Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

(TIỂU LUẬN) TIỂU LUẬN CUỐI kỳ môn tôn GIÁO học đại CƯƠNG nguồn gốc của sự ra đời tôn giáo theo quan niệm của tôn giáo học macxit và từ đó, giải thích sự tồn tại và phát triển của tôn giáo ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.36 KB, 21 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
MÔN: TÔN GIÁO HỌC ĐẠI CƯƠNG

Giảng viên: TS Nguyễn Hữu Thụ
Họ và tên sinh viên: Nguyễn Thanh Hòa
MSSV: 1803 2038

Hà Nội, tháng 8-2020

Tieu luan


MỤC LỤ
1. Nguồn gốc của sự ra đời tôn giáo theo quan niệm của Tơn giáo học Macxit
và từ đó, giải thích sự tồn tại và phát triển của tơn giáo ở Việt Nam hiện nay...1
1.1. Nguồn gốc xã hội............................................................................................1
1.2. Nguồn gốc nhận thức......................................................................................4
1.3. Nguồn gốc tâm lý............................................................................................5
2. Giáo lý cơ bản của Phật giáo (qua nội dung Tứ diệu đế) và sự ảnh hưởng
của giáo lý Phật giáo đến con người Việt Nam hiện nay.......................................6
2.1. Giáo lý cơ bản của Phật giáo (qua nội dung Tứ diệu đế).................................6
2.2. Sự ảnh hưởng của giáo lý Phật giáo đến con người Việt Nam hiện nay........12
2.2.1. Ảnh hưởng của giáo lý Phật giáo về tư tưởng và đạo lý.........................12
2.2.2. Ảnh hưởng của giáo lý Phật giáo qua phong tục tập quán......................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................19

Tieu luan



1. Nguồn gốc của sự ra đời tôn giáo theo quan niệm của Tơn giáo học
Macxit và từ đó, giải thích sự tồn tại và phát triển của tơn giáo ở Việt
Nam hiện nay
1.1. Nguồn gốc xã hội
Mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
Lịch sử xã hội loài người là lịch sử phát triển kế tiếp nhau của các hình thái
kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thủy ra đời trên cơ sở
nền sản xuất thấp kém. Nền kinh tế tự nhiên lấy săn bắt, hái lượm là chính, Cuộc
sống con người lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Mối quan hệ của con người với giới
tự nhiên được thực hiện thông qua những phương tiện và công cụ lao động mà con
người có. Những cơng cụ và phương tiện lao động càng kém phát triển bao nhiêu
thì con người càng yếu đuối trước tự nhiên bấy nhiêu, và những lực lượng tự nhiên
thống trị con người càng mạnh bấy nhiêu. Sự bất lực của con người nguyên thủy
trong cuộc đấu tranh với giới tự nhiên là do sự hạn chế, sự yếu kém của các phương
tiện tác động thực tế của họ vào thế giới xung quanh. Khi không đủ phương tiện
công cụ để đảm bảo kết quả mong muốn trong lao động, người nguyên thủy tìm đến
phương tiện tưởng tượng, hư ảo, nghĩa là tìm đến tơn giáo.
F. Engels đã nhấn mạnh rằng tôn giáo trong xã hội nguyên thuỷ xuất hiện do
kết quả phát triển thấp của lực lượng sản xuất. Nhưng tài liệu dân tộc học đã chứng
minh quan điểm của F. Engels: những nghi lễ có tính chất ma thuật có mối liên hệ
chặt chẽ với tính chất của hoạt động lao động của người nguyên thủy. Ma thuật luôn
đi kèm với những dạng hoạt động lao động ở những nơi mà người ngun thủy
khơng có hy vọng vào kết quả hoạt động lao động của mình, cũng như ở những nơi
mà các hiện tượng ngẫu nhiên đóng vai trị lớn.
Mối quan hệ giữa con người với con người
Trong mối quan hệ này, có hai yếu tố quyết định là: tính tự phát của sự phát
triển xã hội, và ách áp bức giai cấp cùng chế độ người bóc lột người.
Những quy luật phát triển của xã hội bao gồm những lực lượng mù quáng,
trói buộc con người và có ảnh hưởng mang tính chất quyết định đến cuộc đời, số

1

Tieu luan


phận của họ. Những lực lượng đó, trong ý thức của con người, được thần thánh hóa
và mang hình thức của những lực lượng siêu nhiên. F. Engels cho rằng “Chẳng bao
lâu, bên cạnh những lực lượng thiên nhiên lại cịn có cả những lực lượng xã hội tác
động - những lực lượng này đối lập với con người. một cách cũng xa lạ lúc đầu
cũng không thể hiểu được đối với họ, và cũng thống trị họ với các vẻ tất yếu bề
ngoài giống như bản thân những lực lượng tự nhiên vậy. Những nhân vật ảo tưởng,
lúc đầu chỉ phản ánh những sức mạnh huyền bí của các lực lượng tự nhiên, thì nay
lại vì thế có cả những thuộc tính xã hội và trở thành những đại biểu cho các lực
lượng lịch sử”.
Bên cạnh đó, sự áp bức giai cấp, chế độ bóc lột là một nhân tố quan trọng
làm nảy sinh tôn giáo. Thời cổ đại, đã có rất nhiều các cuộc đấu tranh của người nơ
lệ xảy ra, có thể kể đến Cuộc đấu tranh nô lệ do Spartacus lãnh đạo với 12 vạn quân
nhưng cuộc đấu tranh này sau đó đã bị chính quyền đàn áp đẫm máu. Bế tắc trong
cuộc sống hiện thực, con người tìm sự giải thốt cho đời sống tinh thần, họ đã tìm
thấy lối thốt đó ở thế giới bên kia. V.I.Lenin cho rằng “Sự bất lực của giai cấp bị
bóc lột trong q trình đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lịng tin vào một
cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia, cũng giống y như sự bất lực của người dã
man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ,
vào những phép màu,...”
Từ nguồn gốc xã hội này, ở Việt Nam đã ra đời và phát triển một tín ngưỡng
mang đậm bản sắc dân tộc Việt, đó là tín ngưỡng thờ Mẫu. Tín ngưỡng thờ Mẫu là
sự phản ánh đời sống xã hội của con người Việt Nam. Đời sống xã hội là yếu tố
mang tính khách quan, có vai trị quyết định ảnh hưởng tới q trình hình thành và
tồn tại của tín ngưỡng thờ Mẫu.
Việt Nam là một quốc gia có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, lắm nắng,

nhiều mưa. Điều đó góp phần tạo nên sắc thái riêng biệt của nơi cư trú, các thiết chế
xã hội, thói quen, tâm lý và các hình thái tín ngưỡng, tơn giáo.
Cơ sở kinh tế xã hội của Việt Nam trước đây dựa trên nền sản xuất nơng
nghiệp là chính. Trong sản xuất nông nghiệp, con người bị lệ thuộc khá nhiều vào
thiên nhiên. Để có thể sản xuất, con người phải “Trơng trời, trông đất, trông mây/
Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm”. Nhiều khi không hiểu được những
2

Tieu luan


thuận lợi và khó khăn do tự nhiên mang lại, con người thần thánh hóa các hiện
tượng tự nhiên và gán cho chúng một sức mạnh siêu nhiên. Điều đó làm xuất hiện
tín ngưỡng thờ các thần, trong đó có các nữ thần như: Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Mẫu
Thoải, Mẫu Thượng Ngàn, tín ngưỡng thờ tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi,
Pháp Điện,… Điều này thể hiện mối quan hệ của con người với tự nhiên trong
nguồn gốc xã hội.
Bên cạnh đó, trong cuộc sống cư dân nơng nghiệp trồng lúa nước, vai trò của
phụ nữ được đề cao. Người phụ nữ tham gia hầu hết các công việc đồng áng, trong
gia đình lại là người “tay hịm chìa khóa” lo việc nội trợ. Trong dân gian có những
câu “nhất vợ nhì trời”, “lệnh ơng khơng bằng cồng bà” hay “ruộng sâu trâu nái
khơng bằng con gái đầu lịng”,.. ý muốn tơn vinh vai trị của người phụ nữ. Người
phụ nữ cịn có vai trị quan trọng trong việc ni dạy con cái cho nên mới có câu
“phúc đứuc tại mẫu”, “con dại cái mang”,… Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và
giữ nước của dân tộc, có nhiều phụ nữ có tài, có đức, khi sống thì khơn, khi chết thù
thiêng, được dân ngàn đời tôn thờ như: Hai Bà Trưng, Thái hậu Dương Vân Nga,
Nguyên Phi Ỷ Lan, bà Chúa kho,…
Ngồi ra, tín ngưỡng thờ Mẫu được hoàn thiện dưới ảnh hưởng trực tiếp của
hoàn cảnh kinh tế - xã hội và văn hóa Việt Nam thế kỳ XVI-XVII. Vào thời kỳ này,
xã hội phong kiến Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về mọi mặt.

Các cuộc chiến tranh xung đột tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến
Trịnh – Mạc, Trịnh – Nguyễn và thiên tai, mất mùa liên tiếp xảy ra đã làm cho nền
kinh tế suy thoái. Đời sống các tầng lớp nhân dân trong xã hội vô cùng cơ cực. Đạo
đức phong kiến khơng cịn được như trước, nhân nghĩa của Nho giáo bị coi thường.
Ý thức hệ Nho giáo tỏ ra bất lực trước thời cuộc. Các nhà Nho giáo có tâm có tài
như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Nguyễn Hằng cũng tỏ ra mệt mỏi, buông
xuôi, chủ trương xa lánh thời cuộc. Nhân dân lao động có xu hướng tìm lối thốt
trong tín ngưỡng dân gian và tôn giáo. Song Phật cũng không giúp họ lên cõi Niết
bàn, thần tiên cũng không cứu họ khỏi nỗi khổ trần gian. Trong số các tầng lớp
người trong xã hội phong kiến thời kỳ này thì người phụ nữ bị chà đạp, vùi dập
nhiều nhất. Tâm lý chán chường, bi quan và bế tắc của họ được phản ánh qua các

3

Tieu luan


nhân vật trong văn học như Thúy Vân, Thúy Kiều, Thị Kính, Cúc Hoa, Ngọc Hoa,

Tín ngưỡng thờ Mẫu tứ phủ ra đời, một mặt là biểu hiện sự phản kháng của
các tầng lớp nhân dân nói chung và người phụ nữ nói riêng trong xã hội phong kiến
thối nát, bất công; mặt khác, cũng là sự kế thừa và phát triển truyền thống trọng nữ
của người Việt. Sự ra đời của tín ngưỡng thờ Mẫu cịn là tấm gương phản chiếu sự
suy tàn của xã hội phong kiến và ý thức hệ phong kiến – nguyên nhân làm cho con
người nói chung và phụ nữ nói riêng phải sống cuộc đời đau khổ, phản ánh khát
vọng tự do, hướng thiện, về cuộc sống bình đẳng, hạnh phúc của con người. Hình
ảnh người phụ nữ Việt Nam trước đó được biểu hiện tập trung ở hình tượng Mẫu
Liễu Hạnh. Hình tượng Mẫu Liễu Hạnh hội tụ đầy đủ các đức tính tốt đẹp của người
phụ nữ: yêu chồng, thương con, đảm việc nhà, giỏi việc nước, kính trọng cha mẹ….
Tất cả những điều này đã thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người trong

nguồn gốc xã hội của tơn giáo.
1.2. Nguồn gốc nhận thức
Để giải thích nguồn gốc nhận thức, cần làm rõ lịch sử của nhận thức và đặc
điểm của quá trình nhận thức.
Nhận thức con người trải qua các giai đoạn từ thấp đến cao, thấp nhất là giai
đoạn nhận thức trực quan cảm tính. Ở giai đoạn này, con người chưa thể sáng tạo ra
tơn giáo, bởi vì, tơn giáo với tư cách là ý thức, là niềm tin, bao giờ nó cũng gắn với
cái siêu nhiên thần thánh, mà nhận thức trực quan cảm tính thì chưa thể tạo ra cái
siêu nhiên thần thánh được. Như vậy, tơn giáo chỉ có thể ra đời khi đạt đến trình độ
nhận thức nhất định, đồng thời nó phải gắn với sự tự ý thức của con người về bản
thân mình trong quan hệ với thế giới bên ngồi. Người Homosapiens là lồi người
có ý thức đầu tiên, sống vào khoảng 10 vạn năm trước. Khi khai quật mộ táng của
người Homosapiens, các nhà khoa học thấy rằng người chết được chôn ở tư thế như
thai nhi trong bụng mẹ, nằm nghiêng, tay chân khép vào thân, đầu được dấu dưới
một hòn đá, xác chết được bơi một lớp thổ hồng, xung quanh có các dụng cụ sinh
hoạt và đồ trang sức. Điều đó chứng tỏ rằng cơ quan tư duy là não bộ của người
Homosapiens khá phát triển. Ở họ đã hình thành ý niệm về cuộc sống sau khi chết,
về linh hồn, về sự tái sinh, là những yếu tố quan trọng trong ý thức tôn giáo. Ý thức
4

Tieu luan


về linh hồn chứng tỏ khả năng trừu tượng hóa của họ đã đạt được trình độ nhất
định. Ý thức đó, thực chất là sự phản ánh hư ảo những sức mạnh trần thế biến thành
những sức mạnh siêu trần thế. Đúng như F. Engels đã chỉ rõ “Tôn giáo sinh ra trong
một thời đại hết sức nguyên thủy, từ những khái niệm hết sức sai lầm, nguyên thủy
của con người về bản chất của chính họ và về thế giới tự nhiên bên ngoài, xung
quanh họ”.
Nguồn gốc nhận thức của tơn giáo cịn gắn liền với đặc điểm của quá trình

nhận thức. Quá trình nhận thức là sự thống nhất biện chứng giữa nội dung khách
quan và hình thức chủ quan. Mỗi một nhận thức mới của sự phản ánh hiện thực (từ
cảm giác đến tri giác, đến biểu tượng, rồi đến khái niệm, phán đốn suy lý) khơng
những tạo ra khả năng mới để nhận thức thế giới sâu sắc hơn mà còn tạo ra khả
năng “xa rời” hiện thực, phản ánh sai lầm nó. Thực chất, nguồn gốc nhận thức của
tôn giáo cũng như của mọi ý thức sai lầm, chính là sự tuyệt đối hóa, sự cường điệu
một mặt của chủ thể nhận thức (hay hình thức chủ quan), biến nó thành cái khơng
cịn nội dung khách quan, khơng cịn cơ sở “thế gian”, nghĩa là thành cái siêu nhiên
thần thánh. Sự nhận thức diễn ra theo chiều hướng phiến diện, đơn giản, xơ cứng,...
dẫn đến phản ánh sai lệch thế giới hiện thức chính là cơ sở hình thành các biểu
tượng thần thánh. Ý thức tơn giáo chính là sự phản ánh gián tiếp, “xa rời” hiện thực
nhất.
Tiếp tục với tín ngưỡng thờ Mẫu. Thờ Mẫu bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ Nữ
thần có từ thời kỳ xã hội cộng sản nguyên thủy. Thời kỳ này thì con người đã quan
giai đoạn nhận thức trực quan cảm tính và bắt đầu có nhận thức cao hơn. Lúc đầu,
tục thờ Mẫu là tín ngưỡng thờ đa nữ thần, ngày nay người ta còn thấy dấu vết của
hiện tượng này như việc thờ Mẹ Cây, Mẹ Nước, Mẹ Cá, Mẹ Đất,… Dần dần, với
trình độ nhận thức phát triển cao hơn, người Việt đã “quy tụ” các nữ thần về một số
thần cơ bản và gọi và các thần Mẫu như: Mẫu Cửu Thiên Huyền Nữ, Mẫu Thượng
Ngàn, Mẫu Thoải, ba vị Mẫu này đại diện cho ba khu vực không gian địa lý khác
nhau. Đến nửa cuối thế kỷ XVI, người Việt còn sáng tạo ra một vị Mẫu mới – Mẫu
Liễu Hạnh để bổ sung vào Tam phủ, góp phần “hồn thiện” đạo Mẫu.
1.3. Nguồn gốc tâm lý

5

Tieu luan


Một trong những nhu cầu thiết yếu của con người là giải tỏa, gửi gắm những

bức xúc trong đời sống tinh thần. F. Engels cho rằng “Tơn giáo vẫn có thể tồn tại
được với tư cách là một hình thức trực tiếp, nghĩa là một hình thức cảm xúc trong
quan hệ con người đối với các lực lượng xa lạ, tự nhiên và xã hội đang thống trị
họ”. “Hình thức cảm xúc” ở đây là hình thức thể hiện của ý thức tôn giáo, của niềm
tin vào lực lượng siêu nhiên.
Những trạng thái tâm lý tiêu cực như cô đơn, đau khổ sợ hãi, nỗi kinh
hoàng,.... dễ dẫn con người ta đến với tơn giáo. Con người tìm đến tơn giáo để
mong được sự an ủi, che chở, cứu giúp. Tôn giáo như “thuốc phiện”, làm giảm nỗi
khổ đau của con người trong thế giới thực tại. Mặc dù chỉ là “hạnh phúc hư ảo”,
“mặt trời tưởng tượng” xoay xung quanh con người, nhưng tơn giáo lại có sức hấp
dẫn kỳ lạ. Tôn giáo nhiều khi là phương tiện khá hữu hiệu, giúp con người cân bằng
sự hẫng hụt tâm lý, giải thốt nỗi bất hạnh, cơ đơn của con người trong cuộc sống.
Thế kỷ XVI-XVII, xã hội phong kiến Việt Nam biến động, đời sống nhân
dân đói khổ, khó khăn. Tín ngưỡng thờ Mẫu xuất hiện một vị Mẫu mới – Mẫu Liễu
Hạnh. Khác với ba vị Mẫu còn lại, Mẫu Liễu Hạnh là đại diện cho dân chúng đang
lầm than nói chung và người phụ nữ nói riêng. Điều đó thể hiện khát vọng cuộc
sống tự do, hạnh phúc của con người. Mẫu Liễu Hạnh tượng trưng cho hy vọng, là
niềm tin, sự ngưỡng mộ chân thành và sự tồn tại và khả năng cứu giúp của Mẫu đối
với con người.
Những trạng thái tâm lý tích cực như sự hân hoan, vui sướng, mãn
nguyện,.... một cách thái quá, đơi khi cũng có thể là một trong những ngun nhân
dẫn con người đến tôn giáo. Con người muốn được san sẻ trong tơn giáo những tình
cảm vui sướng của mình, muốn được đắm mình trong khơng gian tơn giáo để được
sống trong trạng thái ảo giác, được hướng về cái thiêng liêng, cao cả và đôi khi,
được lãng quên hiện tại.
Quay trở lại với tín ngưỡng thờ Mẫu. Người Việt Nam sống chủ yếu bằng
sản xuất nông nghiệp. Khi mùa màng được bội thu, người ta tin tưởng đó là do sự
giúp đỡ của các Mẫu. Các Mẫu đại diện cho khát vọng sâu sắc về một cuộc sống ấm
no, đầy đủ, về sự thoát khỏi nỗi lo lắng về cơm áo gạo tiền, về miếng ăn,..


6

Tieu luan


Ngồi ra, các yếu tố như thói quen, truyền thống, phong tục, tập quán cũng là
những nguyên nhân tâm lý dẫn đến sự hình thành và phát triển tình cảm và niềm tin
tôn giáo.
2. Giáo lý cơ bản của Phật giáo (qua nội dung Tứ diệu đế) và sự ảnh hưởng
của giáo lý Phật giáo đến con người Việt Nam hiện nay
2.1. Giáo lý cơ bản của Phật giáo (qua nội dung Tứ diệu đế)
Phật giáo vừa là một tôn giáo vừa là một trào lưu triết học, trong đó triết học
Phật giáo là cơ sở cho những giáo lý cơ bản của tôn giáo Phật giáo.
Triết học Phật giáo là một hệ thống phức tạp, nó đề cập đến nhiều vấn đề của
giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong triết học Phật giáo chứa đựng những quan
niệm duy vật và quan niệm duy tâm, đặc biệt nó đã xây dựng được phương pháp
biện chứng hết sức sâu sắc. Theo đánh giá của F. Engels: Tư duy biện chứng duy
vật có sớm nhất ở các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại và ở các tín đồ Phật giáo
sơ kỳ. Song cũng cần lưu ý rằng, xét đến cùng (hay đưa về giải thích những vấn đề
cơ bản của triết học ở mặt thứ nhất) thì triết học Phật giáo là triết học duy tâm tôn
giáo.
Nếu coi Phật giáo là một tơn giáo giải thốt và việc giải thốt gắn với vai trị
của con người, thì giáo lý cơ bản của Phật giáo là “Tứ diệu đế” và “Niết bàn”. Vì
“Tứ diệu đế” là lý giải vấn đề về khổ và sự diệt khổ, và diệt khổ là để đến thế giới
“Niết bàn”. Ở đây, chúng ta chỉ bàn về “Tứ diệu đế”.
Tứ diệu đế được Phật giáo coi là 4 chân lý hay 4 nền tảng, gồm khổ đế, tập
đế, diệt đế và đạo đế.
Khổ đế (Dukkha) là chân lý nói về sự khổ.
Dukkha tiếng Phạn có nghĩa là “đau khổ”, “đau đớn”, “buồn”, “sự cơ cực” tương phản với chữ “Sukkha” có nghĩa là hạnh phúc. Dukkha ở diệu đế thứ nhất
còn bao gồm những ý nghĩa sâu sắc hơn: “bất tồn”, “vơ thường”, “trống rỗng”,

“giả tạm”. Dukkha trong nghĩa thông thường gọi là khổ. Phật giáo đã cố gắng chỉ ra
những cái khổ của đời sống trần tục và quy nó vào “Bát khổ” (8 cái khổ). Đó là:
Sinh khổ: Sinh ra lại là con người và phải trải qua những cái khổ bên dưới,
điều đó là khổ
7

Tieu luan


Lão khổ: Bất lực vì tuổi già là khổ
Bệnh khổ: Bệnh tật làm tổn hại đến sức khỏe và tinh thần là khổ
Tử khổ: Dành cho những người sống khi phải đối mặt với cái chết, với sự ra
đi của người thân yêu; con người sợ hãi cái chết về khi chết, họ sẽ không biết đi đâu
về đâu là khổ
Sở cầu bất đắc khổ: Muốn mà không đạt được thì khổ
Ái biệt ly khổ: Thương yêu nhau mà phải xa nhau thì khổ
Oán tăng hội khổ: Thù ghét nhau mà phải sống với nhau thì khổ
Ngũ uẩn xí thịnh khổ: Cái khổ do hiện hữu năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành,
thức), do sự phát huy mạnh mẽ của năm uẩn, chính là cái khổ do chấp thủ vào ngũ
uẩn gây ra. Cụ thể:
Sắc uẩn gồm tứ đại: địa, thủy, hỏa, phong.
Thọ uẩn là cảm giác vui, khổ hoặc không vui, không khổ được cảm nhận do
sự tiếp xúc của 6 cảnh tương ứng bên ngồi là: hình sắc, mùi, âm thanh, vị, cứng
mềm và những đối tượng của tư tưởng..
Tưởng uẩn là ấn tượng, tri giác được phát sinh do sự tiếp xúc giữa 6 căn
(mắt, mũi, tai, lưỡi, thân và ý) với 6 cảnh bên ngoài giúp nhận biết sự vật là vật lý
hay tâm lý.
Hành uẩn (tư duy) là những thao tác của tâm thức, gồm những hoạt động của
ý chí. Trong hành có “nghiệp”. “Nghiệp” (Karma) là chính ý muốn. Khi đã có ý
muốn, thì người ta thao tác bằng thân, miệng, ý (thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý

nghiệp) dẫn đến những hoạt động tốt, xấu.
Cảm giác và cảm giác không phải là những hoạt động của ý chí, chúng
khơng phát sinh nghiệp quả. Chỉ có hành (những hoạt động do ý chí) như: chú ý (tác
ý), muốn (dục), xác định (thắng giải), tin (tín), định (kiên định), tuệ (trí tuệ), nghị
lực (tinh tấn), tham (ham muốn), thù ghét (hận), ngu si (vô minh), kiêu căng (mạn),
chấp vào thân xác (thân kiến) mới sinh nghiệp quả.
Thức uẩn là phản ứng của các giác quan với 6 hiện tượng ngoại giới (hình
sắc, âm thanh, mùi, vị, sự vật tiếp xúc, tâm giới). Thức không nên xem là “tinh
thần” đối lập với vật thể. Nó tồn tại tùy thuộc vào vật thể được cảm giác, tri giác.

8

Tieu luan


Phật cho rằng “Cuộc đời là bể khổ”, “Nước mắt của chúng sinh còn nhiều
hơn nước biển”. Dukkha phát sinh do vơ thường, chuyển biến, hoại khổ. Hạnh
phúc, khối lạc sớm muộn cũng thay đổi. Khi thay đổi, nó phát sinh khổ hạnh.
Mặc dù cuộc sống có khổ đau nhưng khơng nên buồn sầu, ốn hận hay thiếu
kiên nhẫn vì nó. Con người cần hiểu rõ vấn đề khổ đau, nó phát sinh thế nào, làm
sai xua đuổi nó và tùy theo đấy mà hành động với sự kiên nhẫn, thơng minh và nghị
lực, để vui vẻ, thanh thốt, hồn nhiên, sung sướng, vui hưởng hạnh phúc.
Tập đế (Samudaya) là chân lý nói về nguyên nhân của sự khổ.
Từ chỗ khẳng định cuộc đời là khổ, Phật giáo đã đi tìm nguyên nhân dẫn con
người tới chỗ khổ. Nếu những nỗi khổ của con người có ở trong đời sống hiện thực
thì Phật giáo cũng đi tìm những nguyên nhân của cái khổ trong đời sống hiện thực.
Nguyên nhân trực tiếp, rõ ràng và phổ biến gây nên sự khổ là dục vọng, bao
gồm: ham muốn khoái lạc giác quan, ham muốn tiền tài, ham muốn thể lực, ham
muốn tư tưởng, ham muốn danh vọng và ham muốn nhưng sự tin tưởng. Mọi ham
muốn đều có cội rễ là tam độc, gồm: tham (lòng tham vị kỷ), sân (sự giận dữ), và si

(sự si mê).
Bên cạnh tam độc, cịn có: kiêu ngạo, nghi ngờ, biên kiến ( hiểu không đến
nơi đến chốn), tà kiến (hiểu sai), thân kiến (chấp cái thân ta là có thật), kiến thủ (bảo
thủ) và giới cấm.
Trong 10 nguyên nhân trên, có những nguyên nhân thuộc về quan hệ hiện
thực, có những nguyên nhân thuộc về nhận thức và có những nguyên nhân thuộc về
giới luật. Như vậy, mầm mống của Dukkha phát sinh ở ngay chính Dukkha chứ
khơng phải ở bên ngồi. Bất cứ cái gì thuộc về bản chất của sinh cũng đều thuộc
bản chất của diệt. Dukkha có ở trong bản chất của sự phát sinh ra nó và cũng có
ln ở trong bản chất của sự chấm dứt nó.
Ý chí, dục vọng, lòng ham muốn, lòng khao khát tồn tại, tiếp tục tăng trưởng,
không mất đi, dừng lại cùng cái chết của thân xác, mà tiếp tục biểu hiện trong một
hình thức khác, phát khởi sự tái sinh gọi là luân hồi. Cịn sự khao khát trở thành thì
vịng ln hồi cịn tiếp tục. Nó chỉ chấm dứt, nhờ trí tuệ thấy rõ thực tại, chân lý,
Niết bàn.

9

Tieu luan


Diệt đế (Nirodha - sự chấm dứt Dukkha) là chân lý nói về lối thốt cho sự
khổ đau dứt ra khỏi sự tiếp nối của Dukkha. Đây là chân lý cao cả về chấm dứt sự
khổ.
Từ việc chỉ ra nguyên nhân dẫn con người tới cái khổ, Phật giáo đã khẳng
định rằng có thể diệt được khổ bằng cách diệt trừ nguyên nhân. Những nguyên nhân
dẫn con người tới cái khổ do chính con người tạo ra, do vậy con người là chủ thể
của sự diệt khổ. Ở khía cạnh này, Phật giá đã đề cao con người trong việc quyết
định số phận của mình. Song Phật giáo cịn cho rằng cái khổ của con người ở kiếp
này có thể do kiếp trước gây nên, điều này chứng tỏ tính chất duy tâm tôn giáo của

Phật giáo.
Muốn diệt từ Dukkha, phải diệt cội gốc chính của Dukkha đó là lịng khao
khát hay tham ái. Bởi thế Niết bàn còn là sự diệt ái, sự diệt hẳn dục vọng.
Niết bàn là cái tuyệt đối không bị giới hạn, là sự diệt tắt của ham muốn, vọng
tưởng, hận thù, sự hủy diệt của ý niệm sai lầm về ngã. Theo Phật giáo Tiểu thừa,
Niết bàn và luân hồi sinh tử là hai phạm trù khác nhau. Còn theo Phật giáo Đại thừa,
Niết bàn có thể thực hiện được ngay trong cõi đời này. Người chứng ngộ chân lý
Niết bàn là người nhiều hạnh phúc nhất thế gian. Người ấy thoát khỏi mặc cảm và
ám ảnh, phiền não, lo âu, sức khỏe tâm thần thoải mái, không tiếc quá khứ, không
mơ mộng về tương lai. Họ trong sạch, từ hòa, đầy lòng thương, thông cảm và khoan
dung. Họ phục vụ người khác trong sạch, khơng nghĩ về mình, khơng vụ lợi, họ đã
thốt khỏi ảo tưởng về ngã và lòng khát khao “trở thành”.
Đạo đế (Magga - con đường) là chân lý về con đường chấm dứt Dukkha.
Đây là con đường trung đạo, vì nó tránh hai thái cực: chạy theo khối lạc tầm
thường và khổ hạnh ép xác. Con đường thứ nhất thấp kém, tầm thường, khơng lợi
ích, là con đường của những người tầm thường. Con đường thứ hai là khổ nhọc,
khơng đáng có và khơng lợi ích.
Trung đạo được gọi là Bát chính đạo. Bát chính đạo là những chỉ dẫn của
đức Phật về cách thực hành tu tập nhằm đưa hành giả thoát khỏi mọi bám chấp và
vọng tưởng mê lầm, giúp hiển lộ trí tuệ hiểu biết đúng đắn. Tám khía cạnh thực
hành khác nhau có mối quan hệ tương hỗ mật thiết và cần được thực hành đồng
thời.
10

Tieu luan


Chính kiến (Sammà Ditthi) là sự hiểu biết, quan kiến đúng đắn. Chính kiến
có được khi giác ngộ về Khổ đế, nhìn mọi sự vật hiện tượng như bản chất chân thật
của chúng thay vì nhìn qua lăng kính vọng tưởng thơng thường của thế gian. Để có

được quan kiến đúng đắn này, cần thấu hiểu rằng lý vô thường, khổ, không, vô ngã
và quy luật về Nghiệp Chi phối mọi sự vật, hiện tượng thế gian. Chính kiến khơng
được xây dựng nên từ những hiểu biết, phân biệt nhị nguyên mà cần được bắt đầu
bằng trực giác quán chiếu sâu sắc sự thật về khổ, bản chất của khổ đau. Chính kiến
là yếu tố tiên quyết bởi chỉ có chính kiến mới đem lại suy nghĩ và hành động đúng
đắn.
Chính tư duy (Sammà Sankappa) là suy nghĩ đúng đắn, là thanh lọc tâm để
loại trừ những tư tưởng bất thiện và chăm bón những hạt giống thiện lành trong khu
vườn tâm. Nếu như Chính kiến nói về khía cạnh nhận thức thì Chính tư duy nói về
khía cạnh của sức mạnh tinh thần (ý chí) điều khiển mọi hành động của bản thân.
Chính ngữ (Sammà Vàcà) vơ cùng cần thiết bởi lời nói đúng đắn hỗ trợ cho
việc trưởng dưỡng tâm linh. Đức Phật dạy rằng chính ngữ chỉ có thể đạt được khi
khơng nói dối, đặc biệt là sự dối lừa có chủ đích, khơng nói lời xấu ác, khơng nói
lời thêu dệt vu khống, khơng nói lời vơ nghĩa thị phi. Tóm lại, lời nói chính ngữ là
lời nói chân thật, hịa nhã, mềm mỏng và có ý nghĩa thực sự.
Chính nghiệp (Sammà Kammanta) là hành thiện, xa lìa ác hạnh. Chính
nghiệp chỉ những tạo tác liên quan đến hoạt động của thân. Để có Chính nghiệp,
con người không được làm tổn hại hay đoạt mạng sống của chúng sinh, dù là bất kỳ
hữu tình hàm thức nào, không được chiếm đoạt, trộm cắp bất cứ thứ gì khơng phải
của mình, khơng được tà dâm tức là hành vi dâm dục bất chính, làm tổn hại tới
người khác.
Có thể thấy rằng, hai yếu tố đầu tiên (Chính kiến, Chính tư duy) là sự tu tập,
rèn luyện đối với ý. Chính ngữ thuộc về khẩu và Chính nghiệp thuộc về thân. Ba
yếu tố này bổ trợ lẫn nhau giúp hành giả đạt được sự thanh tịnh của thân, khẩu, ý.
Chính mạng (Sammà Ajivà) là phương tiện sinh sống đúng đắn. Chính mạng
dạy chúng ta phải kiếm sống bằng những nghề nghiệp lương thiện. Một cách cụ thể,
người tu tập Chính mạng phải xa lìa cơng việc liên quan tới vũ khí, tới chất độc,
chất gây nghiện (rượu, bia, ma túy, thuốc lá...) hay làm tổn hại mạng sống của
11


Tieu luan


chúng sinh (giết mổ…). Ngồi ra, những cơng việc mâu thuẫn với Chính ngữ,
Chính nghiệp cũng cần phải từ bỏ vì khơng đem lại Chính mạng.
Chính tinh tiến (Sammà Vayama) có thể coi là yếu tố vơ cùng quan trọng để
thực hành và thành tựu bảy chi còn lại của Bát chính đạo. Nếu khơng tinh tấn, miên
mật một cách đúng đắn, con người sẽ không thể thành tựu bất cứ chi nào và sẽ bị
thoái thất hay sai lệch trong sự thực hành của mình. Chính tinh tiến có được dựa
trên sức mạnh nội tâm, chính là những năng lực của tham ái, đố kỵ, sân hận… được
chuyển hóa. Một cách cụ thể, bạn cần từ bỏ những điều xấu ác đã lỡ phát sinh, ngăn
chặn những niệm xấu ác chưa phát sinh, phát khởi những niệm thiện lành và duy trì,
trưởng dưỡng những việc thiện lành đã phát sinh. Vì vậy, Chính tinh tiến phải ln
được dẫn dắt bởi Chính kiến.
Chính niệm (Sammà Sati) là tỉnh giác, chú tâm và nhận biết rõ ràng những gì
đang diễn ra trong giây phút hiện tại. Chính niệm giúp đẩy lùi những vọng tưởng
nhị nguyên, mọi so sánh đối đãi để nhìn nhận sâu sa bên trong của sự vật hiện tượng
thay vì bị cuốn theo vọng tưởng.
Bước cuối cùng trên con đường Bát chính đạo là Chính định (Sammà
Samàthi) - phương pháp thiền định chân chính. Thiền định được hiểu là sự chú tâm,
an định tâm vào một đề mục hay đối tượng nhất định. Khi tâm an định, vững vàng,
phiền não tạm thời lắng xuống, tâm trở nên sáng rõ, trí tuệ dần được hiển bày.
Chính định chỉ có được nhờ tinh tấn công phu thiền định. Khi đạt được cấp độ
nhuần nhuyễn nhất định, bạn có thể định tâm một cách nhậm vận trong mọi hoàn
cảnh của cuộc sống.
Bát chính đạo là Tam học của Phật giáo, gồm: Giới - Định - Tuệ. Đó là sự tự
kỷ luật trong thân xác, lời nói và ý nghĩ, là sự tự phát triển và tự thanh lọc. Nó
khơng dính líu gì đến đức tin, thờ phụng, nghi lễ. Bát chính đạo là con đường đúng
đắn dẫn đến thực chứng chân lý tối hậu, dẫn đến tự do hoàn toàn, hạnh phúc và bình
an nhờ sự hồn thiện về đạo đức, tâm linh và trí tuệ.

Như vậy, có thể thấy rằng Bát chính đạo khơng phải một lý thuyết xa vời mà
đó là bản đồ tu tập, kim chỉ nam cho sự thực hành trong cuộc sống của bất cứ cá
nhân nào muốn hồn thiện bản thân, thốt khỏi sự chi phối của khổ đau hướng tới
giải thoát, giác ngộ.
12

Tieu luan


2.2. Sự ảnh hưởng của giáo lý Phật giáo đến con người Việt Nam hiện
nay
2.2.1. Ảnh hưởng của giáo lý Phật giáo về tư tưởng và đạo lý
Tư tưởng hay đạo lý căn bản của Phật Giáo là đạo lý Duyên Khởi, Tứ Diệu
Đế và Bát chánh Đạo. Ba đạo lý này là nền tảng cho tất cả các tông phái phật giáo,
nguyên thủy cũng như Đại Thừa đã ăn sâu vào lòng của người dân Việt.
Đạo lý Duyên Khởi là một cái nhìn khoa học và khách quan về thế giới hiện
tại. Duyên khởi nghĩa là sự nương tựa lẫn nhau mà sinh tồn và tồn tại. Không những
các sự kiện thuộc thế giới con người như thành, bại, thịnh, suy mà tất cả những hiện
tượng về thế giới tự nhiên như cỏ, cây, hoa, lá cũng điều vâng theo luật duyên khởi
mà sinh thành, tồn tại và tiêu hoại. Có 4 loại duyên cần được phân biệt: thứ nhất là
Nhân Duyên. Có thể gọi là điều kiện gần gũi nhất, như hạt lúa là nhân duyên của
cây lúa. Thứ hai là Tăng Thượng Duyên tức là những điều kiện có tư liệu cho nhân
dun ví như phân bón và nước là tăng thượng duyên cho hạt lúa. Thứ ba là Sở
Duyên Duyên tức là những điều kiện làm đối tượng nhận thức, thứ tư là Đẳng Vô
Gián Duyên tức là sự liên tục không gián đoạn, cần thiết cho sự phát sinh trưởng
thành và tồn tại.
Luật nhân quả cần được quan sát và áp dụng theo nguyên tắc duyên sinh mới
có thể gọi là luật nhân quả của Đạo Phật, theo đạo lý duyên sinh, một nhân đơn độc
khơng bao giờ có khả năng sinh ra quả, và một nhân bao giờ cũng đóng vai trị quả,
cho một nhân khác. Về giáo lý nghiệp báo hay nghiệp nhân quả báo của Đạo Phật

đã được truyền vào nước ta rất sớm. Giáo lý này đương nhiên đã trở thành nếp sống
tín ngưỡng hết sức sáng tỏ đối với người Việt Nam có hiểu biết, có suy nghĩ. Người
ta biết lựa chọn ăn ở hiền lành, dù tối thiểu thì đó cũng là kết quả tự nhiên âm thầm
của lý nghiệp báo, nó chẳng những thích hợp với giới bình dân mà cịn ảnh hưởng
đến giới trí thức. Có thể nói mọi người dân Việt điều ảnh hưởng ít nhiều qua giáo lý
này. Vì thế, lý nghiệp báo luân hồi đã in dấu đậm nét trong văn chương bình dân,
trong văn học chữ nôm, chữ hán, từ xưa cho đến nay để dẫn dắt từng thế hệ con
người biết soi sáng tâm trí mình vào lý nhân quả nghiệp báo mà hành động sao cho
tốt đẹp đem lại hịa bình an vui cho con người. Thậm chí trẻ con mười tuổi cũng tự
13

Tieu luan


nhiên biết câu: "ác giả ác báo". Chúng phát biểu câu rất đúng hoàn cảnh sự việc xảy
ra cho đối phương, hay "chạy trời không khỏi nắng". Mặt khác họ hiểu rằng nghiệp
nhân khơng phải là định nghiệp mà có thể làm thay đổi, do đó họ tự biết sửa chữa,
tu tập cải ác tùng thiện. Sống ở đời, đột nhiên những tai họa, biến cố xảy ra cho họ,
thì họ nghĩ rằng kiếp trước mình vụng đường tu nên mới gặp khổ nạn này. Không
than trời trách đất, cam chịu và tự cố gắng tu tỉnh để chuyển hóa dần ác nghiệp kia.
Nếu ta nắm vững nguyên tắc nhân quả nghiệp báo như trên, thì chúng ta có thể
chuyển nghiệp ngay trong hiện kiếp. Cái đích của việc chuyển nghiệp, tái tạo cá
nhân là đến được trí tuệ tối hậu. Khởi đầu của việc chuyển nghiệp là bắt đầu thay
đổi hành nghiệp thiện và ác từ ba nghiệp Thân, Khẩu và Y của chính mỗi cá nhân.
Chứ khơng ngồi một chỗ tưởng tượng đến những kết quả tốt đẹp sẽ đến với mình.
Từ những hành nghiệp thiện, giảm bớt điều ác, dần dần ta sẽ chuyển hóa và tạo cho
ta có một cuộc sống yên vui cho hiện tại và mai sau.
Đạo lý ảnh hưởng nhất là giáo lý từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của Phật
giáo đã ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn của người Việt. Tinh thần
“thương người như thể thương thân” này đã biến thành ca dao tục ngữ rất phổ biến

trong quần chúng Việt Nam như "Lá lành đùm lá rách", hay “Nhiễu điều phủ lấy giá
gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Đó là những câu ca dao, tục
ngữ mà bất cứ người Việt Nam nào cũng điều thấm nhuần và thuộc nằm lịng, nói
lên lịng nhân ái vị tha của dân tộc Việt Nam.
Ngoài đạo lý Từ Bi, người Việt còn chịu ảnh hưởng sâu sắc một đạo lý khác
của đạo phật là đạo lý Tứ Ân, gồm ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân
chúng sanh. Đạo lý này được xây dựng theo một trình tự phù hợp với bước phát
triển của tâm lý về tình cảm của dân tộc Việt. Tình thương ở mọi người bắt đầu từ
thân đến xa, từ tình thương cha mẹ, họ hàng lan dần đến tình thương trong các mối
quan hệ xã hội với thầy bạn, đồng bào quê hương đất nước và mở rộng đến quê
hương cao cả đối với cuộc sống của nhân loại trên vũ trụ này. Đặc biệt trong đạo lý
tứ ân, ta thấy ân cha mẹ là nổi bật và ảnh hưởng rất sâu đậm trong tình cảm và đạo
lý của người Việt. Vì đạo phật rất chú trọng đến hiếu hạnh, và được Đức Phật đã
thuyết giảng đề tài này trong nhiều kinh khác nhau như Kinh Báo Phụ Mẫu Ân,
14

Tieu luan


kinh Thai Cốt, kinh Hiếu Tử, kinh Đại Tập, kinh Nhẫn Nhục, kinh Vu Lan.. nhắc
đến công lao dưỡng dục của cha mẹ, Phật dạy: "muôn việc ở thế gian, khơng gì hơn
cơng ơn ni dưỡng lớn lao của cha mẹ" (Kinh Thai Cốt), hay kinh Nhẫn Nhục dạy:
"cùng tốt điều thiện khơng gì hơn hiếu, cùng tốt điều ác khơng gì hơn bất hiếu". Bởi
Phật Giáo đặc biệt chú trọng chữ hiếu như thế nên thích hợp với nếp sống đạo lý
truyền thống của dân tộc Việt.
Nhìn chung, đạo lý hiếu ân trong ý nghĩa mở rộng có cùng một đối tượng
thực hiện là nhắm vào người thân, cha mẹ, đất nước, nhân dân, chúng sanh, vũ trụ,
đó là môi trường sống của chúng sanh gồm cả mặt tâm linh nữa. Đạo lý Tứ Ân cịn
có chung cái động cơ thúc đẩy là Từ Bi, Hỷ Xả khiến cho ta sống hài hòa với xã
hội, với thiên nhiên để tiến đến hạnh phúc chân thực và miên trường. Từ cơ sở tư

tưởng triết học và đạo lý trên đã giúp cho Phật Giáo Việt Nam hình thành được một
bản sắc đặc thù rất riêng biệt của nó tại Việt Nam, góp phần làm phong phú và đa
dạng hóa nền văn hóa tinh thần của dân tộc Việt.
2.2.2. Ảnh hưởng của giáo lý Phật giáo qua phong tục tập quán
Về ăn chay, hầu như tất cả người Việt Nam đều chịu ảnh hưởng nếp sống
văn hóa này. Ăn chay hay ăn lạt xuất phát từ quan niệm từ bi của phật giáo. Vì khi
đã trở về với phật pháp, mỗi người Phật Tử phải thọ giới và trì giới, trong đó giới
căn bản là khơng sát sanh hại vật, mà trái lại phải thương yêu mọi loài. Trong hành
động lời nói và ý nghĩa, người Phật Tử phải thể hiện lịng từ bi. Điều khơng thể có
được khi con người còn ăn thịt, còn uống máu chúng sanh. Để đạt được mục đích
đó, người Phật Tử phải dùng đến phương pháp ăn chay. Cố nhiên người xuất gia ăn
chay trường, còn Phật Tử tại gia còn nhiều trở ngại nên chỉ ăn chay kỳ. Thông
thường người Việt Nam, cả Phật Tử lẫn người không phải Phật Tử cũng theo tục lệ
đặc biệt này, họ ăn chay mỗi tháng hai ngày, là ngày mùng một và ngày rằm mỗi
tháng, có người ăn mỗi tháng bốn ngày là ngày 01, 14, 15 và 30, nếu tháng thiếu thì
ăn chay ngày 29, có người ăn mỗi tháng sáu ngày là những ngày mùng 8, 14, 15,
23, 29 và 30 (nếu tháng thiếu thì ăn chay ngày 28, 29), có người phát tâm ăn chay
mỗi tháng mười ngày là ngày 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28 và 30 và mùng 1 (nếu
tháng thiếu thì ăn vào ngày 27, 28, 29) cũng có nhiều người phát nguyện ăn chay
15

Tieu luan


suốt cả tháng (thường là tháng bảy âm lịch) hoặc ba tháng (tháng giêng, tháng bảy
và tháng mười) hay cả năm, đơi khi có một số người đi phát nguyện ăn trường trai
giống như những người xuất gia.
Về mặt ăn uống, ăn chay rất phù hợp với phong cách ăn uống Á Đông, chú
trọng ăn ngũ cốc nhiều hơn thực phẩm động vật, vả lại ăn chay giúp cho cơ thể
được nhẹ nhàng, trí óc được minh mẫn sáng suốt. Trên tinh thần đó, nên người Việt

Nam dù khơng phải là Phật Tử cũng thích ăn chay, và tập tục này đã ảnh hưởng sâu
rộng trong mọi giai tầng xã hội Việt Nam từ xưa đến nay.
Ăn chay và thờ Phật là việc đi đôi với nhau của người Việt Nam. Việc thờ
phật trong dân gian cũng có nhiều điều thú vị. Người Phật Tử, người mộ đạo thờ
Phật đã đành, nhiều người không phải là Phật Tử cũng dùng tượng phật hay tranh
ảnh có yếu tố Phật giáo để chiêm ngưỡng và trang trí cho cảnh nhà thêm đẹp và
trang nghiêm. Theo quan niệm của nhóm người này, Phật giáo là một thành tựu về
tư tưởng văn hóa của dân tộc và nhân loại.
Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo phật tục lệ bố thí và phóng sanh đã
ăn sâu vào đời sống sinh hoạt của quần chúng. Đến ngày rằm và mùng một, người
Việt thường hay mua chim, cá, rùa..để đem về chùa chú nguyện rồi đi phóng sanh.
Người Việt cũng thích làm phước bố thí và sẵn sàng giúp đỡ kẻ nghèo khó, hoạn
nạn, vào các ngày lễ hội lớn họ tập trung về chùa. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại
những biểu hiện mang tính chất hình thức trên này càng bị thu hẹp. Thay vào đó
mọi người tham gia vào những đợt cứu trợ, tương tế cho các đồng bào gặp thiên tai,
hoạn nạn, hồn cảnh sống gặp khó khăn đúng với truyền thống đạo lý của dân tộc lá
lành đùm lá rách.
Theo đúng truyền thống tập tục cúng rằm, mùng một là tập tục cúng sóc
vọng, tức là ngày mặt trời mặt trăng thông suốt nhau, cho nên thần thánh, tổ tiên có
thể liên lạc, thơng thương với con người, sự cầu nguyện sẽ đạt tới sự cảm ứng với
các cõi giới khác và sự cảm thông sẽ được thiết lập là ngày trong sạch để các vị tăng
kiểm điểm hành vi của mình, gọi là ngày Bố Tát và ngày sám hối, người tín đồ về
chùa để tham dự lễ sám hối, cầu nguyện bỏ ác làm lành và sửa đổi thân tâm. Quan
niệm ngày sóc vọng là những ngày trưởng tịnh, sám hối, ăn chay là xuất phát từ ảnh
16

Tieu luan


hưởng của Phật giáo Đại thừa. Ngoài việc đi chùa sám hối, ở nhà vào ngày rằm và

mùng một, họ sắm đèn, nhang, hương hoa để dâng cúng Tam Bảo và tổ tiên Ơng
Bà, thể hiện lịng tơn kính, thương nhớ những người quá cố và cụ thể hóa hành vi tu
tâm dưỡng tánh của họ.
Bên cạnh việc đi chùa sám hối vào ngày rằm, mùng một , người Việt Nam
cịn có tập tục khác là đi viếng chùa, lễ Phật vào những ngày hội lớn như ngày rằm
tháng giêng, rằm tháng tư (Phật Đản) và rằm tháng bảy (lễ Vu Lan). Đây là một tập
tục, một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống người Việt. Tuy nhiên, đi
viếng chùa cũng tùy thuộc vào mục đích và quan niệm của mỗi người. Cánh cửa
chùa bao giờ cũng rộng mở đối với thập phương bá tánh, nhất là các ngày hội lớn
của Phật giáo, của dân gian (tết Nguyên Đán) hoặc những ngày kỷ niệm lớn của lịch
sử dân tộc, (giỗ tổ Hùng Vương). Vào những ngày này, đông đảo các tầng lớp nhân
dân, các giới trong xã hội đều quy tụ về đây. Trước cánh cửa thiền môn, những
khn mặt trang nghiêm, vẻ đẹp thanh thốt của hoa huệ, hoa cúc chen lẫn với
hương trầm quyện tỏa tạo nên bầu khơng khí ấm cúng, linh thiêng, thể hiện tấm
lịng thành kính của họ đối với Đức Phật và các bậc Thánh Hiền. Những hình ảnh
đó đã góp phần tạo nên bản sắc và nét đẹp văn hóa của dân tộc Việt. Trong dịng
người tấp nập, đơng đảo đó khơng phải ai cũng đến đây vì lý do tín ngưỡng thuần
túy. Một số đông người chỉ đơn giản muốn đi xem lễ hội hoặc thích chiêm ngưỡng
vẻ đẹp của chùa chiền nhưng khi đã hội nhập vào bầu không khí trang nghiêm họ
cũng thấy mình trở nên đỉnh đạc và trầm tỉnh hơn, đây là cơ hội giúp họ quay về với
Đạo Phật.
Về ma chay, theo phong tục của người Việt Nam và Trung Hoa trước đây rất
là phiền phức và hao tốn. Tuy nhiên nhờ có sự dẫn dắt của chư tăng thì tang lễ diễn
ra đơn giản và trang nghiêm hơn. Khi trong gia đình (theo Đạo Phật) có người qua
đời, thân quyến đến chùa thỉnh chư tăng về nhà để giúp đỡ phần tang lễ (thường gọi
là làm ma chay). Thông thường các nghi thức trong tang lễ được diễn ra tuần tự như
sau : (1) Nghi thức nhập liệm người chết; (2) lễ phát tang; (3) lễ tiến linh (cúng
cơm); (4) khóa lễ kỳ siêu cho hương linh; (5) lễ cáo Triều Tổ (cáo tổ tiên ông Bà
trước giờ di quan); (6) lễ di quan và hạ huyệt; (7) Đưa lư hương, long vị, hình vong
17


Tieu luan


về nhà hoặc chùa; (8) lễ an sàng; (9) cúng thất (tụng kinh cầu siêu và cúng cơm cho
hương linh trong bảy tuần gồm 49 ngày, mỗi tuần cúng một lần); (10) lễ tiểu tường
(giáp năm, sau ngày hương linh mất một năm); (11) lễ đại tường (lễ xả tang, sau
ngày hương linh qua đời hai năm).
Ở những gia đình không theo Đạo Phật nhưng do người quá cố hoặc gia chủ
mến chuộng Đạo Phật nên họ thỉnh chư tăng, ni đến tụng kinh cầu siêu cho hương
linh và tổ chức tang lễ giống như những tín đồ theo Đạo Phật. Nhìn chung, tập tục
ma chay tại Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm từ những nghi thức của Phật giáo.
Việc cưới hỏi, tầm ảnh hưởng của Phật giáo tỏ ra ít phức tạp hơn so với
Thiên Chúa giáo, Khổng giáo hay Hồi giáo. Trước khi tiến tới hôn nhân, nhiều đơi
bạn trẻ theo tín ngưỡng Phật giáo, thường đến chùa khấn nguyện với chư Phật phù
hộ cho mối lương dun của họ được thuận buồm xi gió. Đến ngày cưới hỏi, họ
được hướng dẫn về chùa để chư tăng làm lễ "hằng thuận quy y" trước khi rước dâu.
Đó là một lễ chúc lành ngắn gọn và được chư tăng khuyên dạy một số nguyên tắc
đạo đức Phật giáo, để làm kim chỉ nam cho cuộc sống mới.
Ngoài những phong tục của người Việt Nam chịu ảnh hưởng Phật giáo đã
được kể trên, chúng ta còn thấy một số tập tục khác cũng tương đối phổ biến và có
ít nhiều liên quan đến Phật giáo mà chúng ta phải ghi nhận như tập tục đốt vàng mã,
tập tục coi ngày giờ, tập tục cúng sao hạn, xin xăm, bói quẻ,...
Bên cạnh những tác động tích cực, Phật giáo cũng có những tác động tiêu
cực khơng nhỏ tới đời sống của người Việt Nam. Với cách nhìn cuộc đời là bể khổ
khơng bờ bến, thốt khổ bằng tu tâm, dưỡng tính để diệt trừ vơ minh đạt giác ngộ,
Phật giáo đưa lại quan niệm sống bi quan, yếm thế, coi cuộc đời chỉ là phù hoa,
thoảng qua, là sống gửi, thác về. Nhìn cuộc đời một cách bi quan, thụ động nên
khơng ít người Việt dễ chùn bước khi gặp khó khăn, sống bng trơi cho qua ngày,
đoạn tháng với niềm tin chỉ lo tu tâm, dưỡng tính là đủ. Khi gặp trắc trở một số

người Việt thường nghĩ đến số phận, nghiệp chướng, nhân quả, khiến con người
hình thành tính cách bị động, ít chịu vươn lên, hạn chế năng lực đấu tranh xã hội
của những con người hiện thực, thậm chí thờ ơ, do dự đối với cái tiêu cực, cái ác

18

Tieu luan


đang gây bất bình trong xã hội; khơng tin tưởng vào hoạt động đấu tranh tích cực
cải tạo, chống tiêu cực trong xã hội, mà chờ đợi, tin vào nhân quả tự đến.
Phật giáo từ lâu đã thâm nhập vào tâm hồn, nếp nghĩ, lối sống của dân tộc
Việt Nam và đã trở thành bản chất và bản sắc của dân tộc Việt Nam. Trong bài xã
luận của tạp chí Phật giáo Việt Nam đã viết : "Trong tâm hồn dân tộc Việt Nam thật
đã sẵn có mầm mống tinh thần Phật giáo. Hèn gì mà Đạo Phật với dân tộc Việt Nam
trong gần hai ngàn năm nay, bao giờ cũng theo nhau như bóng với hình trong cuộc
sinh hoạt toàn cầu. Đã là viên đá nền tảng cho văn hóa dân tộc, cố nhiên Phật giáo
Việt Nam vĩnh viễn phải là một yếu tố bất ly của cuộc sống tồn diện. Ngày nay
những hào nhống của một nền văn minh vật chất đã làm mờ mắt một số đông
người, nhưng cơ bản của nền văn hóa dân tộc đang cịn bền chặt, khiến cho người
Việt Nam dù có bị lôi cuốn phần nào trong một thời gian, rồi cũng hồi đầu trở lại
với cội nguồn yêu dấu ngàn xưa..."

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Đăng Sinh, Đào Đức Doãn, Giáo trình Tơn giáo học, NXB Đại học Sư
phạm, Hà Nội, 2009
2. GS. TS Nguyễn Hữu Vui, Trương Hải Cường, Tập bài giảng Tơn giáo học, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003
3. Phạm Đình Nhân (2013), Ngũ uẩn, bài học về Diệt khổ (Phần cuối),
/>4. Thích Nguyên Tạng (2012), Ảnh hưởng Phật giáo trong đời sống người Việt,

/>5. Tư liệu: Ý nghĩa sâu sắc của giáo pháp Tứ Diệu Đế, Tứ Thánh Đế,
/>
19

Tieu luan



×