Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

(TIỂU LUẬN) TIỂU LUẬN CUỐI kỳ đặc điểm CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG VIỆT NAM (1945 1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.95 KB, 25 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA LỊCH SỬ 



TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
ĐẶC ĐIỂM CHIẾN TRANH
CÁCH MẠNG VIỆT NAM (1945-1975)

Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS Hà Minh Hồng
Sinh viên thực hiện: Thái Vũ Hoà
Mã số sinh viên: 1956040057

Thành phố Hồ Chí Minh, 29/12/2021

Tieu luan


Hiện thực chiến tranh qua tác phẩm Hiện thực
chiến tranh của tác giả Bảo Ninh

A.DẪN LUẬN...........................................................................................................1
1.Giới thiệu...........................................................................................................1
2.Tác giả Bảo Ninh...............................................................................................2
3.Hoàn cảnh sáng tác...........................................................................................3
4.Tóm tắt tác phẩm..............................................................................................4
B. NỘI DUNG..........................................................................................................5
1. Vấn đề chiến tranh và con người qua tác phẩm............................................5
1.1. Sự tác động của chiến tranh đến con người trong tác phẩm nỗi buồn


chiến tranh.........................................................................................................6
1.2. Người lính nhìn từ góc độ số phận con người cá nhân trong Nỗi buồn
chiến tranh.........................................................................................................7
2.Tình yêu trong chiến tranh thể hiện qua tác phẩm.....................................14
C. KẾT LUẬN........................................................................................................19

Tieu luan


Tieu luan


A.DẪN LUẬN
1.Giới thiệu
Tác phẩm là dòng hồi ức của người lính về chiến tranh và thời tuổi trẻ đã trải qua
trong bom đạn. Đó là lịng tiếc thương vơ hạn đối với những người cùng thế hệ với
mình đã nằm xuống, là ám ảnh về thân phận con người trong thời buổi loạn ly, và
thông qua thân phận là sự tái hiện đầy xót xa về quá khứ, những suy tư nghiền
ngẫm về con đường dấn thân của cả một thế hệ sinh ra trong chiến tranh. Bao trùm
lên tất cả, là nỗi buồn sâu xa gắn với từng mảnh đời riêng. Tác phẩm đã bước ra
khỏi lối mòn về lịng tự hào dân tộc cùng những chiến cơng và vinh quang tập thể
để nêu lên thông điệp về sự ghê tởm, về tính chất hủy diệt của chiến tranh đối với
con người. Cuộc chiến tranh chống Mỹ là một trong những đề tài quan trọng nhất
của văn học cách mạng Việt Nam. Mỗi thể loại, mỗi nhà văn nhận thức và thể hiện
đề tài này theo những cách riêng. Chọn đề tài này chúng tôi muốn nghiên cứu việc
nhận thức và thể hiện đề tài ấy ở truyện ngắn của một nhà văn cụ thể. Nỗi buồn
chiến tranh của Bảo Ninh là tập “biên bản chiến tranh” về cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước. Từ hiện thực chiến trường đến hình tượng người lính và tình yêu
trong chiến tranh để nhận thấy rằng, tác phẩm là một lát cắt thời gian, một phần
của cuộc chiến, nhận diện được tính tổng thể của hiện thực chiến tranh cũng như

quá trình vận động và phát triển của dòng tiểu thuyết chống Mỹ trong bức tranh
chung của tiểu thuyết thể tài chiến tranh và cách mạng Việt Nam hiện đại nửa cuối
thế kỷ XX.

Vào thời điểm ra đời cuối thập niên 1980, “Nỗi buồn chiến tranh” có thể được xem
là tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại đầu tiên viết về chiến tranh có cái nhìn
khác với quan niệm truyền thống, khẳng định mạnh mẽ vai trò cá nhân trong xã

Tieu luan


hội, quyền sống, hạnh phúc và đau khổ của con người với tư cách một cá thể độc
lập. Tiểu thuyết nhận được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991.
2.Tác giả Bảo Ninh.

Bảo Ninh tên khai sinh là Hoàng Ấu Phương, sinh ngày 18/10/1952 tại Diễn Châu,
Nghệ An. Quê quán xã Bảo Ninh, huyện Quảng Ninh. Anh từng nhập ngũ và tham
gia chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên. Bảo Ninh là một nhà văn trưởng thành
khi chiến tranh chống Mỹ đã kết thúc. Nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu một
nhà văn hậu chiến đã nhìn nhận và thể hiện cuộc chiến tranh đó như thế nào. Bảo
Ninh còn là tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết xuất sắc viết về chiến tranh.
Sự nghiệp sáng tác

Tieu luan


Năm 1987, xuất bản truyện ngắn Trại bảy chú lùn. Năm 1991, xuất bản tiểu thuyết
Nỗi buồn chiến tranh (in lần đầu năm 1990 tựa đề Thân phận của tình yêu, được
tặng Giải thưởng Hội Nhà vănViệt Nam và được đón chào nồng nhiệt)
Năm 2002 xuất bản Truyện ngắn Bảo Ninh.Bảo Ninh còn viết một số truyện ngắn

về đề tài chiến tranh, trong đó truyện Khắc dấu mạn thuyền đã được dựng thành
phim. Truyện ngắn Bội phản của Bảo Ninh trong tập truyện Văn Mới do Nhà xuất
bản Văn học xuất bản năm 2005.
3.Hoàn cảnh sáng tác.
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh được xuất bản lần đầu tiên năm 1990 với
tiêu đề Thân phận của tình yêu do các biên tập viên nhà xuất bản Hội nhà văn lựa
chọn. Chỉ một năm sau đó, tác phẩm được tái bản với tiêu đề do chính tác giả đặt
tên từ trước Nỗi buồn chiến tranh. Cũng trong năm đó, cuốn sách được giải thưởng
của

Hội

nhà

văn. 

Từ những ngày đầu xuất hiện, Nỗi buồn chiến tranh đã gây xơn xao dư luận vì tính
phức tạp của nó. Gần 15 năm sau khi cuốn tiểu thuyết ra đời, tác phẩm vẫn làm
say mê đọc giả bởi cốt truyện quen mà lạ, gần gũi mà như xa vời. Đó là câu chuyện
bi thảm về tình yêu trong chiến tranh và những chiêm nghiệm về thời chiến, một
thời mà theo dòng ý thức của cuốn tiểu thuyết này đã trở thành quá khứ. Khác với
những tác phẩm trước đó mang tính sử thi, miêu tả chiến tranh từ góc độ cộng
đồng, ý chí chiến đấu của người lính trên mặt trận vì vận mệnh đất nước, Bảo Ninh
lại miêu tả chiến tranh từ góc độ cá nhân, thân phận con người, đi sâu vào những
nỗi niềm cá nhân thầm kín mà trước đó chưa nhà văn nào nói được. Do đó, có một
thời gian tác phẩm bị cấm xuất bản và bị cấm lưu truyền nhưng vẫn được đơng đảo
người

đọc


ưa

thích. 

Ngay sau khi nhận giải thưởng ở Việt Nam, Nỗi buồn chiến tranh được dịch

Tieu luan


sang tiếng Anh bởi Frank Palmos và Phan Thanh Hảo, xuất bản năm 1994 với tựa
đề The Sorrow of War. Cuốn sách được một số nhà phê bình đánh giá là một trong
những tiểu thuyết cảm động nhất về chiến tranh.
Bản dịch này được đọc rộng rãi ở phương Tây, và là một trong số ít sách nói về
chiến trah quan điểm phía Việt Nam được xuất bản ở đây. Tác phẩm được đưa vào
danh sách 50 dịch phẩm xuất sắc nhất nửa thế kỷ qua của. Hiệp hội dịch giả Anh,
đồng thời được coi là một trong 10 tiểu thuyết hay nhất Đông Nam Á. 
4.Tóm tắt tác phẩm
Nỗi buồn chiến tranh về cơ bản được chia làm bảy phần dựa trên các cách trang
thống nhất trong cả bốn bản in (1990, 1991 và hai bản năm 2003). Tác phẩm
khơng có cốt truyện, tình tiết rành mạch mà chỉ là những mảng hồi ức của nhân vật
Kiên, một người lính của tiểu đồn 27 độc lập hoạt động trên địa bàn B3 cịn sống
sót, về cuộc chiến tranh đẫm máu vừa qua và về mối tình với cô bạn học trường
Bưởi tên là Phương. Kiên xuất thân từ một gia đình trí thức tiểu tư sản miền Bắc.
Cha là họa sĩ nhưng tranh của ông lại bị người ta phê phán là thể hiện những chân
dung ma quỷ. Mẹ Kiên, một đảng viên, bỏ cha từ lúc Kiên còn nhỏ để lấy chồng
khác. Kiên biết rất ít về người chồng sau của mẹ, một nhà thơ tiền chiến về già.
Kiên là sự kết hợp hoàn hảo giữa mẹ và cha: xung phong đi bộ đội ở tuổi mười
bảy, khăng khăng chiến đấu, bỏ lại người yêu, cứng rắn và can đảm. Kiên đã xả
thân làm người hùng, lao vào cuộc chiến để phục vụ sự nghiệp cứu nước.Trải qua
nhiều mối tình, cả khi mới biết những rung động đầu đời với người hàng xóm tên

Hạnh, rồi vào bộ đội với bao cảm xúc của tuổi trẻ nhưng người Kiên yêu nhất vẫn
là Phương. Vì quá nhớ Kiên nên Phương quyết định lên tàu thăm Kiên nhưng
không may tàu bị đánh bom. Trong lúc loạn lạc, Phương bị làm nhục. Cảm thấy
quá xấu hổ và đau đớn, Phương lấy chồng. Ngày hịa bình, Kiên trở về và rất đau

Tieu luan


khổ khi biết Phương đã lấy chồng. Từ đó, Kiên trở thành “nhà văn cấp phường”,
sống một thời hậu chiến đầy u buồn. Anh lao vào viết như một “Thiên mệnh” xa
vời, tối tăm. Kiên như người mộng du lang thang cả đêm khắp phố phường, đêm
đêm viết hàng núi giấy. Những câu chữ xuất hiện trong “bóng đêm âm u” của tiềm
thức, vơ thức đã trở thành những hình tượng ảo giác trên trang bản thảo. Ngày kia
anh đốt bản thảo tác phẩm của mình, bên người con gái câm, một biểu tượng
đẹp,một bản sao khác của Phương. Cơ gái câm là người đọc có thể, người đọc
tương lai tiểu thuyết của Kiên. Cô là người duy nhất chứng kiến một tiểu thuyết
đang hình thành trong bóng đêm, trong cơn say, trong điên khùng và hoảng
loạn, trong vô thức, tức là từ nỗi buồn tình yêu và nỗi buồn chiến tranh.

B. NỘI DUNG
1. Vấn đề chiến tranh và con người qua tác phẩm.
Chiến tranh là một nhân tố có tác động cực kỳ to lớn đối với nhân cách con người.
Nhân cách là "tư cách và phẩm chất con người", mỗi con người ai cũng có tư cách
và phẩm chất. Tư cách, phẩm chất đó như thế nào phụ thuộc vào hoàn cảnh sống,
điều kiện sống của mỗi cá nhân. Bùi Việt Thắng cho rằng: "quan niệm về nhân
cách là biểu hiện một trình độ cao của sự khái quát nghệ thuật đời sống ". Tác giả
còn khẳng định: "nhân cách là một khái niệm rộng và cao hơn khái niệm nhân vật
tích cực". Nói đến nhân cách con người là nói đến những điểm tốt đẹp của người
trước cuộc sống.
Chiến tranh chống Mỹ chiếm trọn hai mươi năm của thế kỷ. Con người Việt Nam

phải chịu sự tác động ghê gớm của cuộc chiến tranh trường kỳ ấy. Tới nay hòa
bình đã trở lại nhưng những dư âm của chiến tranh vẫn là nỗi ám ảnh khôn nguôi
đối với con người thời hậu chiến. Sức tác động của chiến tranh đến nhân cách con

Tieu luan


người cả trong chiến tranh và trong hòa bình vẫn là một chủ đề của văn học hôm
nay. Bên cạnh các tác giả văn học khác, Bảo Ninh thể hiện sự tác động của chiến
tranh đến nhân cách con người rất độc đáo. Ở đây chúng tôi đi vào tìm hiểu nhân
cách con người trong truyện ngắn Bảo Ninh, từ đó nhận thấy cùng với các nhà văn
hiện đại, Bảo Ninh đã góp phần tạo điều kiện cho sự thay đổi quan niệm nghệ thuật
về con người văn học thời hậu chiến.
1.1. Sự tác động của chiến tranh đến con người trong tác phẩm nỗi buồn chiến
tranh.
Tính từ sau Cách mạng tháng Tám, được sáng tác dưới ánh sáng của lý tưởng cộng
sản, trong dung môi của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng,
văn học Việt Nam đã có những bước phát triển đáng ghi nhận. Nền văn học sử thi
của 30 năm ấy có những đóng góp riêng cho tiến trình văn học dân tộc. Nền văn
học 1945-1975 là sự kết tinh chín muồi của lý tưởng thẩm mĩ, rung cảm nghệ
thuật. Cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ đã tiếp nguồn cảm xúc, tác động mạnh
đến thế giới tinh thần của người sáng tác. Văn học thể hiện tinh thần, khí phách
cách mạng mà ở đó một thế hệ nhà văn "vừa là chiến sĩ, vừa là nghệ sĩ". Tròn 30
năm chiến tranh (1945-1975) hình tượng chiến tranh và người lính đã trở thành
hình tượng trung tâm xuyên suốt quá trình vận động của nền văn học ấy. Bên cạnh
những yếu tố tích cực, yếu tố tiêu cực vẫn tồn tại, chi phối mạnh mẽ bước đi của
văn học thời kỳ này. Chiến tranh được nhận thức lại từ sự tác động ghê gớm của nó
đến tính cách và số phận con người, với bao nhiêu nỗi éo le, bi kịch, xót xa, nỗi
buồn dai dẳng.
Nỗi buồn chiến tranh còn thể hiện qua những hoàn cảnh éo le, bi kịch. Đó là hình

ảnh của một người cha trốn chạy quá khứ, trốn chạy khỏi quê hương khi cuộc sống
đã yên bình (Ba lẻ một), đó là nỗi éo le của người bố cứu con người khác mà
không thể cứu được vợ con mình (Bí ẩn của dòng nước), đó là nỗi nuối tiếc về một

Tieu luan


lá thư không kịp bóc (Lá thư từ Quý Sửu). Hay nỗi ngậm ngùi về một ông già mất
trí, mãi xót xa vì một chuyến hỏa xa không bao giờ trở lại (Ngôi sao vô danh). Và
nỗi buồn của người lính sau chiến tranh trở về quê hương với cảm giác "lạc loài"
(Hữu khuynh). Nỗi buồn chiến tranh còn thể hiện lớn hơn trong sự đau buồn,
thương nhớ của người mẹ già trong lần giỗ thứ ba mươi của con (Mây trắng còn
bay)... Rõ ràng hiện thực mất mát của chiến tranh trong văn học hậu chiến không
còn bị né tránh nữa, và bây giờ nếu viết về chiến tranh mà không viết những đổ
máu khắc nghiệt thì đó là "tác phẩm vô đạo đức" (Simônôp). Hơn nữa "mô tả chiến
tranh mà chỉ giữ lại những cái anh hùng, vứt bỏ tất cả những cái khác có nghĩa là
bỏ rơi rất nhiều bài học chiến tranh. Không miêu tả những chi tiết nặng nề, bi thảm
của chiến tranh là xuyên tạc bộ mặt chiến tranh trong ý thức nhân loại" (Ngô Thảo
(2001), Văn học về người lính, Nxb Quân đội Nhân dân). Bảo Ninh trong các tác
phẩm của mình đã cho người đọc thấy những tổn thất, hy sinh của chiến tranh,
đồng thời thể hiện rõ những số phận người lính trước và sau chiến tranh.
1.2. Người lính nhìn từ góc độ số phận con người cá nhân trong Nỗi buồn
chiến tranh
Kế thừa thành tựu của tiểu thuyết chiến tranh tiền đổi mới 1975-1985 mà Đất trắng
là tiêu biểu, Nỗi buồn chiến tranh là một sự tiếp nối xuất sắc khi Bảo Ninh nghiền
ngẫm, tái tạo bộ mặt chiến tranh qua gương mặt và số phận con người. Có thể nói,
với cảm hứng nhân văn chan chứa thể hiện qua góc nhìn thân phận người lính, Nỗi
buồn chiến tranh đã được đánh giá là “cuốn tiểu thuyết cảm động nhất về chiến
tranh”, bởi “cuốn sách đã chạm vào mẫu số chung của nhân loại”... Song, nhìn từ
phía chủ thể sáng tạo, dễ dàng nhận thấy Bảo Ninh đã thâm nhập sâu vào đặc trưng

thể loại khi chọn nhân vật để gửi gắm thông điệp và lý giải mọi vấn đề của hiện
thực đời sống. Nhà văn hiểu hơn ai hết sức ám ảnh, ấn tượng sâu đậm của một

Tieu luan


cuốn tiểu thuyết bao giờ cũng thuộc về số phận nhân vật mà không phải là hệ
thống sự kiện, biến cố.
Tuy không có “kích thước” của một “đại tự sự” nhưng thế giới nhân vật của Nỗi
buồn chiến tranh là tập hợp của nhiều gương mặt, nhiều cuộc đời, nhiều số phận.
Họ đều là những nạn nhân của chiến tranh, đặc biệt là những người lính tham trận.
Trên chiến trường và trong đời sống quân ngũ, nhân vật của Bảo Ninh đều là
những người trẻ tuổi, dễ thương, nặng tình đồng đội, giàu tình yêu quê hương, xứ
sở, coi hành động dấn thân ra chiến trường là biểu hiện cao nhất của lòng yêu
nước, chí nam nhi. Một số nhân vật dù hiếm hoi đã hiện diện trên chiến trường
bằng những nét vẽ mang màu sắc lý tưởng bởi những hành động chiến đấu hy sinh
quên mình như Cừ, Tư, Hoà... Hình ảnh của Hoà “đứng hơi nghiêng trước nắng tà
(...). Cái cổ cao yếu ớt, áo cộc, quần đùi, đôi chân trần đầy vết gai cào” [tr. 227];
vậy mà người giao liên với thân hình mong manh, yếu đuối ấy đã dám liều mình
đánh lạc hướng quân thù để giải cứu đoàn thương binh, nhận lấy cái chết thảm
thương. Qua điểm nhìn của Kiên – nhân vật chính của tác phẩm, đây là một sự sát
hại man rợ, thú tính: “Hoà gục ngã giữa trảng cỏ và đằng sau bọn Mỹ xô tới, vây
xúm lại, trần trùng trục, lông lá trên mình như những con đười ươi, phì phò thở,
giằng giật, nặng nề hộc rống lên” [tr. 50]. Những hình ảnh thương đau đó hằn sâu
vào ký ức chiến tranh của Kiên, trở thành “kỷ niệm bi thảm, thương tâm và hiểm
nghèo nhất” sau mỗi lần hồi tưởng. Nhưng nó cũng chỉ là một bức nhục hình nhỏ
trong bức tường thành đại thảm hoạ của cuộc chiến. Và càng ngày, càng “nhớ lại
và suy nghĩ”, Kiên đã nhận ra rằng: “Chiến tranh, với bộ mặt gớm ghiếc của nó,
với những móng vuốt của nó, với những sự thật trần trụi bất nhân nhất của nó sẽ
chỉ đơn thuần có ý nghĩa là một thời buổi và một quãng đời mà bất kỳ ai đã phải

trải qua, đều mãi mãi bị ám ảnh, mãi mãi mất khả năng sống bình thường, mãi mãi
không thể tha thứ cho mình” [tr. 101].

Tieu luan


Số phận người lính trong Nỗi buồn chiến tranh được khai thác ở cả hai quãng đời
trong và sau chiến tranh. Ở quãng đời đầu, khác với đa số các tác phẩm cùng đề tài
chiến tranh, Bảo Ninh đã miêu tả chân dung người lính với ngoại hình yếu ớt, thiếu
sinh khí và một đời sống nội tâm yếu đuối, dễ tổn thương và quá nhiều khiếp đảm.
Đành rằng Kiên cũng như nhiều anh em khác đã tình nguyện ra chiến trường, bỏ
lại mối tình học trò đẹp như những trang thơ coi chiến tranh là một cơ hội lập
công... Nhưng khi tận mắt chứng kiến bộ mặt gớm ghiếc của chiến tranh, mộng
làm người hùng tiêu tan, tâm tính họ đã thay đổi gần như hoàn toàn. Chưa bao giờ
có trong văn học một tập thể những người lính rã rời và hành động mất phương
hướng đến thế. Trước cái chết, họ run sợ, hoảng loạn, khiếp đảm và tìm cách
chống trả. Để xua đi cái thực tại hàng ngày xương rơi, máu đổ, “khủng khiếp và
hồn hoang”, cái chết ập đến bất cứ lúc nào, họ đào ngũ, uống rượu, hít hồng ma,
chơi gái... Nhưng mọi con đường đều dẫn đến ngõ cụt, bế tắc và bi thảm. Can –
một chiến sĩ trinh sát quả cảm đã từ bỏ đồng đội, trốn chạy trong đêm với hy vọng
được trở về với người mẹ già đơn thân ở quê nhà. Anh vịn vào tâm linh “Mấy đêm
vừa rồi tôi toàn mơ thấy mẹ tôi gọi tôi. Có lẽ anh tôi đã chết mà mẹ tôi thành ra
lâm bệnh rồi chăng?” Đào ngũ để tìm cơ hội sống nhưng Can lại phải gánh lấy cái
chết thảm thương, chết bởi phát đạn trừng trị của những người cùng hàng ngũ, xác
trôi dạt trong mưa nguồn suối lũ, chết mà chưa kịp gặp mẹ... Rồi cảnh những người
lính giải buồn trong đám khói hồng ma, trong sự giải toả những ẩn ức bằng hành
động sex... Nhưng dường như những khao khát rất con người, nhất là những người
trẻ tuổi chỉ diễn ra trong những giấc mơ đúng như phán đoán của “ông tổ” phân
tâm học Freud. Chàng lính Vĩnh đêm đêm đắm chìm trong những “xen” hoà hợp
thể xác ảo để tìm khoái lạc: “Chỉ rặt mơ thấy đàn bà và hắn thường xuyên khoái trá

tả thực cho anh em nghe về những cuộc làm tình tưởng tượng vô cùng tham lam,
phức tạp, rất ngóc ngách, đầy lý thú và sống sượng với chị em huyền thoại của
hắn” [tr. 15]. Kiên xuất thân từ dòng dõi trí thức nên sự cảm nhận và bộc lộ khía

Tieu luan


cạnh bản năng có phần tinh tế và thăng hoa hơn. Mỗi lần nghĩ đến Phương là hình
ảnh của một mỹ nhân mối tình đầu hiện lên với dáng hình tiên nữ, ám ảnh anh suốt
những đêm mưa dài, khiến mọi giác quan như được thức dậy, thân thể anh “gai
lên, xương thịt chờn rợn, run rẩy, rung động trong nỗi khát khao thèm muốn được
hưởng tới độ tột cùng cái cảm giác tiếp xúc êm ái, choáng ngợp, đáng kinh hãi với
cái hình hài yêu dấu, mong manh, mềm mại như cánh hồng ấy” [tr. 32]. Những
tình huống tương tự chúng ta có thể bắt gặp trong Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai,
Lạc rừng – Trung Trung Đỉnh,... như một “hội chứng tập thể” biểu hiện sự khủng
hoảng tính dục của đời sống chiến tranh. Chính vì hiện tượng mất cân bằng, thậm
chí là “triệt tiêu giới” là phổ biến nên “mối tình” của ba cô gái Mây, Thơm, Hơ bia
với những người lính trong đội trinh sát với những màn làm tình “thật” là những
trường hợp hy hữu, là “của hiếm” và thực sự có tính nhân văn sâu sắc. Còn đại đa
số những “hành vi tính dục” nói trên đã cướp mất bản năng “yêu và sống” bình
thường của người lính – một khía cạnh đáng buồn của thân phận, chính vì vậy, nó
là sự phản kháng dữ dội của con người trước chiến tranh.
Tiêu biểu nhất cho quãng đời chiến trận của người lính là những cuộc giao tranh
trên chiến trường. Với Nỗi buồn chiến tranh hành động nã súng, chém giết nhiều
khi vượt ra ngoài tầm kiểm soát của lý trí, ý thức và mang màu sắc bạo lực tàn sát.
Dẫu biết chiến tranh là sinh tử, là “một mất một còn” nhưng việc nả đạn xối xả,
đâm chém tới tấp vào những hình nhân không còn sức chống đỡ là đã vi phạm vào
nhân tính, là dã man, tàn bạo. Kiên khi đối mặt với tên thám báo bị thương không
đủ khả năng kháng cự vẫn “điên cuồng nã từng phát, từng phát đóng đanh lên cái
thân xác còn nóng hổi sức sống đang oằn oại đau đớn trong cơn rung giật, giãy

chết. Máu phọt toé lên ướt ống quần Kiên” [tr. 19]. Sự lạnh lùng, vô cảm còn được
nhân lên khi Kiên trút thù hận vào nữ thám báo của giặc: “Bắn trả thù. Và kinh
khủng hơn thế là khi bị cả chừng nửa băng đạn xô vật ra, cô ta vẫn còn thúc cùi tay

Tieu luan


xuống sân và ngóc đầu lên, như toan ngồi dậy, Kiên bắn bồi luôn, không phải một
phát mà là trọn nửa băng nữa” [tr. 115]. Bản năng giết người trong môi trường
chiến tranh có khả năng lây lan, trở thành một thứ “vô thức tập thể”. Hình ảnh
Kiên cùng Tạo “voi” xả đạn từ khẩu đại liên vào đám tàn binh của trung đoàn 45
đang bỏ chạy như xả vào hàng ngàn cái bia thịt trong con mắt của chính Bảo Ninh
là hành động tàn sát. Rùng rợn hơn là cảnh tượng người lính cao xạ “lôi xác cô gái
xuống bậc tam cấp. Tóc tai xoã tung, gáy và xác chết nảy bình bịch như trái banh.
Thằng chó má dã man kéo sền sệt cái xác khốn khổ qua mặt bê tông... Hắn choãi
chân, vặn lưng lấy đà, quăng mạnh, liệng bổng người ta lên. Xoay lộn một vòng
trong nắng, cái xác trắng rợn bay chênh chếch, rơi thịch xuống cạnh mấy cái thây
lính dù chưa ai dọn” [tr. 111]. Rồi giấc ngủ ngon lành của Kiên bên xác một cô gái
ở sân bay Tân Sơn Nhất, cuộc ăn mừng chiến thắng của đồng đội anh ngay cạnh
mấy cái thây của đối phương... cho thấy người lính do tiếp xúc quá nhiều, bị “bội
nhiễm” với cái chết, không còn cảm giác sợ hãi ... Rõ ràng, chiến tranh hiện diện
trong tác phẩm với đầy đủ tính chất huỷ diệt, không chỉ là sinh mệnh con người mà
là nhân tính, đã biến những thanh niên trí thức mơ mộng, những người lao động
chân chất, mộc mạc, hiền lành thành những kẻ giết người không biết ghê tay,
những kẻ đầu óc đầy rẫy hận thù, thậm chí là điên cuồng, khát máu...
Nỗi buồn chiến tranh vẫn loé lên một đốm sáng của lòng nhân ái. Đó là câu
chuyện của Phán về người thương binh Ngụy trong một trận đánh giáp lá cà. Lúc
đầu, khi cùng bị hất xuống một chiếc hố, như một thói quen phải chém giết, Phán
đã đâm tới tấp vào kẻ thù. Nhưng khi cơn “say máu” lắng xuống, Phán chợt nhận
ra người lính phía bên kia đã dính đạn từ trước, anh chợt thấy hành động của mình

thật khủng khiếp, anh “run sợ đến thấu tim và xót thương” tận đáy lòng, xé áo băng
bó vết thương cho người lính Ngụy. Sau đó Phán trèo lên khỏi hố để tìm kiếm
thêm vải và bông băng nhưng một cơn mưa rừng quái ác ập đến bất ngờ đã vùi lấp

Tieu luan


một vùng giao tranh đẫm máu, không thể tìm thấy dấu vết nơi người lính Ngụy xấu
số đang cần sự trợ cứu khẩn cấp. Hình ảnh Phán – người lính giải phóng quân
“lồng lên chạy tìm cuống quýt” trong “đau đớn chồng chất” với lời gọi thảm thiết
“Ngụy ơi! Ngụy ơi! Em ở đâu? Ngụy ơi...” là một tiếng kêu lạ, phát ra từ đáy sâu
tình người và có sức lay tỉnh ghê gớm. Chiến tranh luôn tồn tại những nghịch lý,
nhưng đây là một nghịch lý chỉ có thể giải nghĩa bởi bản tính thiện trong mỗi con
người trước đồng loại, và về một mặt nào đó, nó là thứ tình cảm thiêng liêng, chưa
bị xoá mờ của những con người có chung “căn cước dân tộc”, máu đỏ da vàng dù
thuộc về hai bên chiến tuyến... Đây thực sự là một thông điệp mang ý nghĩa dự
báo, thức tỉnh, mở ra chiều hướng tái nhận thức về chiến tranh, xoá bỏ thù hận và
tạo hoà hợp dân tộc. Bi kịch Mỹ trong và sau chiến tranh Việt Nam và mới thực sự
cho ta thấy cuộc đời cùng số phận những người Mỹ lính tráng, nông dân, thợ
thuyền, tiểu thị dân... bị chiến tranh đày đoạ và dày vò như thế nào. Các tác phẩm
văn học ấy dù có thể rất gai góc và gây sốc, song quyết liệt tính hiện thực và đậm
tinh thần nhân đạo, sẽ cho người đọc trực diện nhìn thấy những người Mỹ bình
dân, họ sướng khổ, buồn vui như thế nào, họ tốt đẹp và xấu xa, họ thù hận và yêu
thương, họ thiết tha với hoà bình và căm ghét chiến tranh...”. Suy cho cùng, người
lính dù thuộc phía nào của cuộc chiến đấu đều là nạn nhân của cỗ máy chiến tranh
và những ngày tháng cầm súng trên chiến trường là một khởi điểm đau thương đè
nặng lên số phậm kém may mắn của đời họ.
Cùng chung trải nghiệm, suy tư về người lính với nhiều nhà văn cùng thời, nhưng
Bảo Ninh dường như có được dự cảm nhạy và sớm hơn. Ngay từ hình ảnh đoàn tàu
đưa những người lính, những thương phế binh trở về, hành động của nhân viên

kiểm toa – những người ở hậu phương, đã làm tổn thương và gây nên nỗi đắng cay
chua chát không thành lời trong lòng Kiên. Những người lính bị kiểm tra, khám xét
từng chiếc ba lô, từng vật dùng cá nhân, từng món quà nhỏ và một vài chiến lợi

Tieu luan


phẩm lặt vặt bởi ý nghĩ thô bạo: “Một núi của cải ở miền Nam sau giải phóng bị hư
hao thất thoát, bị xâu xé tranh đoạt, bị hốt vơ vào cho đến sạch sành sanh là bởi
anh bộ đội chứ không phải bởi bọn người nào khác” [tr. 84]. Cùng với những hành
động xúc phạm ấy là tiếng loa phóng thanh vang lên trên các toa tàu nhưng chủ
yếu cũng chỉ nhằm “lên lớp” cho người lính rằng: cần phải “chống cầu an, chống
đạn bọc đường, chống thói đam mê tàn tích của xã hội phồn vinh giả tạo và nào là
cần đặc biệt chống tư tưởng công thần” [tr 84]. Trở về với ngôi nhà cùng gia đình,
người thân, Kiên đã thành người xa lạ, càng cố gắng càng không thể hoà nhập.
Anh có cảm giác như đang “mắc kẹt trên cõi đời này”. Những ám ảnh của quá khứ
chết chóc, đau thương không buông tha, luôn trở đi trở lại hành hạ anh. Đang đêm,
nghe tiếng quạt trần, Kiên lầm tưởng là tiếng rít của cánh quạt trực thăng đang
quần thảo. Xem tivi thấy cảnh lính Mỹ mặc áo giáp ra trận, oái oăm thay, lại khiến
Kiên rạo rực “như sẵn sàng nhập thân trở lại với cảnh lửa, cảnh máu, những cảnh
chém giết cuồng dại, méo xệch tâm hồn và nhân dạng” [tr. 188]. Sự “hoá thân” của
Kiên vào vai một nhà văn phường, tìm đến hành động viết là sự giải toả áp lực
ngoài sức chịu đựng của “hội chứng chiến tranh” và cứu vãn nhân tính. Tuy là một
nhà văn “cấp thấp” – cấp phường, lại “điên điên, khùng khùng”, tối ngày dầm
mình trong men rượu, xa lánh mọi ồn ào chụp giật đang diễn ra xung quanh...;
nhưng những trang viết với ngổn ngang mộng mị, chập chờn quên nhớ là một
nghĩa cử trả nợ quá khứ, tri ân đồng đội, bày tỏ sám hối và thức tỉnh nhân tâm.
Nhìn ra xung quanh, những người bạn chiến trường của Kiên cũng đều là những
con người bất hạnh, những số phận bi kịch, thậm chí họ còn rủi ro hơn Kiên nhiều
khi phải gánh thêm nỗi đau thể xác. Thương tật và những căn bệnh hiểm nghèo

luôn có nguy cơ quật ngã, đầy đoạ và cướp đi sự sống mong manh của những
mảnh đời tàn phế. Đó là Sinh, bị thương vào cột sống, liệt nửa người, quanh năm
suốt tháng gắn liền với giường bệnh, thân xác hoại tử bốc mùi hôi thối, trở thành

Tieu luan


gánh nặng cho vợ con, anh em. Là Vượng, một cựu binh thiết giáp hành nghề lái
xe nhưng cứ đến những đoạn đường “êm êm, mềm mềm, nhũn nhũn” là anh lại
nôn oẹ, hồi tưởng là cảnh “ở rãnh xích đầy những thịt với tóc, giòi lúc nhúc – thối
khẳm” [tr 176]. Là “cái mặt sốt rét cơn thâm xịt”, “mò đâu từ bên Lào về”...
Những con người đã không tiếc đời mình để làm nên ngày 30 - 4 - 1975 huy hoàng
cho dân tộc ấy “phần lớn chưa công ăn việc làm, chưa định hình cuộc sống mới, và
như người ta nói, là còn chưa lại hồn” [tr. 174]. Hẩm hiu hơn, có người còn phải đi
ăn xin. Mỗi lần tụ tập cùng nhau ở một quán cà phê của một người lính giải ngũ,
sau khi cùng nhau ôn lại những kỷ niệm vui buồn đời lính, đã thành thông lệ và
quan trọng hơn là để bày cho nhau “nơi có thể có việc làm, về cách lo lót bọn nha
lại để xin nhập tịch, xin trợ cấp thương tật, xin vào học lại ở trường đại học, xin trở
về xí nghiệp... Nhưng nói chung đây là nơi tụ tập giải sầu, gặp gỡ hàn huyên, nói
chung là những sự cố kết uỷ mị” [tr. 174]. Hoà bình đã lập lại nhưng người lính thì
vẫn còn ở tư thế “không thể nhấc chân ra khỏi miệng hố chiến tranh”, càng không
thể hoà nhập với đời sống bon chen, ô trọc thời hậu chiến. Lời giã biệt của Hiền –
một nữ thương binh cụt chân, người bạn tình cùng chuyến tàu của Kiên trở về từ
chiến trường trên sân ga Hàng Cỏ ngày ấy – đã chất chứa trong nó bao ngậm ngùi,
mặc cảm, tủi phận: “Đời hoà bình biết nông sâu thế nào mà lường, anh. Có phải là
còn chiến tranh, còn trong bộ đội mà bảo rằng sẽ được điều gì. Thôi, mai rày có
nhớ nhau thì cứ cậy vào run rủi...” [ tr. 85]. Trở về cuộc sống đời thường, Kiên và
đồng đội dường như “trắng tay”: không tình yêu, không tiền bạc, không có khả
thích nghi với môi trường xã hội... Họ chính là những kẻ “lạc thời”, những số phận
đau khổ nhất mà chiến tranh để lại.

2.Tình yêu trong chiến tranh thể hiện qua tác phẩm
Tình yêu là một đề tài vĩnh cửu của văn học nghệ thuật bao trùm lên đời sống,
đồng hành cùng quá trình sinh trưởng của nhân loại qua mọi thời kỳ, ở mọi phương

Tieu luan


trời thuộc hành tinh trái đất. Trong nền văn học Việt Nam, đây cũng là một nguồn
cảm hứng lớn, xuyên suốt quá trình vận động và phát triển từ văn học dân gian,
văn học trung đại đến hiện đại và đặc biệt thăng hoa ở những thời đoạn rực rỡ,
thành tựu. Là món quà ưu ái tạo hoá ban tặng cho đời sống con người, một đề tài
vừa vô cùng xưa cũ vừa mới mẻ, nhưng mỗi thời đại văn học, mỗi trường phái,
mỗi nhóm tác giả và tác giả sẽ có cách cảm nhận, khám phá và thể hiện riêng. Khi
nằm trong khuôn khổ của đề tài chiến tranh, tình yêu trong Nỗi buồn chiến tranh
của Bảo Ninh đã có sự thu hẹp về kích thước.Nó vẫn hiện diện như một hình tượng
tình yêu có sức cảm hoá và mang giá trị nhân văn sâu sắc. Giữa ranh giới của sự
sống và cái chết, trong hoàn cảnh vô cùng gian khổ và ác liệt của cuộc chiến tranh,
hơn lúc nào hết, người lính rất cần sự yêu thương, cần những điểm tựa tinh thần để
cân bằng lại cuộc sống chiến trường vốn khốc liệt, dữ dội. Tình yêu, vì vậy, đối với
họ là nguồn lực tiếp thêm sức mạnh để đối đầu với thử thách gian nan, là ánh sáng
lấp lánh trong tâm hồn để hướng về Tổ quốc, là niềm tin, hy vọng về một ngày mai
hoà bình, sum họp và hạnh phúc. Những câu chuyện tình yêu trong ba tác phẩm dù
đậm nhạt, dài ngắn khác nhau đều là sự phóng chiếu, thể hiện cảm xúc lứa đôi
mang tính đặc thù của những năm tháng trong và sau cuộc chiến tranh chống Mỹ.
Câu chuyện tình yêu dài giữa Kiên và Phương đi qua suốt những năm tháng chiến
tranh và hậu chiến u buồn của hai chặng đời người lính. Thời kỳ đầu, Kiên và
Phương xuất hiện trong tác phẩm như một “cặp đôi hoàn hảo” về cả ngoại hình lẫn
sự ngây thơ, trong sáng, đắm say trong tâm hồn, đặc biệt là nhan sắc “hút hồn” của
Phương – cô nữ sinh có “vẻ đẹp trời ban, vẻ đẹp rực cháy sân trường Bưởi”. Kỷ
niệm mối tình học trò diễn ra nơi sân trường, lớp học, trong cảnh hoàng hôn với

vầng mặt trời đỏ rực ở Tây Hồ... Nhưng như “một thiên mệnh mù mịt xa khơi, tối
tăm và đau xót”, một dự cảm nghiệt ngã, đau thương, ngay từ những ngày đầu bình
yên, say sưa tận hưởng những giây phút bình yên trong sáng bên nhau trước lúc

Tieu luan


Kiên bước vào cuộc chiến, Phương đã nói: “Em nhìn thấy tương lai – đấy là sự đổ
nát, sự thiêu hủy” [tr. 150]. Phương đã bày tỏ ý nghĩ của mình nhằm níu kéo người
yêu ở lại nhưng Kiên đã khước từ. Cũng như bao thanh niên cùng thế hệ, Anh đã
hăng hái lên đường nhập ngũ và lại còn ấp ủ một giấc mộng “tiểu tư sản” là sẽ trở
thành người hùng chiến trận. Để kéo dài thời gian được bên nhau và không muốn
chia tay người yêu quá đột ngột, bất chấp bom rơi đạn nổ, Phương đã theo Kiên
trên chuyến tàu ra mặt trận. Và ngay từ “chuyến tàu định mệnh ấy”, dự cảm của cô
về chiến tranh và thân phận của một mối tình bất an, đau khổ đã ập đến. Chuyến
tàu là một không gian chuyển động trong sự bao phủ của bóng đêm tăm tối, mịt
mùng. Những hình ảnh “phố xá tối câm”, “sân ga tối om”, con đường với “bóng tối
đặc sệt bụi”, ca-bin “không đèn tối om”, “bóng đêm cuồn cuộn”, “đường đêm tăm
tối”, một toa tàu mang hàng vào Vinh “tối đen, nghẹt thở” giữa “đêm tối chiến
tranh mênh mông”...; là sự dự báo cho hành trình đầy bão táp, rủi ro của số phận.
Trên một khoang đen hoảng loạn, bất trị, Phương đã bị một đám đông xô đẩy, chen
lấn, đã bị xâm hại, bị cướp mất sự trong trắng mà cô vẫn dành để trao cho Kiên.
Đó là cú xốc chiến tranh kinh hoàng nhất đối với Phương, giết chết hoàn toàn cảm
xúc thánh thiện về tình yêu, đẩy cuộc đời cô về phía bất hạnh, vĩnh viễn mất đi
những rung động từ con tim, để rồi sau ngày gặp lại, Phương luôn cảm thấy tiếc
xót, ê chề, cay đắng... Đối với Kiên, tuy không phải nạn nhân trực tiếp như Phương
nhưng chuyến tàu định mệnh trong đêm đen ấy là một ký ức đau buồn, tuyệt vọng,
một mất mát không gì bù đắp nổi ám ảnh suốt quãng đời còn lại của anh, để rồi
mỗi lần nhớ lại lời Phương: Chúng mình có lẽ “đến chết vẫn còn trong trắng”, vậy
mà, chúng mình đã “yêu nhau đến nhường nào”..., lòng anh quặn thắt, dấy lên bao

thương cảm, tủi nhục, bất lực...
Và chuyến tàu của chiến tranh ấy đã vĩnh viễn hủy hoại mối tình trong trắng, ngây
thơ của hai người. Những gì đã diễn ra trên “con tàu định mệnh”, đặc biệt hình ảnh

Tieu luan


Phương nhàu nát, tả tơi, sau khi bị làm nhục ngay trước thềm mặt trận tiền phương
báo hiệu tính chất tàn khốc, dữ dội, phi đạo đức của chiến tranh, đánh dấu cuộc
chia ly mãi mãi của một mối tình ngây thơ, trong trẻo, đẹp như những trang sách
học trò nhưng phải nếm đủ vị đắng cay, chua chát và xót đau.
Bỏ lại Phương một mình sau cái đêm khủng khiếp ấy, Kiên dấn thân vào cuộc
chiến khốc liệt đầy rẫy cảnh xương rơi máu đổ. Phương một mình ngược tàu trở lại
Hà Nội mang theo cùng lúc hai vết thương vô phương cứu chữa cả trên thân thể lẫn
trong tâm hồn. Từ một cô gái thanh tân, kiều diễm, Phương trở thành người đàn bà
phóng túng, thác loạn, bất cần đời. Cái quí giá nhất của đời con gái đã bị tước đoạt,
dày xéo, Phương lao vào hoan lạc để phung phí và tự hủy diệt đời mình. Còn đâu
hình ảnh “trẻ trung, xinh đẹp, không một nét sầu thương” của cô thiếu nữ Hà thành
trong dáng dấp “bóng hình tiên nữ kỳ ảo” kiêu sa trong tâm tưởng Kiên suốt những
đêm dài của cuộc chiến thê lương, tàn độc; nâng đỡ, chở che và níu kéo anh khỏi
vực thẳm phi nhân, đưa anh trở lại cõi người. Tình yêu của Phương đã chết kể từ
giây phút thảm hoạ trên chuyến tàu cô đưa tiễn người yêu vào chiến trường, dẫu
sau này Kiên may mắn được sống sót trở về thì mối tình say đắm ngày xưa đã trở
thành vết thương lòng nhức nhối. Những tưởng sau bao thương nhớ, chờ mong,
khao khát suốt thời chinh chiến, loạn lạc sẽ được đền bù hàn gắn, vun đắp vào
ngày hòa bình. Trái lại sự tái hợp của hai người đã làm “đổ bể tâm hồn nhau”, xoáy
vào thương tổn, càng gợi lại cái thời khắc nhân phẩm bị xúc phạm trắng trợn, thô
bỉ... Đành rằng Kiên và Phương cả trong và sau chiến tranh vẫn luôn thương nhớ
nhau, nhưng vốn là những tâm hồn trí thức yếu đuối, nhạy cảm, dễ tổn thương, họ
không thể vượt qua cái quá khứ đau xót, bẽ bàng để đến với nhau. Phương đã nói

với Kiên những suy nghĩ khiến mối tình của họ mãi mãi khổ đau và dang dở:
“Đằng nào thì anh cũng thành ra thế, mà em thì thành ra thế này mất rồi” [268]. Bi
kịch tình yêu ở Kiên càng nặng nề, đau đớn hơn. Sau mười năm bị lửa đạn của

Tieu luan


chiến trường vằm xé, quãng thời gian trở lại với đời thường của Kiên lại bị “móng
vuốt của tình yêu xéo nát”. Sự ám ảnh của ký ức về cái đêm định mệnh khiến anh
vĩnh viễn mất Phương luôn hành hạ, dày vò Kiên: “Nỗi đau ngày xưa làm sao mà
nhớ nổi. Cái vết thương lòng kinh tởm ấy lúc nào cũng đè bẹp ý chí của anh. Đè
bẹp mãi mãi” [tr. 184]. Đó là một trong những nguyên nhân tạo nên chấn thương
tinh thần khiến Kiên không thể tái hoà hợp với cuộc sống thường nhật, tìm lại được
những cảm xúc lứa đôi và khát khao ân ái. Phương lại còn đáng thương hơn.
Những gì thuộc về phẩm giá được cô giữ gìn nâng niu đã bị dày xéo phũ phàng.
Không còn trinh trắng, chứng kiến sự bất lực của Kiên khi không bảo vệ được
mình trước đám đàn ông thú tính, sự vô tâm, lạnh nhạt khi Kiên bỏ lại cô trên sân
ga, bơ vơ, đơn độc, tê dại, hãi hùng... Phương đã tự hủy hoại cuộc đời mình, ban
phát một cách dễ dàng những lạc thú thân xác với rất nhiều đàn ông, trừ Kiên. Sự
cự tuyệt đó cho thấy Phương là một người phụ nữ sâu sắc, đầy lòng tự trọng, đầy ý
thức nhân phẩm và cao thượng. Sự lựa chọn và “văn hoá tình yêu” của Phương gợi
nhớ về cách ứng xử của Thúy Kiều thuở xưa trước Kim Trọng: “Chữ trinh còn một
chút này...” Phương đã ra đi trong âm thầm, đau khổ, nhưng theo cô, đó là sự lựa
chọn không thể khác để gìn giữ một mối tình trong sáng, cao đẹp, thủy chung. Đối
với cô, đó còn là tình yêu đầu đời, duy nhất, như ngọn gió “mãi mãi thổi trên đời”,
không sức mạnh nào có thể xua tan, thay thế dẫu bị chà đạp, giày xéo, xúc phạm
nặng nề... Đó là phần có ý nghĩa nhất trong hành trình vui ít, buồn nhiều của mỗi
con người trước vòng xoáy nghiệt ngã của số phận, là hiện thân của cái đẹp và tuổi
trẻ đã tồn tại trong tác phẩm như một đối thoại với sức tàn phá, huỷ diệt của chiến
tranh.

Mối tình của Kiên và Phương trong Nỗi buồn chiến tranh chính là biểu tượng cho
nỗi buồn thê lương của “thân phận tình yêu”. Thông qua những tình tiết của câu
chuyện giữa hai người và những hồi ức vụn vỡ, dai dẳng của Kiên, có thể gọi Nỗi

Tieu luan


buồn chiến tranh là khúc sầu ca về nỗi buồn tình yêu – một góc nhìn chan chứa
cảm xúc về thân phận con người trong và sau chiến tranh. Hai nỗi buồn lớn về tình
yêu và chiến tranh đã được Bảo Ninh kết nối, dẫn dắt dưới một cái nhìn “dằng dặc”
xót xa và trong sự đau thương tột cùng. Nhưng vượt lên trên tất cả, đó vẫn là một
diễn ngôn ngợi ca sự hiện diện vĩnh hằng của tình yêu, bởi “Tình yêu gắn liền với
cái đẹp, với nhân tính, là cái đối lập với bạo lực huỷ diệt nhân tính” [tr 166]. Từ
những thân phận của bi kịch tình yêu qua số phận con người trong và sau chiến
tranh, Bảo Ninh đã khắc hoạ được một chân dung tình yêu với nhiều đồng cảm, sẻ
chia và giàu lòng nhân ái.
Không chỉ ở những nhân vật chính, một số nhân vật chỉ thoáng hiện trong tác
phẩm cũng được Bảo Ninh mô tả với nhiều khao khát lứa đôi cùng những hành vi
tình dục. Đó là “mối tình” của ba cô gái liên lạc Mây, Thơm, Hơbia với các chàng
trai ở đội trinh sát. Đó chưa hẳn đã là tình yêu nhưng việc đêm đêm họ thầm lén,
vụng trộm tìm đến với nhau để được gửi trao thân xác, được nếm trải những giây
phút tột cùng ái ân ở nơi sự sống và cái chết chỉ là gang tấc cho thấy cái nhìn trân
trọng trước những nhu cầu đời sống tự nhiên của con người, nhất là những người
trẻ tuổi. Là cuộc tình ngắn ngủi nhưng cảm động chỉ diễn ra trong khoảng thời gian
vài ngày và trên không gian của một khoang tàu giữa Kiên và Hiền, cô thương binh
trở về từ mặt trận khu 9 trên chiếc tàu hoà bình cùng Kiên. Là mối tình yêu thầm
kín, trọn vẹn của Lan, người em gái hậu phương trải dài suốt những năm tháng
chiến tranh cho đến ngày đất nước thống nhất dành cho anh bộ đội Kiên với một
kết cục buồn... Song bao trùm và ám ảnh nhất vẫn là mối tình giữa Kiên và Phương
– một mối tình ngây thơ, trong trắng, mãnh liệt, thủy chung... nhưng lại bị tổn

thương nặng nề, bị chà nát, chia ly và tan vỡ bởi chiến tranh.
\

Tieu luan


C. KẾT LUẬN
(1)Viết về chiến tranh chống Mỹ, Bảo Ninh có những biểu hiện mới trong cách
nhìn nhận về đề tài. Nếu như trước đây trong văn học cách mạng 1945 - 1975,
truyện ngắn của chúng ta thường viết về chiến tranh với những nét hào hùng, oanh
liệt, tránh nói về cái chết, nỗi đau, bi kịch thì bây giờ cùng với các cây bút nổi danh
khác, Bảo Ninh đã đem đến cho người đọc một hiện thực chiến tranh với nỗi buồn
dằng dặc, bàng bạc, đau xót trong các truyện ngắn. Nỗi buồn chiến tranh, nỗi buồn
hậu chiến đã tác động vào số phận, nhân cách của mỗi người lính. Chiến tranh là
một nhân tố tác động rất lớn đến con người. Tác phẩm của Bảo Ninh là một tác
phẩm tiêu biểu viết về chiến tranh. Người lính trong thời hậu chiến đều khắc khoải,
đau đớn về quá khứ chiến tranh. Chiến tranh được miêu tả như đang diễn ra thể
hiện một điểm nhìn rất trung thực của người lính hậu chiến. Không còn cảm hứng
chủ đạo miêu tả chiến tranh hoành tráng, sử thi, không còn cảnh miêu tả chiến
tranh rất đỗi oai hùng của văn học 1945-1975.
Chiến tranh được miêu tả như đang diễn ra trong truyện ngắn Bảo Ninh thể hiện
trước hết ở trong tâm tưởng, tâm hồn nhân vật. Cuộc chiến tranh ấy diễn ra trong
cảm nhận người lính rõ mồn một. Qua việc miêu tả chiến tranh như đang diễn ra số
phận người lính trong và sau chiến tranh trong từng truyện ngắn Bảo Ninh hiện lên
khá rõ nét. Hình ảnh chiến tranh đã thực sự diễn ra, từ tâm tưởng tâm hồn người
lính cuộc chiến tranh chống Mỹ cách đây hơn hai mươi năm đã diễn ra hết sức
chân thực. Tác giả viết : “Một cái gì đó kinh khủng, một cái gì đó choáng hồn, như
một nhát chém sả, đột ngột xé toạc sự tĩnh lặng ra làm đôi. Chiếc phản lực trinh
sát, chỉ một chiếc thôi, bất thần cắt ngọt một đường bay sấm sét, khoan thủng thinh
không, là sát sàn sạt mái ngói những ngôi nhà, tuốt dọc sốn…”


Tieu luan


(2) Chiến tranh với bao mất mát, gian lao nhưng tình yêu của mỗi người lính vẫn
sinh sôi, nảy nở. Bằng việc thể hiện ngôn ngữ giàu tính triết lí và xây dựng một số
kiểu cốt truyện khác nhau, chiến tranh và tình yêu đã được tác giả khắc họa đậm
nét. Vấn đề tình yêu luôn là mối quan tâm của văn học. Nghiên cứu truyện ngắn và
tiểu thuyết về đề tài chiến tranh của tác giả Bảo Ninh, chúng tôi thấy tình yêu được
tác giả miêu tả nảy sinh trong chiến tranh nên cũng có thân phận của nó. Cuộc
sống hôm nay buộc người ta phải nhớ về quá khứ, cuộc sống hòa bình mà chẳng hề
yên tĩnh khiến người ta phải trở lại tìm những giá trị của quá khứ. Truyện ngắn
Bảo Ninh miêu tả chiến tranh thì quá khứ từ những dấu tích, phế tích, từ sự hồi cố
của người lính thời hậu chiến về chiến tranh. Chiến tranh cũng như đang diễn ra
trong tâm hồn, tâm tưởng của người lính.
(3) Người lính đâu phải lúc nào cũng sáng ngời lí tưởng, cũng mạnh mẽ nơi chiến
trường. Họ cũng có những lúc nhớ nhà, những lúc sợ hãi cùng cực khi đứng trước
họng súng của kẻ thù, cũng có những lúc bệ rạc, tìm qn và tìm đến cõi mộng qua
những chất gây ảo giác trong những bơng hồng ma. Qua ưu tư, qua dịng chảy
cuộn tào của cảm xúc nhân vật Kiên, tôi thấy mồn một những móng vuốt ghê rợn
của chiến tranh bạo tàn “Chiến tranh là cõi không nhà, không cửa, lang thang, khốn
khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới thảm sầu
vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người”. Đây là một quyển
tiểu thuyết viết về chiến tranh có sức ám ảnh lớn lao. Nó như làn khơng khí cô đặc
bao quanh lấy thế giới tâm tưởng của người đọc từng giây, từng phút. “ Nỗi buồn
chiến tranh” còn là sự hòa quyện giàu chất thơ của văn học lãng mạn và sự sâu sắc
của văn học hiện thực.Chiến tranh được miêu tả như đang diễn ra trong truyện
ngắn Bảo Ninh thể hiện trước hết ở trong tâm tưởng, tâm hồn nhân vật. Cuộc chiến
tranh ấy diễn ra trong cảm nhận người lính rõ cua việc miêu tả chiến tranh như


Tieu luan


đang diễn ra số phận người lính trong và sau chiến tranh trong từng truyện ngắn
Bảo Ninh hiện lên khá rõ nét.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bảo Ninh (2009), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Văn học, Hà Nội.

Tieu luan


×