Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

TIỂU LUẬN môn TRIẾT học mác – LÊNIN đề tài mối quan hệ giữa triết học mác – lênin với khoa học tự nhiên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.45 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài: Mối quan hệ giữa Triết học Mác – Lênin với khoa học tự nhiên.
Giảng viên hướng dẫn: Lê Văn Kiện
Sinh viên thực hiện:
1.
2.
3.
4.

Vũ Thị Diễm Quỳnh – 20197100 – Mã lớp 114738
Hồ Trung Công – 20194237 – Mã lớp 114738
Nguyễn Huy Long – 20193268 – Mã lớp 114738
Đỗ Trường Thịnh – 20193124 – Mã lớp 114738

Hà Nội, 5/2020

1


MỞ ĐẦU
1/ Lý do chọn đề tài
Triết học có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển của khoa học cụ
thể. Và ngược lại, với mỗi gian đoạn phát triển của khoa học, nhất là khoa
học tự nhiên thì triết học cũng có một bước phát triển. Như Ph.Ăngghen
đã từng nhận định: “Mỗi khi có những phát minh của khoa học tự nhiên
thì chủ nghĩa duy vật cũng thay đổi hình thức”. Do đó, việc nghiên cứu
các tư tưởng Triết học không thể tách rời các giai đoạn phát triển của
khoa học, nhất là khoa học tự nhiên. Để phát triển đất nước, bên cạnh


chính trị, kinh tế xã hội, khoa học là yếu tố không thể thiếu.
“Non sơng Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay khơng, dân tộc
Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc
năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở cơng học tập
của các em”. (Trích “Thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên
của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa”, ngày 15-9-1945, chủ tịch Hồ Chí
Minh viết.)
Là sinh viên của trường kĩ thuật hàng đầu Việt Nam như trường
ĐHBKHN, chúng em cảm thấy mình có trách nghiệm to lớn là một phần
trong công cuộc đưa Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu
như lời Bác Hồ đã dạy. Đây cũng là lý do nhóm chúng em chọn đề tài
“Mối quan hệ giữa triết học Mác- Leenin với khoa học tự nhiên ” để làm
đề tài tiểu luận.
2/ Lịch sử nghiên cứu

1


Đã có nhiều quan điểm khác nhau cho rằng: Triết học chưa bao giờ
và cũng chẳng bao giờ là khoa học. Quan điểm ngược lại cho rằng: Triết
học là khoa học. Một giáo sư Triết học phương Tây đã từng nhận định:
“Thượng Đế là vua của các vua (God is the king of kings), Triết học là
Khoa học của các Khoa học” (Philosophy is the science of sciences).
Tuy nhiên, lịch sử hình thành và phát triển của triết học và khoa
học tự nhiên không những đã chứng tỏ hai lĩnh vực tri thức ấy ln ln
có mối quan hệ mật thiết với nhau và còn chứng minh rằng triết học duy
vật biện chứng tìm thấy ở khoa học tự nhiên những cơ sở khoa học vững
chắc của mình, cịn khoa học tự nhiên tìm thấy trong triết học duy vật
biện chứng thế giới quan đúng đắn và phương pháp luận sắc bén để đi sâu
nghiên cứu giới tự nhiên.


3/ Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về sự ảnh hưởng của khoa học tự nhiên đối với triết học và
tác động của triết học với sự nghiên cứu giới tự nhiên.
4/ Phạm vi nghiên cứu
Bài tiểu luận chủ yếu nghiên cứu mối quan hệ giữa triết học với
khoa học tự nhiên theo 2 mặt tác động lẫn nhau.
5/ Phương pháp nghiên cứu đề tài
Bài tiểu luận chủ yếu nghiên cứu dựa trên phương pháp phân tích,
tổng hợp và phương pháp nghiên cứu lý luận.
6/ Đóng góp của đề tài
1


Giúp sinh viên nhận biết sâu sắc được sự ảnh hưởng qua lại giữa triết học
và khoa học tự nhiên.
7/ Kết cấu của đề tài
Bài tiểu luận gồm ba phần: mở đầu, nội dung và kết luận.

1


NỘI DUNG
Chương 1: Sự tác động của khoa học đối với sự phát triển của triết
học
1.1. Khoa học tự nhiên và sự phát triển của triết học trước Mác.
Trước khi triết học và khoa học xuất hiện, thế giới xung quanh được
phản ánh trong ý thức nguyên thủy của loài người dưới hình thức thần
thoại. Trong thần thoại bên cạnh niềm tin vào các lực lượng thần thánh,
siêu tự nhiên, thì các vấn đề về nguồn gốc, bản chất của thế giới có một vị

trí đáng kể. Triết học và thần thoại ra đời như một nỗ lực nhằm giải thích
thế giới. Thực chất triết học cũng tìm cách trả lời cho các vấn đề mà trước
đó đã được đặt ra trong thần thoại, nhưng bằng một phương thức khác.
Triết học là sự phân tích lý luận các vấn đề ấy dựa trên lơgíc, các tri thức
khoa học và kinh nghiệm thực tiễn. Về mặt lịch sử, sự ra đời của triết học
trùng hợp với sự xuất hiện những mầm mống đầu tiên của tri thức khoa
học, với sự hình thành nhu cầu nghiên cứu lý luận. Chúng ta có thể thấy
rõ điều này ở Hy Lạp cổ đại. Triết học Hy Lạp cổ đại khi mới hình thành
khơng độc lập với các tri thức khoa học, mà thực chất là đồng nhất với
chúng để hình thành nên mơn khoa học tổng hợp. Các nhà triết học đầu
tiên ở Hy Lạp đồng thời cũng là các nhà khoa học, như Thalets,
Pithagore,... Triết học đặt nhiệm vụ tìm hiểu và giải thích tự nhiên, xem
xét thế giới như một chỉnh thể. Trong nền triết học tự nhiên, các khoa học
nói chung bị đẩy xuống vị trí thứ yếu và bị chi phối bởi triết học. Triết
học tự nhiên thịnh hành ở phương Tây vào lúc khoa học thực nghiệm
chưa phát triển, khơng đủ để tìm ra quy luật của các hiện tượng tự nhiên.
Chính vì vậy mà trên thực tế, triết học tự nhiên là dịng triết học mang
tính tư biện (speculation): Những giải thích của nó về thế giới chủ yếu là
dựa trên những phỏng đoán và giả định. Nhưng bắt đầu từ thời Phục hưng
và đặc biệt là trong các thế kỷ XVII - XVIII, sự phát triển của khoa học,
nhất là các khoa học tự nhiên ngày càng diễn ra nhanh chóng. Mối quan
hệ triết học - khoa học có sự đổi chiều. Khoa học tự nhiên từ chỗ phụ
thuộc, bị dẫn dắt bởi triết học, thì giờ đây, nó độc lập trong lĩnh vực
nghiên cứu của mình, hơn nữa còn tác động quyết định đến khuynh
hướng phát triển của triết học và phương pháp tư duy. Chính sự thay đổi
này đã tạo ra tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa thực chứng. Chủ nghĩa
thực chứng (posistivism) tuyên bố rằng, chỉ có các khoa học cụ thể mới
cần thiết, đem lại các tri thức tích cực (positive), cịn triết học thì khơng.
Chính xác hơn, chủ nghĩa thực chứng thừa nhận trong quá khứ, khi mà
1



các khoa học cịn chưa phát triển đầy đủ, thì triết học từng đóng vai trị
tích cực là khoa học bao trùm, tổng hợp mọi tri thức, thậm chí là “khoa
học của các khoa học”. Nhưng khi các khoa học lần lượt xuất hiện và
trưởng thành, đem lại một khối lượng tri thức khổng lồ thì triết học dần
đánh mất vai trị lịch sử của mình. Số phận của triết học thật trớ trêu,
chẳng khác gì King Lear - nhân vật văn học của Shakespeare, người chia
toàn bộ vương quốc và tài sản to lớn của mình cho các con đã trưởng
thành để rồi trở thành trắng tay và bị đuổi ra đường.
Khơng nghi ngờ gì nữa, kể từ thời kỳ Phục hưng trở đi, ảnh hưởng
của khoa học đến triết học càng ngày càng rõ rệt. Theo dõi sự phát triển
của khoa học trong thời kỳ này, chúng ta thấy rằng q trình phân ngành
diễn ra nhanh chóng: Cơ học, vật lý học, hóa học, sinh vật học, địa lý,
thiên văn học,... lần lượt trở thành các khoa học độc lập. Mỗi một khoa
học tự xác định cho mình đối tượng nghiên cứu riêng. Giới tự nhiên được
chia thành nhiều lĩnh vực khác nhau và trở thành đối tượng của những
nghiên cứu độc lập. Việc này là cần thiết, đặc biệt trong giai đoạn phát
triển đầu tiên của khoa học, khi mà nhiệm vụ chủ yếu là phải sưu tập, tích
lũy các tài liệu. Nhưng phương pháp được coi là cần thiết và chính đáng
ấy của khoa học tự nhiên cũng đã ảnh hưởng đến và in dấu lên tư duy triết
học đương thời - phương pháp tư duy siêu hình. Mặt khác, trong các khoa
học tự nhiên thời bấy giờ, chỉ có cơ học là mơn khoa học được coi là đạt
đến mức độ hoàn thiện nhất định và vì thế, tư duy cơ học máy móc cũng
đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến triết học. Chúng ta có thể nói rằng, trong
thời kỳ Phục hưng và cận đại, khoa học tự nhiên đã có ảnh hưởng quyết
định đến sự phát triển của triết học. Mỗi bước tiến mới của khoa học đều
bằng cách này hay cách khác tác động lên xu hướng phát triển và tư duy
của triết học.
Như đã biết, một trong các tiền đề của chủ nghĩa duy vật biện chứng

là trạng thái và các thành tựu của khoa học tự nhiên thế kỷ XIX. Khác với
các thế kỷ trước đó, khoa học tự nhiên trong thế kỷ XIX đã khơng cịn là
khoa học sưu tập nữa. Những gì nó tích lũy được trong thời kỳ trước đã
cho phép nó có thể sắp xếp, tổng hợp lại. Và nhiệm vụ này đến lượt nó,
khiến người ta phải chú ý nhiều hơn tới những mối liên hệ vốn có của bản
thân giới tự nhiên: Sự thống nhất của thế giới tự nhiên, sự vận động và
phát triển nội tại của nó. Các phát minh vĩ đại của khoa học tự nhiên thế
kỷ XIX trong các lĩnh vực vật lý và sinh vật, như định luật bảo toàn và
chuyển hóa năng lượng, thuyết cấu tạo tế bào và thuyết tiến hóa của các
lồi, đã chứng minh trên những nét cơ bản và đem lại một cái nhìn duy
1


vật biện chứng về thế giới tự nhiên. “Nhờ ba phát hiện vĩ đại đó và nhờ
các thành tựu khác của khoa học tự nhiên...”([1]), mà giờ đây đã có thể có
được “một bức tranh bao quát về mối liên hệ trong tự nhiên dưới một
hình thức gần như có hệ thống”([2]). Trước kia việc cung cấp một bức
tranh bao quát như vậy là nhiệm vụ của triết học tự nhiên. Triết học tự
nhiên, như chúng ta đã đề cập trên, là khuynh hướng triết học có từ thời
kỳ cổ đại và tiếp tục phát triển trong nhiều thế kỷ sau đó, khi mà các khoa
học tự nhiên cịn chưa phát triển. Vì vậy, triết học tự nhiên đã thay thế
những những mối liên hệ hiện thực, chưa biết bằng những mối liên hệ
tưởng tượng, hư ảo, thay những sự kiện cịn thiếu bằng những giả định,
phỏng đốn, thậm chí gán ghép cho tự nhiên nhiều sự tưởng tượng hư ảo
kỳ quái. Khi làm như thế triết học tự nhiên đã có nhiều tư tưởng thiên tài,
dự đốn trước được nhiều phát hiện sau này đồng thời cũng đưa ra nhiều
điều vô lý, nhưng không thể nào khác được. Ngày nay thì khác. Những
thành tựu quan trọng của khoa học tự nhiên đã cung cấp cho chúng ta
những bằng chứng chứng minh rằng giới tự nhiên là thống nhất. Ngày
nay, một bức tranh bao quát về những mối liên hệ khơng những trong các

lĩnh vực riêng biệt, mà cịn giữa các lĩnh vực hầu như của toàn bộ giới tự
nhiên, được rút ra chủ yếu từ những kết quả nghiên cứu do các khoa học
tự nhiên đem lại. Trong những điều kiện như vậy, thì một thứ triết học tự
nhiên đứng ngoài và đứng trên các khoa học là hoàn tồn khơng cần thiết.
Mọi ý định khơi phục triết học tự nhiên của các triết gia khơng cịn phù
hợp nữa, thậm chí, theo Ph.Ăngghen, phải coi ý định đó là “những bước
thụt lùi”(3).
1.2. Khoa học tự nhiên với sự ra đời và phát triển của triết học
Mác-Lênin
Tác động của khoa học lên sự phát triển của triết học không phải là
trực tiếp và theo đường thẳng, mà là gián tiếp tạo ra bầu khơng khí tinh
thần cho phép hình thành một kiểu tư duy, một cái nhìn tương ứng với
trạng thái đạt được của khoa học về thế giới. Thông qua những tri thức
và phát minh khoa học, các khái niệm, các phạm trù triết học có thêm
những nội dung mới. Chẳng hạn, thuyết nhật tâm của Copernicus khẳng
định rằng, trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ, thì rõ ràng nó đã
giáng một địn chí mạng vào Kitô giáo, mở đầu cho thời kỳ mới của khoa
học tách khỏi tơn giáo và thần học. Thuyết tiến hóa của Darwin đưa đến
kết luận rằng, các loài động vật, thực vật không phải ngẫu nhiên, được sự
sáng tạo bởi những lực lượng thần thánh siêu tự nhiên, mà là kết quả của
1


một q trình hồn tồn do các lực lượng tự nhiên chi phối. Kết luận đó là
một quan điểm của triết học duy vật. Thuyết tương đối của Einstein một
phát minh vạch thời đại. Tư tưởng về sự thống nhất giữa vật chất với
không gian và thời gian làm cho làm cho thuyết tương đối mang ý nghĩa
duy vật sâu sắc.
Sự phát triển của khoa học tự nhiên nhất định sẽ đưa đến những kết
luận triết học chung như là một sự tổng kết lý luận. Những kết luận triết

học rút ra từ các phát minh của khoa học tự nhiên thường do chính các
nhà khoa học tự nhiên thực hiện. Ảnh hưởng của khoa học đến sự phát
triển của triết học có thể đưa đến những kết luận tích cực, nhưng cũng có
thể đưa đến những kết luận tiêu cực, phản khoa học. Những phát minh
khoa học những năm cuối thế kỷ XIX về sóng, về phóng xạ, về điện tử...
đã khiến khơng ít nhà khoa học hồi nghi về khái niệm “vật chất” - nền
tảng của chủ nghĩa duy vật; rằng, cần từ bỏ chủ nghĩa duy vật và thay thế
chủ nghĩa duy vật bằng “chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”.([3])
Kết luận triết học được các nhà khoa học rút ra từ những kết
quả của mình đa phần mang tính tự phát. Chỉ khi được xem xét
trên một nền tảng thế giới quan nhất định, chúng mới thực sự
trở thành định hướng tích cực cho sự phát triển khoa học.
Chương 2: Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học
đối với sự phát triển khoa học
2.1. Thế giới quan và phương pháp luận
Thế giới quan là hệ thống những quan điểm, tư tưởng
khái quát của con người về thế giới (bao gồm cả con người trong thế giới
đó), về mối quan hệ giữa con người với thế giới. Thế giới quan phản ánh
hiện thực bên ngồi gián tiếp qua các nhu cầu, lợi ích, các lý tưởng mang
tính cá nhân hay xã hội. Tùy thuộc vào tính chất và phương thức biểu
hiện có thể có nhiều loại thế giới quan khác nhau, như: Thần thoại, tơn
giáo, khoa học, đạo đức, mỹ thuật, chính trị, triết học... Xét về phương
thức biểu hiện, triết học là thế giới quan lý luận, là hệ thống các tư tưởng
được xây dựng trên cơ sở tổng kết thực tiễn và nhận thức. Xét về tính
chất, triết học là sự khái quát chung nhất, mang đặc trưng tư duy tổng
hợp.
Những quan điểm, tư tưởng khi trở thành niềm tin của con người, sẽ
tích cực tham gia vào định hướng thái độ của con người đối với các hiện
tượng, các sự kiện quan trọng trong hiện thực và trong đời sống, xác định
“chỗ đứng của con người trong thế giới”. Đối với triết học, những quan

1


điểm tư tưởng ấy cịn giúp hình thành nên các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo
con người trong các hoạt động của mình để đạt được mục đích; hay nói
cách khác, là chúng thực hiện chức năng phương pháp luận. Phương pháp
luận triết học, do xuất phát từ những quan điểm, quan niệm chung nhất về
thế giới, con người và xã hội, nên cũng là phương pháp luận chung nhất.
Nó nêu lên những điều kiện chung cần thiết để giải quyết các vấn đề, các
nhiệm vụ cụ thể, chứ không phải trực tiếp giải quyết chúng.
2.2. Chức năng thế giới quan và phương pháp luận của triết học đối
với sự phát triển khoa học
Chức năng thế giới quan và phương pháp luận chung của triết học
đối với khoa học, được hầu hết các nhà khoa học thừa nhận. Vấn đề ở
chỗ, nếu có ai đó cho rằng, mình khơng cần đến một quan điểm triết học
nào, thì như thế cũng đã là có một quan điểm triết học rồi, song là một
quan điểm triết học mơ hồ. Đây cũng chính là tư tưởng của Ph.Ăgghen
khi ơng nói: “Những ai phỉ báng triết học nhiều nhất lại chính là những kẻ
nơ lệ của những tàn tích thơng tục hóa, tồi tệ nhất của triết học”([4]).
Albert Einstein - một trong những nhà khoa học xuất sắc nhất của thể kỷ
XX khơng ít lần chỉ rõ các khái quát triết học cần dựa trên các kết quả
khoa học. Max Planck - nhà vật lý, cha đẻ của cơ học lượng tử đã khẳng
định rằng, thế giới quan của người nghiên cứu luôn tham gia vào việc xác
định hướng nghiên cứu của người đó.
Chức năng thế giới quan - phương pháp luận của triết học
đối với các khoa học trước hết là ở vai trị nhận thức của nó, làm gia tăng
tri thức mới. Sự phân tích, lý giải triết học đối với các dữ liệu khoa học
cũng chính là sự nghiên cứu các hiện tượng ở mức độ khái quát chung và
sâu sắc hơn. Hàng loạt các phạm trù nền tảng của nhận thức được hình
thành và phát triển như là các phạm trù của triết học và các khoa học, ví

dụ như các phạm trù “vật chất”, “không gian”, “thời gian”, “vận động”,
“nguyên nhân”, “lượng”, “chất”,... Triết học không đi sâu giải quyết các
vấn đề khoa học cụ thể, mà đi sâu giải quyết các vấn đề thuộc về lý luận
nhận thức phổ quát. Phát triển song hành cùng các khoa học cụ thể, triết
học vạch ra lơgíc của các q trình nhận thức, trở thành phương pháp
luận của nhận thức khoa học.
Chức năng thế giới quan - phương pháp luận của triết học đối với
các khoa học là ở sự tổng kết các thành tựu đã đạt được của khoa học và
làm sáng tỏ các nguyên lý chung của chúng. Tất nhiên, trong mỗi khoa
học đều có sự tổng kết, khái quát các tri thức thành các nguyên lý, các
1


quy luật nhất định. Nhưng những tổng kết, khái quát trong mỗi khoa học
cụ thể chỉ được giới hạn trong lĩnh vực mà nó nghiên cứu. Đặc điểm của
khái quát triết học là những khái quát chung nhất, có liên quan đến các
hiện tượng và các quá trình của tự nhiên, xã hội và tinh thần.
Triết học là công cụ tổng hợp tri thức. Thực tế cho thấy trong sự
phát triển của tri thức hiện đại cùng với xu hướng xuất hiện chuyên ngành
mới, chuyên sâu là xu hướng ngược lại: Xu hướng liên ngành kết hợp
nhiều khoa học thành một hệ thống thống nhất. Tính chất tổng hợp, liên
ngành của khoa học hiện đại không chỉ thể hiện ở sự kết hợp của các
ngành khoa học truyền thống thành các khoa học mới như lý hóa, hóa lý,
sinh hóa, sinh tâm lý, sinh vật lý, địa vật lý..., mà cịn là sự xích lại gần
nhau của các ngành khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và khoa học nhân
văn. Chính xu hướng liên kết này của các khoa học cho phép các nhà
nghiên cứu đưa ra một bức tranh khoa học chung về thế giới, tìm kiếm
một cơ sở phương pháp luận chung thống nhất, khắc phục tính chất phân
tán manh mún của các khoa học chuyên ngành, xác lập cơ sở cho sự hợp
tác trong nghiên cứu khoa học. Ở đây, triết học đóng vai trị là hạt nhân lý

luận kết nối các ngành khoa học, là trung tâm phương pháp luận đem lại
khả năng thâm nhập vào các quá trình này một cách chủ động và tích cực.
Cuối cùng, sự phát triển nhanh chóng của khoa học và vai
trị ngày càng tăng của nó trong đời sống xã hội, mối liên hệ hữu cơ của
nó với các nhân tố, điều kiện phát triển xã hội và con người khiến cho
vấn đề quản lý khoa học và định hướng giá trị của nó trở nên cần thiết
hơn. Quản lý và định hướng giá trị khoa học ở đây không phải là quản lý
sự sáng tạo khoa học, mà là quản lý các thiết chế khoa học, kế hoạch
chương trình phát triển khoa học; ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa
học vào sản xuất và đời sống. Việc quản lý và định hướng ấy chắc chắn
không thể khơng liên quan đến một thế giới quan nói chung, đến những
quan điểm triết học nhất định.
Mối quan hệ giữa triết học và khoa học có một q trình
phát triển lâu dài. Mối quan hệ ấy không đơn giản, bất biến, mà phức tạp,
thay đổi và trở thành một trong những “vấn đề triết học”, nghĩa là xung
quanh nó ln tồn tại những quan điểm khác nhau. Có thể thấy hai quan
điểm nổi bật. Quan điểm thứ nhất, tuyệt đối hóa vai trị của triết học, hạ
thấp, coi thường vai trò của các khoa học. Quan điểm thứ hai, tuyệt đối
hóa vai trị của các khoa học, hạ thấp hoặc gạt bỏ vai trò của triết học. Cả
hai quan điểm này thực chất là cực đoan, chúng chỉ phản ánh và tuyệt đối
1


hóa một xu hướng nhất định đã có trong lịch sử triết học và khoa học mà
chúng tôi đã đề cập ở trên. Có thể nói, cách tiếp cận như vậy về mối quan
hệ giữa triết học và khoa học là biểu hiện của lối tư duy siêu hình – lối tư
duy, mà xét trong những điều kiện nhất định có thể được coi là chính
đáng, cần thiết, nhưng xét trong phạm vi phổ qt thì nó bộc lộ những
hạn chế nhất định.
Sự ra đời chủ nghĩa duy vật biện chứng đã đem đến một quan điểm

mới, tích cực về mối quan hệ giữa triết học và khoa học. Mối quan hệ
giữa triết học và các khoa học là mối quan hệ biện chứng, thống nhất của
các mặt đối lập. Tính đặc thù của mối quan hệ này nằm ở chỗ, tùy từng
giai đoạn phát triển cụ thể mà mặt này hay mặt kia nổi trội, tác động của
mặt này lên mặt kia không phải chỉ theo một hướng duy nhất. Các kết
luận triết học được rút ra từ khoa học có thể là tích cực, nhưng cũng có
thể là tiêu cực. Điều đó phụ thuộc vào lý luận nhận thức của các nhà khoa
học được định hướng bởi thế giới quan triết học nào. Trong những năm
cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, những phát minh mới của khoa học tự
nhiên, như phát hiện ra tia X, hiện tượng phóng xạ, điện tử,... đã làm bộc
lộ những hạn chế của bức tranh cũ về thế giới vật lý, tạo nên tình thế
khủng hoảng. Phân tích “cuộc khủng hoảng của vật lý học” ấy, V.I.Lênin
đã chỉ ra rằng, chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng và xuyên tạc những thành
tựu có tính cách mạng nói trên của khoa học tự nhiên; rằng, các nhà khoa
học - những người xuất sắc trong các lĩnh vực của mình, nhưng lại bộc lộ
các giới hạn nhận thức trong lĩnh vực triết học. Họ, vì khơng nắm vững
bản chất của tư duy biện chứng, cho nên đã dao động và tìm đến chủ
nghĩa hồi nghi mà bỏ qua vai trị thực chứng trong vật lý học của chủ
nghĩa duy vật biện chứng. V.I.Lênin khẳng định rằng, trong trường hợp
này, chỉ có nắm vững phép biện chứng duy vật mới có thể thốt khỏi
“cuộc khủng hoảng vật lý” đó([5]).
Cuộc cách mạng khoa học - cơng nghệ hiện đại với sự phát triển
nhanh chóng của khoa học cũng như những ứng dụng rộng rãi của nó
trong thực tiễn đã và đang làm thay đổi sâu sắc đời sống con người, góp
phần làm bộc lộ những hạn chế của tư duy siêu hình. Con đường duy nhất
để khắc phục những giáo điều, những khuôn sáo, trì trệ trong nhận thức
và hành động là nắm chắc và vận dụng đúng phép biện chứng duy vật, vì
phép biện chứng duy vật là phương pháp luận chung nhất của nhận thức
khoa học và thực tiễn cách mạng.


1


1


TÀI LIÊU THAM KHẢO
([1]) Ph.Ăngghen. Lút-vich Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ
điển Đức. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.98.
([2]) Ph.Ăngghen. Lút-vich Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ
điển Đức. Sđd., tr.98.
([3]) Ph.Ăngghen. Lút-vich Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ
điển Đức. Sđd., tr.99.
([4]) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.20. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2004, tr.692 - 693.
([5]) V.I.Lênin. Toàn tập, t.18. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.318.

1


KẾT LUẬN
Trên cơ sở của những nội dung đã bàn luận, có thể thấy rõ một điều
rằng, triết học và khoa học tự nhiên ln đi liền và có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Trải qua một quá trình lịch sử phát triển lâu dài, mối quan
hệ ấy đã trở thành một trong những “vấn đề triết học” được bàn luận sâu
rộng với nhiều quan điểm khác nhau. Và bước vào bối cảnh thời kì Cách
mạng khoa học cơng nghệ 4.0 luôn phát triển không ngừng mang đến cho
con người cả những lợi ích và hạn chế nhất định. Mỗi người chúng ta, hay
đặc biệt là chính những sinh viên trường Đại học Bách khoa Hà Nội
chúng ta cần phải cố gắng tìm tịi, học tập khơng ngừng, tích lũy kiến

thức và đổi mới tư duy để thích nghi với thời đại. Từ đó, chúng ta có thể
phát triển bản thân, làm chủ được khoa học công nghệ và khơng bị đào
thải trong chính xã hội này.

1



×