế chung của thế
giới. Do vậy, với mơ hình pháp lý hiện tại, SGDCK Việt Nam là công ty trách


nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên do Nhà nước là chủ sở hữu chỉ là bước

đệm để tiến tới một mơ hình pháp lý cao hơn, hồn thiện và hiệu quả hơn.
Xu hướng quốc tế hiện nay là sau một thời gian hoạt động, các SGDCK
lần lượt chuyển đổi từ mơ hình pháp lý SGDCK thuộc sở hữu của các thành viên
sang hình thức pháp lý SGDCK là cơng ty cổ phần hoặc công ty cổ phần đại
chúng niêm yết tại chính SGDCK đó. Sự chuyển đổi này đã diễn ra mạnh mẽ,
nhanh chóng và trở thành trào lưu, xu thế chung của các SGDCK trên thế giới.
Với đề tài luận văn "Pháp luật về Sở Giao dịch chứng khoán tại Việt
Nam", tác giả đi sâu nghiên cứu pháp luật một số nước trên thế giới, phân tích
và lý giải xu hướng chuyển đổi, cải tổ các SGDCK trên thế giới hiện nay. Từ
đó, đối chiếu với quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ ra được
những kết quả đạt được và những mặt còn hạn chế trong quy định pháp luật
để có phương án hồn thiện.
Mặt khác, một câu hỏi được đặt ra là với mô hình pháp lý về cơ cấu sở
hữu, tổ chức và hoạt động của SGDCK tại Việt Nam có vấn đề gì cần nghiên
cứu và bàn luận sâu hơn? Đã phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt
Nam hiện nay và trong tương lai gần hay chưa? Pháp luật điều chỉnh vấn đề
này cần phải như thế nào để đáp ứng các yêu cầu đặt ra? Đây là một vấn đề
còn bỏ ngỏ trong khoa học pháp lý và cũng là đề tài tác giả thực sự quan tâm.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu tổng quan về mơ hình pháp lý về SGDCK một số nước
trên thế giới; cơ sở pháp lý điều chỉnh và những bài học kinh nghiệm rút ra để
luận giải những vấn đề chính sách phát triển TTCK tại Việt Nam; làm cơ sở,
tiền đề cho việc xây dựng mô hình cơ cấu sở hữu, tổ chức và hoạt động của
SGDCK Việt Nam hiện tại và trong tương lai.
So sánh, đối chiếu pháp luật về SGDCK tại Việt Nam và pháp luật về
SGDCK một số nước trên thế giới để từ đó tìm ra những bất cập, chồng chéo,
mâu thuẫn hoặc thiếu quy định điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Từ đó, đề


xuất, gợi ý hoặc đưa ra những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật

chứng khoán Việt Nam hiện hành.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong phạm vi một đề tài luận văn thạc sĩ luật học, tác giả muốn tập
trung đánh giá những vấn đề cơ bản liên quan đến mơ hình pháp lý về cơ cấu
sở hữu, tổ chức và hoạt động của SGDCK; vị trí, vai trò của SGDCK đối với
nền kinh tế thị trường; tầm quan trọng của vấn đề chuyển đổi cơ cấu sở hữu,
tổ chức và hoạt động của SGDCK đối với sự phát triển của TTCK; hình thức
pháp lý của SGDCK; lịch sử hình thành và phát triển, những nguyên tắc và
quan điểm chỉ đạo trong việc xây dựng SGDCK ở Việt Nam; thực trạng mơ
hình cơ cấu sở hữu, tổ chức và hoạt động của SGDCK; xu hướng chuyển đổi cơ
cấu sở hữu, tổ chức và hoạt động của SGDCK trên thế giới và ở Việt Nam. Đồng
thời, đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm xây dựng một mơ hình pháp lý
về cơ cấu sở hữu, tổ chức và hoạt động của SGDCK ở Việt Nam trong tương lai
gần, trên cơ sở xem xét lý luận và kinh nghiệm các nước trong vấn đề này. Các
giải pháp được đề xuất là những gợi ý cho các nhà hoạch định chính sách trên
thị trường tài chính nói chung và trên TTCK Việt Nam nói riêng.
4. Những điểm mới của đề tài
Hiện nay, có nhiều cơng trình nghiên cứu về SGDCK ở Việt Nam.
Tuy nhiên, vấn đề chuyển đổi mô hình pháp lý, cơ cấu sở hữu, tổ chức và của
SGDCK tại Việt Nam từ hình thức SGDCK là cơng ty TNHH 1 thành viên
thuộc sở hữu nhà nước sang hình thức đa dạng hóa về chủ thể sở hữu, tổ chức
và hoạt động ở góc độ pháp lý thì lại là một vấn đề mới mẻ ở Việt Nam. Vì
vậy, luận văn tập trung chủ yếu sự quan tâm vào pháp luật điều chỉnh việc
chuyển đổi mơ hình pháp lý về cơ cấu sở hữu, tổ chức và hoạt động của
SGDCK ở Việt Nam hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu


Tác giả nghiên cứu vấn đề trên nển tảng của chủ nghĩa duy vật biện
chứng Mác - Lênin; đồng thời sử dụng có chọn lọc lý luận của kinh tế học,

khoa học pháp lý về chứng khoán và TTCK.
Tác giả cũng dùng phương pháp so sánh, thống kê, phân tích - tổng hợp
trong quá trình nghiên cứu để lý giải, đánh giá và nhận định vấn đề. Ngoài ra,
phương pháp pháp điển hoá, tập hợp hoá các quy định của pháp luật cũng
được sử dụng như một phương pháp tối ưu khi nghiên cứu các quy định pháp
luật cụ thể.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan pháp luật về Sở Giao dịch chứng khoán tại
Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hình thức tổ chức và hoạt động
của Sở Giao dịch chứng khoán tại Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị xây dựng pháp luật về Sở
Giao dịch chứng khoán tại Việt Nam.


Chương 1
TỔNG QUAN PHÁP LUẬT
VỀ SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM, LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, NGUYÊN TẮC PHÁP LÝ VÀ
QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO TRONG VIỆC XÂY DỰNG SỞ GIAO DỊCH CHỨNG
KHOÁN TẠI VIỆT NAM

1.1.1. Khái niệm, lịch sử hình thành Sở giao dịch chứng khốn tại
Việt Nam
Thị trường tập trung là thị trường trong đó việc giao dịch mua bán
chứng khoán được thực hiện tại một địa điểm tập trung gọi là sàn giao dịch.
Sở giao dịch chứng khốn là tổ chức có tư cách pháp nhân được

thành lập theo quy định của pháp luật. SGDCK có thể là một pháp nhân theo
mơ hình pháp lý công ty cổ phần hoặc công ty TNHH thuộc quyền sở hữu và
quản lý của các thành viên, cung cấp các phương tiện giao dịch cho tổ chức,
cá nhân đầu tư, kinh doanh và mơi giới chứng khốn. Chỉ những cơng ty
chứng khốn (CTCK) là thành viên của Sở mới được phép thực hiện giao
dịch chứng khốn cho chính mình (tự doanh) hoặc cho nhà đầu tư tại hệ
thống giao dịch tại SGDCK. Các chứng khoán được giao dịch trên SGDCK
bao gồm cổ phiếu của công ty, chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán và trái
phiếu. Chứng khoán được giao dịch tại SGDCK phải là những chứng khoán
niêm yết. Các chứng khốn được niêm yết tại SGDCK thơng thường là
chứng khốn của những cơng ty lớn, có danh tiếng, đã đi vào hoạt động
trong một thời gian nhất định và đáp ứng đủ tiêu chuẩn, điều kiện niêm yết
của Sở. Phương thức giao dịch tại SGDCK là phương thức đấu giá, trong đó
các lệnh mua, bán được so khớp với nhau để hình thành giá cả cạnh tranh tốt
nhất.


Trên thế giới, lịch sử phát triển của TTCK gắn với sự ra đời và phát
triển của SGDCK.
Tại Việt Nam, TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh (nay là SGDCK
Thành phố Hồ Chí Minh) và TTGDCK Hà Nội (nay là SGDCK Hà Nội) được
thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11 tháng 07 năm 1998
của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập TTGDCK. TTGDCK Thành phố
Hồ Chí Minh chính thức đi vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên
vào ngày 28 tháng 7 năm 2000 và TTGDCK Hà Nội chính thức khai trương
hoạt động vào ngày 8 tháng 3 năm 2005 đã đánh dấu một bước phát triển
quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước.
Có thể nói, tại thời điểm ra đời, TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh và
TTGDCK Hà Nội gặp rất nhiều khó khăn như: hệ thống pháp luật Việt Nam
nói chung chưa hồn thiện; các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động trên

TTCK còn nhiều bất cập, chồng chéo, chưa thống nhất và hiệu lực pháp lý
chưa cao; đội ngũ cán bộ quản lý điều hành chủ yếu chuyển từ các ngành
khác sang nên chưa có kinh nghiệm thực tiễn; sự hiểu biết của công chúng về
đầu tư chứng khốn và TTCK cịn nhiều hạn chế. Thêm vào đó, TTGDCK
Thành phố Hồ Chí Minh và TTGDCK Hà Nội ra đời trong bối cảnh đất nước
chưa thoát khỏi ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực vào
những năm này, do đó, mức đầu tư cho nền kinh tế giảm sút, nhu cầu huy
động vốn của các doanh nghiệp chưa cao, thu nhập bình quân đầu người còn
thấp... Tuy vậy, với sự quan tâm rất lớn của Chính phủ, các Bộ, Ngành,
TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh và TTGDCK Hà Nội đã phát triển về
nhiều mặt, thực hiện tốt vai trò tổ chức và vận hành các hoạt động giao dịch
chứng khoán trên thị trường tập trung thơng suốt, an tồn và hiệu quả.
Ngày 11 tháng 05 năm 2007 TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh đươ ̣c
chuyể n đở i thành SGDCK Thành phố Hồ Chí Minh theo Quyế t đinh
̣ số
599/QĐ-TTg ngày 11 tháng 05 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc


chuyển TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh thành SGDCK Thành phố Hồ Chí
Minh. Như vậy, đây là mơ hình SGDCK đầu tiên của Việt Nam thực sự đã
thành lập. Đối với TTGDCK Hà Nội, ngày 02 tháng 01 năm 2009, TTGDCK
Hà Nội được chuyển đổi thành SGDCK Hà Nội. Do vậy, chức năng nhiệm
vụ, quyền hạn của SGDCK Hà Nội sẽ có sự thay đổi nhất định so với
TTGDCK Hà Nội hiện nay. Điều này cho thấy sự chuyển đổi hình thức pháp
lý, cơ cấu tổ chức và hoạt động của các TTGDCK thành SGDCK là một tất
yếu, xuất phát từ nhu cầu chủ quan và các điều kiện khách quan gắn với sự
phát triển của thị trường và tiến trình mở cửa hội nhập tại Việt Nam.
1.1.2. Nguyên tắc pháp lý và quan điểm chỉ đạo trong việc xây
dựng Sở Giao dịch chứng khoán tại Việt Nam
1.1.2.1. Nhà nước giữ vai trị quyết định trong việc xây dựng mơ hình

pháp lý của Sở giao dịch chứng khốn
Trong q trình thành lập và hoạt động, SGDCK đã có những bước
phát triển vượt bậc cả về lượng và chất. Có được thành quả như này, phải kể
đến vai trò quan trọng của Đảng và Nhà nước. Đảng và Nhà nước đã quán
triệt và xây dựng các nguyên tắc mang tính chất pháp lý, quan điểm chỉ đạo
khi xây dựng mơ hình pháp lý cho SGDCK, trong đó, có ngun tắc mang
tính chỉ đạo và chiến lược lâu dài là Nhà nước giữ vai trị quyết định trong
việc xây dựng mơ hình pháp lý của SGDCK. Bởi vì, TTCK có vai trị và ảnh
hưởng hết sức to lớn đối với đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Để phát
huy được hết những mặt tích cực và hạn chế một cách thấp nhất những mặt
tiêu cực của TTCK thì Nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc quản lý,
xây dựng TTCK nói chung và SGDCK nói riêng. SGDCK đặc biệt được Nhà
nước chú trọng đến vì SGDCK là nơi diễn ra các giao dịch của thị trường, tạo
tính thanh khoản cho thị trường và giám sát giao dịch, bảo vệ nhà đầu tư.
Ở Việt Nam, hình thành và phát triển SGDCK đồng thời là q trình
hồn thiện tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán, đáp ứng nhu cầu của các


nhà đầu tư. Bởi lẽ, khi hình thành SGDCK, ở Việt Nam chưa thực sự có một
nền kinh tế thị trường; hàng hố trên TTCK lúc đó chủ yếu là các cổ phiếu của
doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hố và trái phiếu chính phủ. Nhà nước mới
là chủ thể có đầy đủ điều kiện cả về vật chất và tiềm lực để đầu tư toàn bộ cơ sở
vật chất, đào tạo nhân lực, ban hành các quy định để thiết lập và đưa SGDCK
vào hoạt động có hiệu quả. Mặt khác, Nhà nước quyết định hình thức pháp lý, cơ
cấu tổ chức và hoạt động của Sở cũng nhằm đưa các định hướng của Nhà nước
vào thực tiễn một cách tốt nhất. Ví dụ: khi Nhà nước muốn đẩy mạnh q
trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhanh thì phải xây dựng được một
TTCK, bước đầu là xây dựng một địa điểm giao dịch chứng khoán tập trung
như TTGDCK. Do vậy, định hướng xây dựng một SGDCK như thế nào phụ
thuộc vào sự định hướng trong chính sách pháp luật của Nhà nước.

Khi xây dựng SGDCK, nguyên tắc đầu tiên là Nhà nước giữ vai trò
quyết định trong việc lựa chọn hình thức pháp lý, cơ cấu tổ chức và hoạt động
của SGDCK. SGDCK là một doanh nghiệp, một đơn vị sự nghiệp hay là một
cơ quan nhà nước là do Nhà nước chi phối và quyết định. Nhà nước không
trực tiếp tham gia điều hành, quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động
của Sở, mà Nhà nước quyết định về hình thức pháp lý, cơ cấu tổ chức và hoạt
động của Sở bằng cách ban hành ra các quy định pháp luật, tạo hành lang
pháp lý để SGDCK hoạt động trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước. Mặt
khác, Nhà nước đề ra chiến lược, chính sách mang tính tạm thời hoặc lâu dài
để định hướng cho sự tồn tại và phát triển của Sở. Nhà nước hình thành cơ
quan quản lý, giám sát hoạt động của SGDCK (Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước (UBCKNN), Bộ Tài chính…) và dùng ngân sách nhà nước để chi trả
lương và các hoạt động cho việc quản lý, giám sát hoạt động của Sở.
1.1.2.2. Hệ thống pháp luật phải đảm bảo khả năng vận hành, hoạt
động của Sở Giao dịch chứng khoán một cách tốt nhất
Mục tiêu đặt ra cho TTCK Việt Nam là tạo ra được một kênh huy
động vốn tối ưu và hiệu quả nhất các nguồn vốn trong và ngoài nước để phát


triển kinh tế. Đồng thời, phải xây dựng được mô hình pháp lý cho SGDCK phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Khi mới thành lập và bước đầu hoạt động dưới mơ hình TTGDCK, văn bản pháp
lý cao nhất điều chỉnh hoạt động của TTGDCK là nghị định, thông tư, quy chế. Ngày 01
tháng 01 năm 2007, khi Luật Chứng khốn (LCK) năm 2006 có hiệu lực, đã tạo ra cơ sở
pháp lý cao, đầy đủ hơn để SGDCK thực hiện tốt hơn chức năng của mình, tạo điều kiện
cho các cơng ty cổ phần khi có đủ điều kiện, niêm yết chứng khoán trên SGDCK nhằm
tăng nguồn cung cho thị trường. Đặc biệt, LCK là văn bản pháp lý đầu tiên quy định
SGDCK là pháp nhân thành lập và hoạt động theo mơ hình cơng ty TNHH hoặc cơng ty cổ
phần mà khơng cịn là đơn vị sự nghiệp có thu thuộc UBCKNN như Nghị định
144/2003/NĐ-CP ngày 28 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ về chứng khốn và TTCK.

Trong q trình thực thi LCK, cịn nhiều vấn đề nảy sinh cần phải điều chỉnh bằng
pháp luật hoặc nhiều vấn đề phát sinh từ thực tiễn nên pháp luật cần phải được sửa đổi, bổ
sung hoặc thay thế cho phù hợp, trong đó có những quy định về SGDCK cũng phải sửa
đổi, bổ sung nếu không phù hợp. Khi đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thơng qua việc
ban hành luật để khắc phục những vấn đề nói trên.
Xác định hệ thống pháp luật phải đảm bảo khả năng vận hành và hoạt động của
SGDCK được thực hiện một cách tốt nhất cũng chính là nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ cho sự
hoạt động và phát triển của SGDCK, TTCK, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư;
tránh việc thiếu cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động của Sở cũng như tránh tình trạng sự hoạt
động của Sở nằm ngồi khn khổ pháp lý hoặc bộc lộ nhiều tiêu cực kìm hãm sự phát triển
TTCK nói chung.
Tuy nhiên, việc ban hành các quy định điều chỉnh hình thức pháp lý, cơ cấu tổ
chức, chức năng nhiệm vụ quyền hạn của SGDCK phải dựa trên những kinh nghiệm thực
tiễn qua việc vận hành và hoạt động của SGDCK. Có được như vậy, hệ thống pháp luật
điều chỉnh vấn đề này mới mang tính khả thi cao.
1.1.2.3. Pháp luật phải bảo đảm việc xây dựng và phát triển Sở Giao dịch
chứng khoán từ quy mơ nhỏ đến quy mơ lớn, từ chưa hồn thiện đến hoàn thiện hơn,


phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước và khả năng phát triển trong tương
lai
Việc xây dựng và tạo lập một TTCK ở Việt Nam là cần thiết và là nhu cầu tất yếu.
Tuy nhiên, điều đó khơng có nghĩa là bằng mọi cách phải cho ra đời một TTCK mà không
dựa trên nền tảng vốn có của nền kinh tế. Trước đây, Thái Lan đã phải đóng cửa thị trường
gần 10 năm mới quay trở lại hoạt động là một bài học lớn cho Việt Nam. Việc thờ ơ,
không chú trọng đến một TTCK phù hợp chính là tự tước đi cho đất nước những cơ hội để
tham gia hội nhập với thế giới, từ bỏ đi cơ hội thu hút vốn từ bên ngồi vào Việt Nam,
khơng phát huy được vai trị quan trọng trong việc huy động vốn cho nền kinh tế. Tuy
nhiên, nếu quá kỳ vọng vào những giá trị tích cực mà thị TTCK đã mang lại cho nền kinh
tế để xây dựng một thị trường vượt trội, to lớn hoặc tham vọng thì lại dễ đổ vỡ hoặc phát

sinh nhiều tính tiêu cực.
Bước đầu để đáp ứng cho nhu cầu giao dịch chứng khoán trên thị trường, Nhà
nước ta đã xây dựng hệ thống pháp luật và cho ra đời mơ hình TTGDCK (TTGDCK Hà
Nội và TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh). TTGDCK do Chính phủ thành lập. Hoạt động
của TTGDCK khơng vì mục tiêu lợi nhuận, với sự tham gia đầy đủ của các tổ chức tài
chính trung gian và có hệ thống giao dịch bán tự động, đảm bảo đáp ứng được nhu cầu
mua, bán chứng khoán trên thị trường và quản lý được hoạt động giao dịch trên TTGDCK.
TTGDCK sẽ là mơ hình thử nghiệm vừa là bước đệm cho việc thành lập SGDCK với quy
mô lớn và hiện đại hơn.
Kể từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và khi LCK
được thơng qua, TTCK Việt Nam có sự phát triển mạnh mẽ, vượt bậc, nằm ngoài mong
đợi của những quan điểm, nhận định, dự báo lạc quan nhất trước đó. Quy mô giao dịch,
khối lượng giao dịch, giá trị giao dịch tăng mạnh, thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà
đầu tư trong và ngồi nước; hàng hố cung cấp cho thị trường ngày một đa dạng và chất
lượng hơn; tính thanh khoản của thị trường ngày càng cao. Với mơ hình pháp lý của
TTGDCK sẽ khơng cịn thích hợp nữa, cần thiết phải chuyển đổi mơ hình pháp lý TTGDCK
thành mơ hình pháp lý SGDCK để đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của tình hình thị trường


hiện nay. Mơ hình pháp lý SGDCK là cơng ty TNHH nhà nước một thành viên đang là lựa
chọn tốt nhất cho Việt Nam, khắc phục được những hạn chế khi các TTGDCK cịn là đơn
vị sự nghiệp có thu của Nhà nước. Dưới mơ hình pháp lý SGDCK là một doanh nghiệp,
SGDCK linh hoạt và chủ động hơn trong việc điều hành, giám sát thị trường. Tuy nhiên,
khi thị trường đã phát triển vượt bậc, đạt đến một trình độ cao, SGDCK hoạt động khơng
vì mục tiêu lợi nhuận nữa thì khi đó, mơ hình pháp lý của SGDCK sẽ được Nhà nước
nghiên cứu và định hướng cho phù hợp, và như vậy, pháp luật cũng phải thay đổi và xây
dựng một mơ hình SGDCK hiệu quả hơn.

1.1.2.4. Pháp luật phải bảo đảm xây dựng được mơ hình Sở Giao
dịch chứng khốn vận hành an tồn hiệu quả, cơng bằng, công khai, minh

bạch, bảo vệ nhà đầu tư
Đây vừa là mục tiêu vừa là vai trò của pháp luật về SGDCK. Dù có
khác nhau về quy mơ, cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các SGDCK
trên thế giới, nhưng định hướng phát triển SGDCK nhằm hướng tới một thị
trường có tổ chức, có quản lý và giám sát, khuyến khích các tổ chức, cá nhân
tham gia thị trường, bảo vệ nhà đầu tư một cách hiệu quả, thì ở hệ thống pháp
luật về SGDCK của nước nào cũng có.
TTCK là một thì trường tài chính bậc cao, chứa đựng trong đó đầy yếu
tố rủi ro và tiêu cực, nhất là trong những giai đoạn thị trường quá "nóng" hay
quá "lạnh" và ngày càng chịu ảnh hưởng lớn hơn từ thị trường tài chính và
TTCK tồn cầu. Do vậy, từ hoạt động thực tiễn của SGDCK, chúng ta phải
dự báo và phát hiện trước được những dấu hiệu bất thường hoặc tiêu cực của
thị trường; dự đoán được điều gì sẽ xảy ra hoặc có thể xảy ra để có biện pháp
chủ động ứng phó. Biện pháp pháp lý là biện pháp cơ bản và quan trọng tạo ra
hành lang pháp lý an toàn cho thị trường hoạt động hiệu quả.
Mặt khác, SGDCK cũng là một chủ thể tham gia TTCK, hoạt động
của SGDCK cũng cần phải công khai, minh bạch trong việc công bố thông
tin, giao dịch và các vấn đề khác mới tạo được tạo sự yên tâm cho các chủ thể


khi tham gia vào TTCK. Để làm được như vậy, pháp luật cần phải có quy
định về cơ chế giám sát hoạt động của SGDCK. Nói cách khác, SGDCK phải
chịu sự quản lý của Nhà nước và phải tuân thủ đúng các quy định của pháp
luật. SGDCK không thể đứng trên các chủ thể khác và càng không thể hoạt
động ngồi đối tượng điều chỉnh của pháp luật.
1.2. VỊ TRÍ PHÁP LÝ VÀ CHỨC NĂNG CỦA SỞ GIAO DỊCH CHỨNG
KHOÁN TRONG THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHỐN

1.2.1. Vị trí pháp lý của Sở Giao dịch chứng khoán trong thị trƣờng
chứng khoán

TTCK ngày càng trở nên phát triển và có vị trí, vai trị quan trọng
trong nền kinh tế. Trong một TTCK hồn chỉnh, khơng thể thiếu được SGDCK
bởi SGDCK có vị trí pháp lý rất quan trọng trong TTCK.
SGDCK với vị trí pháp lý là chủ thể điều hành và tổ chức thị trường
giao dịch chứng khốn, đã tạo tính thanh khoản cho thị trường. Nếu chứng
khoán của một tổ chức phát hành mà việc mua đi bán lại quy đổi từ tiền sang
chứng khốn và ngược lại một cách nhanh chóng, thuận lợi thì sẽ tạo ra sức
hút đối với nhà đầu tư, đồng thời, tổ chức phát hành sẽ dễ huy động vốn phục
vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Vị trí pháp lý của SGDCK được
pháp luật các nước thừa nhận rộng rãi và là chế định khơng thể thiếu trong
văn bản pháp luật về chứng khốn và TTCK.
Pháp luật các nước thường quy định SGDCK là một tổ chức có tư
cách pháp nhân được thành lập theo quy định của pháp luật, có con dấu, trụ sở
riêng, tự chủ hoặc có nguồn tài chính riêng, nhân danh mình chịu trách nhiệm
trước pháp luật. SGDCK có thể là một pháp nhân dưới hình thức pháp lý cơng
ty cổ phần hoặc công ty TNHH thuộc sở hữu của các thành viên của Sở, hoặc
cũng có thể là một tổ chức cung cấp các phương tiện giao dịch cho các nhà
kinh doanh và mơi giới chứng khốn để mua bán chứng khoán.


Với sự phát triển của TTCK, cùng với sự tiến bộ về khoa học - cơng
nghệ và xu hướng tồn cầu hoá, SGDCK ngày càng trở nên quan trọng đối
với nền kinh tế của mỗi quốc gia và nhất là đối với nhà đầu tư và tổ chức
trung gian.
1.2.2. Chức năng của Sở giao dịch chứng khoán
Một trong những chức năng quan trọng của SGDCK là thiết lập một thị
trường giao dịch chứng khốn có tổ chức, vận hành liên tục với các chứng khốn
được chọn lựa theo tiêu chí lựa chọn hàng hoá niêm yết của pháp luật cho
từng SGDCK. Tuỳ thuộc vào quy mô và sự phát triển của TTCK ở mỗi quốc
gia trong từng giai đoạn để xây dựng cơ chế vận hành SGDCK cho phù hợp.

Mặc dù hoạt động của SGDCK không mang lại vốn trực tiếp cho tổ
chức phát hành chứng khốn, nhưng thơng qua SGDCK, các chứng khoán
phát hành được giao dịch liên tục, làm tăng tính thanh khoản và tính khả mại
cho các chứng khốn. Các tổ chức phát hành có thể phát hành để tăng vốn qua
TTCK, các nhà đầu tư có thể dễ dàng mua hoặc bán chứng khoán, chuyển đổi
các loại chứng khoán mà họ sở hữu thành tiền hoặc các loại chứng khoán
khác. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn nhà đầu tư
chứng khốn, bởi vì nó đảm bảo tính linh hoạt, an tồn của vốn đầu tư. Đây là
một chức năng quan trọng đảm bảo cho TTCK hoạt động một cách năng động
và hiệu quả. SGDCK cịn có chức năng quan trọng là tạo ra một thị trường
liên tục trong việc phát hành chứng khốn ra cơng chúng. Chứng khốn được
mua đi bán lại rất lớn với mức biến đổi của thị giá bởi các giao dịch diễn ra
liên tục và kế tiếp nhau tạo ra các khoản đầu tư có tính thanh khoản, dễ lưu
thông trên thị trường, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các khoản vay có
thế chấp.
SGDCK cịn có chức năng xác định giá chứng khốn căn cứ trên cung
cầu của thị trường. Chức năng xác định giá chứng khốn một cách cơng bằng
rất quan trọng trong hoạt động đầu tư, mua bán chứng khoán. Tuy nhiên, giá


cả không do SGDCK hay thành viên SGDCK áp đặt theo ý chí của chủ thể
mà được SGDCK xác định dựa trên cơ sở so khớp các lệnh mua và bán chứng
khoán. Giá cả chỉ được chốt từ hiệu quả cung - cầu giữa các nhà đầu tư và các
tổ chức phát hành chứng khoán, giữa các nhà đầu tư với nhau, hay chính là
giữa bên bán và bên mua chứng khốn. Qua đó, SGDCK mới có thể tạo ra
được một thị trường tự do, cởi mở và cơng bằng.
Ngồi ra, SGDCK có thể đưa ra được các báo cáo, thống kê một cách
chính xác và liên tục về các chứng khốn, tình hình hoạt động của các tổ chức
niêm yết, các CTCK; đưa ra được những dự báo liên quan đến hoạt động của
các doanh nghiệp cũng như dự báo được TTCK trong tương lai.

Với mỗi chức năng cơ bản trên của SGDCK, đòi hỏi pháp luật các
nước phải cụ thể hoá vào trong các quy định của pháp luật tạo cơ sở pháp lý
cho SGDCK hoạt động trong khuôn khổ phát luật và bảo đảm cho SGDCK
thực hiện tốt các chức năng của mình.
1.3. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT QUY ĐỊNH HÌNH THỨC TỔ
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM

Pháp luật về hình thức tổ chức và hoạt động của SGDCK là tổng thể
những quy phạm pháp luật, quy định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành để điều chỉnh cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành, hoạt động và quyền,
nghĩa vụ của SGDCK.
Pháp luật về hoạt động của SGDCK nói chung là các quy định, quy
phạm pháp luật điều chỉnh cơ chế hoạt động của SGDCK, kể cả các quy phạm
pháp luật do Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành (Quốc hội, Chính
phủ, các Bộ, Các Ủy ban chứng khoán (UBCK)...) nhằm tạo ra hành lang
pháp lý cho các chủ thể thực hiện. Pháp luật về hoạt động của SGDCK còn
bao gồm cả những quy định, quy chế do chính SGDCK ban hành dựa trên sự
uỷ quyền (trao quyền) của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho SGDCK


nhằm thống nhất cơ chế hoạt động hoặc đưa ra các chuẩn mực, điều kiện công
khai giúp các chủ thể dễ dàng tiếp cận và tuân thủ, giúp cho công tác quản lý,
giám sát của SGDCK, của Nhà nước được thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn.
Pháp luật về hoạt động của SGDCK bao gồm những nội dung chủ
yếu sau:
Pháp luật về hoạt động niêm yết chứng khoán: là những quy định cho
phép chứng khoán của một tổ chức phát hành được giao dịch trên SGDCK
nếu công ty này đáp ứng được những yêu cầu nhất định do Sở quy định. Mục
đích cơ bản của việc quy định hoạt động niêm yết chứng khoán nhằm lựa
chọn được những chứng khoán có đủ tiêu chuẩn, chú trọng vào tương lai của

cơng ty và tính thanh khoản của chứng khốn, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư.
Pháp luật về hoạt động công bố thông tin: đây là những quy định quan
trọng đối với tổ chức niêm yết. Theo đó, tổ chức niêm yết có nghĩa vụ cơng
bố kịp thời, chính xác các thơng tin có thể ảnh hưởng đến giá và khối lượng
giao dịch của cổ phiếu, trái phiếu của tổ chức niêm yết trên thị trường để nhà
đầu tư lựa chọn phương thức và hình thức đầu tư cho phù hợp. Các tổ chức có
thể tự mình cơng bố thơng tin hoặc thông qua Sở để công bố thông tin. Cơng
bố thơng tin có thể theo định kỳ hoặc cơng bố thông tin bất thường.
Pháp luật về hoạt động tổng hợp thống kê thông tin thị trường: Đây là
những thông tin liên quan đến hoạt động giao dịch trên TTCK. Thơng tin thị
trường có thể là những số liệu trước hoặc sau khi giao dịch, các chỉ số phản
ánh thị trường... Dựa trên thông tin này để nhà đầu tư đưa ra các quyết định
đầu tư cho mình. Pháp luật không quy định rõ SGDCK phải làm cụ thể những
hoạt động phân tích thị trường như thế nào nhưng việc công bố thông tin về
dữ liệu giao dịch là chức năng của SGDCK nhằm hệ thống, tổng hợp các
thông tin dữ liệu giao dịch và báo cáo cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
Pháp luật về hoạt động của thành viên trên SGDCK: Các SGDCK
thường ban hành quy chế thành viên của Sở. Theo đó, tổ chức hoặc cá nhân


hoạt động kinh doanh chứng khoán được phép thực hiện các nghiệp vụ liên
quan đến giao dịch chứng khốn thơng qua hệ thống giao dịch của Sở và tuân
thủ theo nhưng quy tắc, quy chế do Sở đề ra. Thành viên của SGDCK bao
gồm thành viên môi giới, thành viên tự doanh, thành viên lập giá, thành viên
chính thức, thành viên đặc biệt...
Pháp luật về hoạt động giao dịch chứng khoán: bao gồm những quy
định chung liên quan đến hoạt động giao dịch chứng khoán trên SGDCK như
lệnh, đơn vị giao dịch, thời gian giao dịch, những phương thức giao dịch như
giao dịch đấu giá, giao dịch đấu lệnh, đơn vị yết giá, biên độ giao động giá,
các loại hình giao dịch nhằm quản lý và thống nhất quy tắc giao dịch. Pháp

luật về hoạt động giao dịch cũng quy định về trình tự giao dịch của cổ đơng
nội bộ, cổ đông sáng lập, tỷ lệ nhà đầu tư nước ngồi được phép nắm giữ cổ
phiếu của một cơng ty...
Pháp luật về hoạt động quản lý giám sát giao dịch, giám sát thị trường:
những quy định này nhằm điều chỉnh và vận hành thị trường một cách hiệu
quả, công bằng, công khai, minh bạch và phát triển thị trường bền vững, bảo
vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Để nhằm mục đích trên, hoạt động giám
sát giao dịch bao gồm các hoạt động giám sát các tổ chức kinh doanh chứng
khoán, giám sát các tổ chức niêm yết chứng khoán, giám sát các hoạt động
giao dịch chứng khoán diễn ra trên SGDCK và giám sát các tổ chức phụ trợ
trung gian thị trường.
Pháp luật quy định về hoạt động đăng ký, thanh toán, bù trừ, lưu ký
chứng khoán: nhằm hoàn tất các khâu cuối cùng của giao dịch như chuyển
quyền sở hữu chứng khoán, thanh toán tiền hoặc chứng khốn. Hoạt động này
có thể do SGDCK thực hiện hoặc do một cơ quan khác thực hiện trên cơ sở
phối hợp với SGDCK tuỳ thuộc vào quy định pháp luật của từng quốc gia.
Ngồi ra, pháp luật cịn quy định SGDCK được phép tiến hành một số
hoạt động khác như: tiến hành hồ giải khi có tranh chấp xảy ra và có yêu cầu


trong quá trình vận hành của TTCK, hoạt động dự báo tình hình và xu hướng
thị trường nhằm ngăn chặn hoặc hạn chế rủi ro trong đầu tư chứng khoán.
1.4. PHÁP LUẬT VỀ MƠ HÌNH CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ
NHỮNG KINH NGHIỆM THỰC TIỄN RÚT RA CHO VIỆT NAM

1.4.1. Pháp luật về mơ hình cơ cấu tổ chức và hoạt động của Sở
giao dịch chứng khoán một số nƣớc trên thế giới
1.4.1.1. Pháp luật về mô hình cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch
chứng khốn

Vấn đề cơ cấu tổ chức của SGDCK là nội dung được đề cập hầu hết
trong LCK của các nước trên thế giới. Bởi vì cơ cấu tổ chức của một SGDCK
có tính chất quyết định rất lớn đối với sự hình thành và phát triển của chính
bản thân SGDCK đó. Mỗi quốc gia đều tự quyết định mơ hình pháp lý về tính
chất sở hữu và tổ chức của SGDCK trên cơ sở cân nhắc và đánh giá một cách
cẩn trọng các yếu tố nội tại của thị trường nước mình cũng như xu hướng phát
triển của các SGDCK đã thành lập trước đó. Tuỳ theo điều kiện của TTCK ở
mỗi quốc gia mà pháp luật quốc gia đó quy định mơ hình pháp lý về cơ cấu sở
hữu và tổ chức SGDCK cho phù hợp.
Mơ hình pháp lý về cơ cấu sở hữu và tổ chức của một SGDCK dù lớn
hay nhỏ thì đều chịu sự tác động của các nhân tố: môi trường pháp lý, điều
kiện thị trường, khả năng tài chính của các sáng lập viên và trật tự thị trường.
Trong đó, mơi trường pháp lý được quan tâm và nghiên cứu đến đầu tiên.
Hiện nay, theo Liên đồn các SGDCK thế giới (WFE) thì pháp luật các
nước trên thế giới đang tồn tại năm hình thức pháp lý SGDCK phổ biến [40].
Mỗi mơ hình pháp lý có những ưu điểm và nhược điểm nhất định,
được các nước áp dụng tuỳ theo từng giai đoạn phát triển nhất định của thị
trường, bao gồm:


Thứ nhất, SGDCK tổ chức dưới hình thức pháp lý công ty trách nhiệm
hữu hạn được sở hữu bởi các thành viên (cịn gọi là mơ hình thành viên).
Theo mơ hình này, SGDCK do các thành viên là các CTCK hoặc các
tổ chức tài chính trung gian cùng góp vốn, cùng sở hữu và được tổ chức như
một công ty TNHH, có Hội đồng quản trị (HĐQT) (hoặc hội đồng thành viên)
mà thành phần đa số do các CTCK thành viên cử ra. Chỉ có thành viên mới
được giao dịch chứng khốn trên SGDCK. SGDCK được đăng ký như cơng
ty TNHH với một mức vốn cố định. Các CTCK, tổ chức tài chính trung gian
thường là chủ sở hữu của SGDCK. Quyền sở hữu, phạm vi hoạt động và
quyền khác của các CTCK, tổ chức tài chính trung gian được liên kết chặt chẽ

gắn liền với vai trò của các CTCK, tổ chức tài chính trung gian trong
SGDCK. trên thế giới, có khoảng 16,3 % các SGDCK áp dụng mơ hình pháp
lý này như Luxembourg, Colombo, Jakarta... [40].
Đối với mơ hình pháp lý SGDCK là cơng ty TNHH thuộc sở hữu của
các thành viên là các CTCK, các tổ chức tài chính trung gian như các Ngân
hàng… thì mơi trường pháp lý cần thiết là phải có các quy định cụ thể về hoạt
động giao dịch chứng khoán, tức là phải có một khn khổ pháp lý hồn
chỉnh, điều chỉnh hầu hết các quan hệ phát sinh trong quá trình hoạt động của
SGDCK. Bởi vì, vấn đề biểu quyết các hoạt động của SGDCK thuộc quyền
của tất cả các thành viên (thông thường một thành viên là một phiếu biểu
quyết, hoặc biểu quyết theo cơng sức đóng góp của các thành viên trong Sở).
Chính vì vậy, khi các quan hệ tổ chức và hoạt động của SGDCK được quy
định chi tiết và rõ ràng trong pháp luật, trong điều lệ của Sở sẽ là căn cứ để
giải quyết những bất đồng, tranh chấp có thể xảy ra hoặc đã xảy ra.
Ưu điểm của mơ hình pháp lý này là theo quy định, thành viên vừa
là người tham gia giao dịch vừa là người quản lý SGDCK nên chi phí thấp,
có thể phát huy tối ưu vai trò tự quản, nâng cao tính hiệu quả và nhanh
nhạy trong việc xử lý các vấn đề phát sinh của thị trường; đồng thời, các


×