Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG DO NGƯỜI MẤT NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ GÂY RA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.51 KB, 65 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài....................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài....................................................................................2
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu đề tài..................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài..............................................................................4
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài................................................................4
6. Bố cục của đề tài....................................................................................................4
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG DO NGƯỜI MẤT NĂNG LỰC HÀNH VI
DÂN SỰ GÂY RA........................................................................................................5
1.1. Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người
mất năng lực hành vi dân sự gây ra............................................................................5
1.1.1. Khái quát về người mất năng lực hành vi dân sự..........................................5
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do
người mất năng lực hành vi dân sự gây ra...............................................................8
1.2. Ý nghĩa quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra...........................................................16
1.3. Sơ lược quá trình phát triển quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra............................17
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1...........................................................................................19
Chương 2 PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG DO NGƯỜI MẤT NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ GÂY
RA, THỰC TRẠNG ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ..................................20
2.1. Quy định về trường hợp phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất
năng lực hành vi dân sự gây ra.................................................................................20
2.1.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực
hành vi dân sự gây ra............................................................................................20
2.1.2. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây
ra........................................................................................................................... 36
2.1.3. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiêt hại và cơ chế sử dụng tài sản để


bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra........................42
2.2. Quy định về các trường hợp không phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người mất năng lực hành vi dân sự gây ra................................................................48


2.2.1. Do sự kiện bất khả kháng............................................................................48
2.2.2. Do gây thiệt hại trong giới hạn phịng vệ chính đáng..................................49
2.2.3. Do phải hành động trong yêu cầu của tình thế cấp thiết..............................51
2.2.4. Hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại.......................................................51
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2...........................................................................................53
KẾT LUẬN


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
NQ
HĐTP

Bộ luật Dân sự
Nghị Quyết
Hội đồng thẩm phán


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những chế định xuất
hiện sớm trong pháp luật dân sự. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là
trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại mà trước đó giữa bên bị thiệt hại và bên gây thiệt

hại khơng có sự thỏa thuận hoặc có sự thỏa thuận nhưng sự thỏa thuận đó khơng liên
quan đến hậu quả thiệt hại. Việc gây thiệt hại cho người khác và phải bồi thường thiệt
hại là điều mang tính tất yếu của xã hội.
Về nguyên tắc chung, ai gây thiệt hại thì người đó phải chịu trách nhiệm đối với
những hậu quả do hành vi của mình gây ra. Tuy nhiên, có những trường hợp, người
gây thiệt hại không phải bồi thường thiệt hại hoặc trách nhiệm bồi thường được giới
hạn, hoặc thay vào đó, trách nhiệm bồi thường này được chuyển giao cho người khác.
Liên quan đến vấn đề này, nhà làm luật có quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra.
BLDS năm 2015 phần nào đáp ứng được yêu cầu giải quyết các tranh chấp phát
sinh trong thực tiễn. Tuy nhiên, qua thực tiễn giải quyết tranh chấp về trách nhiệm bồi
thường đối với những thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra cho thấy
một số vấn đề chưa quy định rõ ràng trong văn bản luật. Điều này dẫn đến sự không
thống nhất trong nhận thức của các đọc giả, nhà nghiên cứu, cũng như sự lúng túng
cho các cơ quan, người có thẩm quyền trong việc thực thi pháp luật như: Xác định thời
điểm gây thiệt hại của người mất năng lực hành vi dân sự; xác định tài sản của người
mất năng lực hành vi dân sự; khi phát sinh trách nhiệm bồi thường thì ai sẽ chịu trách
nhiệm bồi thường đối với hành vi gây thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự
gây ra?,... Do đó, việc nghiên cứu đầy đủ, cụ thể các quy định pháp luật về vấn đề này
trên cơ sở khảo sát thực trạng áp dụng pháp luật, từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến
nghị nhằm góp phần hồn thiện pháp luật, tạo sự nhận thức đúng đắn và áp dụng pháp
luật thống nhất trong thực tiễn là một yêu cầu có tính cấp thiết.
Đối với người mất năng lực hành vi dân sự, với quan điểm nhất quán trong việc
bảo vệ đối tượng này, Nhà nước đã thúc đẩy việc hoàn thiện hệ hống pháp luật bảo vệ
quyền của người mất năng lực hành vi dân sự, bên cạnh đó Nhà nước cũng xác định rõ
ràng trách nhiệm của họ khi tham gia vào các quan hệ pháp luật cụ thể, đặc biệt là
những trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác.
Xác định người mất năng lực hành vi dân sự là người do bị bệnh tâm thần hoặc
mắc bệnh khác mà không thể nhận thức làm chủ được hành vi của mình, dễ bị lôi kéo,
dụ dỗ, chưa tự chủ trong mọi hoạt động. Do vậy, pháp luật Việt Nam đã có những quy

định riêng để nhằm xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực
hành vi dân sự gây ra một cách khách quan nhất, phù hợp nhất.


2

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra là
một nội dung trong chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Việc xác định trách
nhiệm bồi thường do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra là vấn đề hết sức phức
tạp, bởi họ được coi là những chủ thể khơng có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, và do
vậy bắt họ phải chịu một mức bồi thường thiệt hại cụ thể là điều khó khăn, trong khi ở
Việt Nam hầu hết những người mất năng lực hành vi dân sự là những người khơng có
tài sản riêng để tự chịu trách nhiệm do hành vi của mình gây ra.
Thực tế, đây là vấn đề tương đối khó khăn chưa có hướng dẫn cụ thể trong các
văn bản luật nên các cơ quan bảo vệ pháp luật gặp nhiều khó khăn khi tổ chức thực
hiện. Tác giả viết khóa luận này với mong muốn nghiên cứu, tìm hiểu một cách khoa
học, có hệ thống để giúp các đọc giả có một cách nhìn tồn diện về vấn đề này khi giải
quyết các vụ án cụ thể, góp phần mang đến sự công bằng cho các đương sự trong vụ
án.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dưới góc độ khoa học pháp lý, chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
được nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau, có thể
kể tên đến các cơng trình nghiên cứu như:
Luận văn Thạc sỹ Luật học năm 2003 với đề tài “Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Thị Hồng
Mai. Trong luận văn của mình, tác giả đã khái luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xu hướng phát triển của
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, các điều kiện phát sinh trách nhiệm
bồi thường ngoài hợp đồng, thực trạng và thực tiễn áp dụng về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngồi hợp đồng.

Khóa luận Cử nhân Luật học năm 2003 với đề tài “Bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng” của tác giả Đặng Thị Thu Thảo, tác giả đã trình bày lý luận chung về trách
nhiệm BTTH ngoài hợp đồng và một số trường hợp cụ thể của bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng.
Ngoài ra, có một số bài viết liên quan đến đề tài đã được đăng trên các tạp chí
như: Bài viết “Một số vấn đề về việc thực hiện nguyên tắc bồi thường trong chế định
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của tác giả Trần Ngọc Thành được đăng trên tạp
chí Tòa án nhân dân Số 22/2013; bài viết “Bồi thường thiệt hại do người dưới 15 tuổi,
người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, các
tổ chức khác trực tiếp quản lý trong pháp luật dân sự Việt Nam” của tác giả Phạm
Kim Anh trên tạp chí Khoa học pháp lý Số 1/2008; bài viết “Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ” của tác giả
Nguyễn Thị Thúy Hằng được đăng trên tạp chí Tồn án nhân dân Số 9/2013; bài viết “


3

Bảo vệ quyền của người mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật dân
sự và tố tụng dân sự” của tác giả Đặng Thanh Hoa được đăng trên tạp chí Dân chủ và
Pháp luật Số 12/2010,…
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đã nêu và phân tích những vấn đề
chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, đưa ra các yêu cầu cơ bản trong việc xác
định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, các quy định của pháp luật để xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại, các hình thức và mức bồi thường, những trường hợp miễn
hoặc giảm trách nhiệm bồi thường,... Đồng thời, đối với các cơng trình nghiên cứu về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người mất năng lực hành vi dân sự
gây ra chỉ đề cập đến những khía cạnh khác nhau về vấn đề này mà chưa có cơng trình
nào nghiên cứu một cách tổng thể và tồn diện hoặc có đề cập chi tiết, cụ thể nhưng
vào thời điểm BLDS năm 2005 đang tồn tại hiệu lực pháp lý.
Có thể nói, đề tài “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người

mất năng lực hành vi dân sự gây ra” là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống,
chi tiết theo quy định của BLDS năm 2015. Trong đề tài, ngoài những vấn đề mang
tính lý luận chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tác giả tập
trung nghiên cứu trách nhiệm bồi thường của người giám hộ đối với thiệt hại do người
mất năng lực hành vi dân sự gây ra dưới góc độ văn bản pháp luật; phân tích thực
trạng giải quyết tranh chấp tại Tịa án thông qua các bản án, quyết định; trên cơ sở đó,
tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần hồn thiện pháp luật về vấn đề này.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài được thực hiện với mục đích nhằm làm rõ các quy định của pháp luật về
trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra,
thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tịa án từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm góp phần
hồn thiện pháp luật.
Để đạt được mục đích nghiên cứu nói trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu
sau:
Một là, hệ thống hóa những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người mất năng lực hành vi dân sự gây
ra.
Hai là, tìm hiểu thực tiễn giải quyết các tranh chấp về trách nhiệm bồi thường đối
với thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra tại Tịa án. Từ đó đưa ra một
số kiến nghị nhằm góp phần hồn thiện pháp luật.
Phạm vi nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đề tài “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người
mất năng lực hành vi dân sự gây ra” có rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu. Tuy nhiên,


4

trong khóa luận tốt nghiệp của mình tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các quy định của
pháp luật Việt Nam về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại do

người mất năng lực hành vi dân sự gây ra; đối tượng chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra; các trường hợp không phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người mất năng lực hành vi dân sự gây
ra và thực tiễn giải quyết tranh chấp chủ yếu tại Tòa án.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để hoàn thành đề tài “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do
người mất năng lực hành vi dân sự gây ra” tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau trong đó chủ yếu là phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp khoa học khác như: Tổng hợp,
thống kê, phân tích, so sánh và đối chiếu...
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Giá trị khoa học
Đề tài đưa ra và phân tích một cách tồn diện, có hệ thống cả về lý luận và thực
tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người mất năng lực hành vi
dân sự gây ra tại Việt Nam. Đồng thời cho thấy sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà
nước trong vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích đối với người bị mất năng lực hành vi dân
sự tại Việt Nam. Vì vậy, tác giả hy vọng khóa luận có giá trị tham khảo nhất định cho
những người nghiên cứu, học tập cũng như những người có quan tâm về vấn đề này.
Thực tiễn đề tài
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tác giả thơng qua các tình huống thực tế
của đời sống và một số bản án, quyết định của Tòa án, phân tích những vướng mắc
trong việc áp dụng pháp luật đối với những vụ việc cụ thể, trên cơ sở đó đề ra những
kiến nghị góp phần hồn thiện pháp luật. Chính vì vậy, đề tài này có giá trị áp dụng
trong thực tiễn cao, nhất là đối với các cá nhân, tổ chức, cơ quan có thẩm quyền trong
việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra.
6. Bố cục của đề tài
Khóa luận gồm có phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
Cụ thể phần nội dung bao gồm:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp

đồng do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra
Chương 2: Pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do
người mất năng lực hành vi dân sự gây ra, thực trạng áp dụng và một số kiến nghị


5

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG DO NGƯỜI MẤT NĂNG LỰC
HÀNH VI DÂN SỰ GÂY RA
1.1. Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do
người mất năng lực hành vi dân sự gây ra
1.1.1. Khái quát về người mất năng lực hành vi dân sự
Cá nhân là chủ thể phổ biến nhất tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự.
Khi xem xét tư cách chủ thể của cá nhân thì điều kiện cần và đủ là cá nhân đó phải
có năng lực chủ thể phù hợp với quan hệ pháp luật mà họ tham gia. Ở những mức độ
năng lực chủ thể khác nhau, cá nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật với những tư
cách khác nhau, đồng thời việc hưởng những quyền và thực hiện những nghĩa vụ mà
pháp luật quy định cũng khác nhau. Năng lực chủ thể của cá nhân được xác định bởi
hai yếu tố là năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự.
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng khách quan của cá nhân
được hưởng quyền dân sự và thực hiện nghĩa vụ dân sự. Những quyền và nghĩa vụ
này được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành. Cá nhân có năng lực pháp luật dân sự từ khi sinh ra
và bình đẳng như nhau về khả năng hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ
này. Nói cách khác, các cá nhân không phân biệt độ tuổi, địa vị xã hội, giới tính...
đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau. Yếu tố thứ hai cấu thành nên năng lực
chủ thể của cá nhân là năng lực hành vi dân sự. Nếu năng lực pháp luật dân sự của
cá nhân là khả năng khách quan của cá nhân được hưởng quyền và thực hiện

những nghĩa vụ do pháp luật quy định thì năng lực hành vi dân sự là khả năng chủ
quan của mỗi cá nhân bằng hành vi của chính mình để xác lập, thực hiện những
quyền và nghĩa vụ cụ thể. Mỗi cá nhân lớn lên trong những mơi trường sống, được
ni dưỡng, chăm sóc và giáo dục trong những điều kiện vật chất và tinh thần khác
nhau, do đó những suy nghĩ, mong muốn bên trong (ý chí) và sự nhận thức chủ
quan bên ngồi (lý trí) cũng khác nhau. Khi chủ thể có lý trí để có thể kiểm sốt hành
vi của mình thì khi đó chủ thể được xem là đã có năng lực hành vi dân sự.
Dưới góc độ khách quan, sự nhận thức này của cá nhân sẽ phát triển ở những mức
độ nhất định căn cứ vào độ tuổi và sự phát triển bình thường về mặt thể chất của
họ. Nói cách khác, khi đạt đến một độ tuổi nhất định (với sự phát triển bình thường
về mặt thể chất và tinh thần), cá nhân sẽ dần hoàn thiện về mặt nhận thức và có thể
làm chủ, kiểm sốt được mọi hành vi của mình. Tóm lại, năng lực hành vi dân sự
của mỗi cá nhân khác nhau là khác nhau và việc xác định các mức độ năng lực


6

hành vi dân sự của cá nhân được căn cứ trên cở sở: độ tuổi và khả năng nhận thức,
làm chủ hành vi của cá nhân đó.
Theo quy định tại Điều 22 BLDS 2015:
"Khi một người do bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể
nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi
ích liên quan, hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố là
người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sơ kết luận của giám định pháp y tâm
thần".
Mất năng lực hành vi dân sự là một tình trạng năng lực hành vi dân sự của
cá nhân, bởi lẽ việc xác định một cá nhân rơi vào tình trạng này khơng căn cứ trên
cơ sở sự nhận thức tương ứng với độ tuổi của cá nhân đó mà căn cứ trên những
tiêu chí khác. Dưới góc độ ngôn ngữ học, “mất” được hiểu là “không tồn tại nữa”,
“khơng cịn là của mình, thuộc về mình nữa”. Như vậy, rõ ràng tình trạng mất

năng lực hành vi dân sự đặt ra với những cá nhân đã có năng lực hành vi dân sự,
nhưng vì những nguyên nhân nhất định mà được xác định là khơng cịn khả năng
tự mình xác lập các quyền và thực hiện các nghĩa vụ dân sự nữa. Nguyên nhân này
liên quan trực tiếp đến sự phát triển về mặt thể chất của cá nhân, cụ thể là khi cá
nhân bị mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác dẫn đến mất khả năng nhận thức và
làm chủ hành vi của mình.
Bệnh tâm thần được hiểu là bệnh do rối loạn hoạt động não bộ gây nên
những biến đổi bất thường về lời nói, ý tưởng, hành vi, tác phong, tình cảm...
Triệu chứng bệnh tâm thần có thể ảnh hưởng đến cảm xúc, suy nghĩ và hành vi.
Các bệnh tâm thần điển hình thường gặp như trầm cảm, rối loạn lo âu, tâm thần
phân liệt, rối loạn ăn uống.... Tùy theo từng mức độ rối loạn hoạt động của hệ
thần kinh trung ương (não bộ) mà các cá nhân mắc bệnh có khả năng nhận thức và
kiểm sốt hành vi của mình một cách khác nhau. Theo Bảng phân loại bệnh quốc
tế lần thứ 10 về Các rối loạn tâm thần và hành vi do Tổ chức y tế thế giới xuất bản
năm 1992, hiện nay có đến hơn 300 loại rối loạn tâm thần và hành vi khác nhau. Tuy
nhiên không phải mọi loại rối loạn này đều làm cho cá nhân mắc bệnh rơi vào
tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình. Để xác định chính
xác về tình trạng của cá nhân mắc bệnh thì cần phải có sự tham gia của tổ
chức giám định có chức năng giám định pháp y tâm thần. Khi đó, kết luận y học
cũng như kết luận về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của cá nhân sẽ
được thể hiện cụ thể trong kết luận giám định của giám định viên thuộc các tổ chức
có chức năng giám định pháp y tâm thần theo quy định của pháp luật. Bên cạnh
trường hợp mắc bệnh tâm thần thì cá nhân rơi vào tình trạng mất khả năng nhận
thức và làm chủ hành vi của mình có thể từ nguyên nhân mắc những bệnh khác (ví


7

dụ như cá nhân bị mắc bệnh hiểm nghèo giai đoạn cuối dẫn đến tình trạng “sống
thực vật”, khơng cịn khả năng nhận biết về thế giới xung quanh...).

Bên cạnh tiêu chí về mặt thể chất thì một cá nhân được xác định là mất năng
lực hành vi dân sự cịn căn cứ vào: (i) u cầu của người có quyền, lợi ích liên quan;
(ii) một quyết định có hiệu lực của Tòa án về việc tuyên bố cá nhân đó mất năng
lực hành vi dân sự. Một cá nhân khơng đương nhiên bị coi là rơi vào tình trạng
khơng có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình, trong khi trên thực tế
những cá nhân khác ở độ tuổi tương ứng lại được xác định là có khả năng xác lập
các quyền và thực hiện các nghĩa vụ nhất định. Cá nhân có thể mắc những bệnh
nhất định dẫn đến sự khiếm khuyết về mặt thể chất, tuy nhiên điều đó khơng có
nghĩa cá nhân đó mất đi hoàn toàn sự nhận thức về hành vi và hậu quả của hành vi
mà mình thực hiện. Như đã phân tích ở trên, kết luận về khả năng nhận thức và
điều khiển hành vi của cá nhân khi cá nhân mắc phải một số rối loạn về tâm thần
cần có sự tham gia của tổ chức giám định pháp y tâm thần. Trên cơ sở kết luận của
tổ chức này, cùng với đơn yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan (người có
mối quan hệ về nhân thân hoặc tài sản với người bị mắc bệnh), Tịa án có thẩm
quyền sẽ ra quyết định tun bố cá nhân đó rơi vào tình trạng mất năng lực hành vi
dân sự. Khi đó, cá nhân khơng cịn tư cách chủ thể để tham gia vào các quan hệ
pháp luật nói chung, cũng như quan hệ pháp luật dân sự nói riêng.
Tóm lại, mất năng lực hành vi dân sự là một tình trạng năng lực hành vi dân
sự của cá nhân. Các điều kiện để xác định một cá nhân rơi vào tình trạng này bao
gồm: (i) cá nhân mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác dẫn đến mất khả năng
nhận thức và làm chủ hành vi của mình; (ii) có kết luận của tổ chức giám định
pháp y tâm thần về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của cá nhân đó; (iii)
có đơn u cầu của người có quyền, lợi ích liên quan về việc tuyên bố mất năng
lực hành vi dân sự đối với cá nhân; (iv) có quyết định có hiệu lực pháp luật của
Tịa án có thẩm quyền về việc tuyên bố cá nhân mất năng lực hành vi dân sự. Khi
cá nhân rơi vào tình trạng mất năng lực hành vi dân sự, cá nhân đó được xác định
là mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình, khơng có tư cách tham
gia các quan hệ pháp luật. Việc xác lập quyền cũng như thực hiện nghĩa vụ của cá
nhân này sẽ do người giám hộ của họ thực hiện. Tuy nhiên, khi khơng cịn căn cứ
để xác định cá nhân rơi vào tình trạng mất năng lực hành vi dân sự (cụ thể là khi

người đó chữa khỏi bệnh) thì họ lại có thể trở lại mức độ năng lực hành vi dân
sự phù hợp với độ tuổi và khả năng nhận thức của họ.


8

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do
người mất năng lực hành vi dân sự gây ra
1.1.2.1. Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người
mất năng lực hành vi dân sự gây ra
Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng
Xã hội ln ln là tổng hoà của các mối quan hệ đa dạng và phức tạp và cần đến
sự điều chỉnh của pháp luật. Chính từ sự đa dạng và phức tạp của các quan hệ xã hội
nên yêu cầu pháp luật cũng cần có một cơ chế điều chỉnh đa dạng và phù hợp. Xuất
phát từ đây mà nhiều quan hệ pháp luật đã ra đời trong đó có quan hệ về nghĩa vụ dân
sự.
Trong quan hệ này, khi chủ thể tham gia không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ đã cam kết kể cả thực hiện không đúng nghĩa vụ do pháp luật quy định
thì phải gánh chịu về mình những hậu quả bất lợi. Hậu quả bất lợi này thể hiện thông
qua việc giải quyết “trách nhiệm dân sự” giữa người có quyền với người có nghĩa vụ
và được thực hiện theo nguyên tắc bên có hành vi vi phạm và gây ra thiệt hại sẽ phải
bồi thường.
Các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật phải gánh chịu những hậu quả
bất lợi, họ phải chịu trách nhiệm dân sự do chính những hành vi sai trái của mình.
Hành vi của các chủ thể có thể là vi phạm hợp đồng (không thực hiện, thực hiện không
đúng, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết) hoặc do hành vi vi phạm pháp luật.
Như vậy, trách nhiệm dân sự có thể chia thành hai loại đó là trách nhiệm dân sự theo
hợp đồng và trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng.
Thực tiễn đời sống hàng ngày của chúng ta xảy ra rất nhiều các thiệt hại về tài
sản, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của cá nhân; tài sản, danh dự, uy tín của

tổ chức. Nguyên nhân dẫn đến những thiệt hại này rất đa dạng, có thể là do tác động
của các yếu tố tự nhiên bên ngoài, tác động bởi hoàn cảnh khách quan hay hành vi của
con người…Trong đó phần lớn là do các hành vi trái pháp luật của con người mang
lại. Trước những hành vi xâm phạm tới các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức được pháp luật bảo vệ cho nên nhà nước cần để ra những biện pháp để ngăn chặn
và khắc phục hậu quả. Hiến pháp năm 2013 của nước ta ghi nhận:“ Mọi người có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và
nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử
nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm” 1. Thể chế hoá
các quy định về vấn đề này của Hiến pháp, BLDS Việt Nam 2015 đã quy định :
“Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín,
tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi
1 Khoản 1, Điều 20, Hiến pháp năm 2013


9

thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác” 2. Điều này
có nghĩa là một người nào đó gây thiệt hại cho người khác thì phải có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại, khi một người gây thiệt hại cho người khác sẽ làm phát sinh mối quan
hệ bồi thường thiệt hại giữa họ với người bị thiệt hại. Quan hệ bồi thường thiệt hại này
phát sinh từ hành vi trái pháp luật của một bên chủ thể nhưng giữa các bên khơng có
mối quan hệ hợp đồng hoặc nếu có thì vi phạm này không phải là vi phạm nghĩa vụ đã
cam kết trong hợp đồng, do đó phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng. Vậy trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm phát sinh
giữa các chủ thể mà trước đó khơng có quan hệ hợp đồng hoặc tuy có quan hệ hợp
đồng nhưng hành vi vi phạm của người gây thiệt hại không thuộc về nghĩa vụ chấp
hành hợp đồng đã ký kết.
Khi xem xét những vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp
đồng thì khơng thể khơng nghiên cứu đến các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi

thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Đây được xem là cơ sở lý luận quan trọng làm nền
tảng cho việc phân tích và đánh giá những quy định pháp luật về vấn đề này trong
những phần tiếp theo của khóa luận.
Khái niệm “điều kiện” có thể được định nghĩa trong nhiều tài liệu khác
nhau nhưng điểm chung nhất khi xem xét về điều kiện là việc nhận thức điều kiện
chính là “những yếu tố, những cái cần phải có” để có thể làm phát sinh một hệ quả
nào đó. Như vậy, điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
có thể hiểu là những yếu tố cần phải có (khơng thể thiếu) để phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại giữa các chủ thể khơng có quan hệ hợp đồng, hoặc có quan hệ hợp
đồng nhưng việc bồi thường thiệt hại phát sinh không căn cứ trên thỏa thuận trong hợp
đồng. Để trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh, về cơ bản cần đáp
ứng các điều kiện sau: (i) có thiệt hại xảy ra; (ii) có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật;
(iii) có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi gây thiệt hại; (iv) có lỗi của
người gây thiệt hại.
Có thiệt hại xảy ra, đây là điều kiện đầu tiên và là tiền đề của trách nhiệm bồi
thường bởi lẽ mục đích của trách nhiệm bồi thường là khơi phục lại tình trạng trước
khi xảy ra thiệt hại nên trách nhiệm thường gắn liền với việc bồi thường. Thiệt hại là
những tổn thất thực tế tính thành tiền do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe,
danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức, tổn thất thực tế ở đây chính là sự giảm
sút, mất mát về lợi ích vật chất, tinh thần hay những chi phí bỏ ra để ngăn chặn, hạn
chế, khắc phục thiệt hại mà người bị thiệt hại phải gánh chịu. Như vậy, xét từ bất kỳ
góc độ nào thì hành vi trái pháp luật và gây ra thiệt hại cũng đều xâm phạm đến quan
hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, cho nên, những quy định về bồi thường thiệt hại của
2 Điều 584, BLDS năm 2015


10

pháp luật dân sự đưa ra là hợp lý để kịp thời ngăn chặn những hành vi gây thiệt hại và
buộc những người đã thực hiện hành vi gây thiệt hại đó phải có trách nhiệm bồi

thường. Người đã gây ra thiệt hại thì phải có trách nhiệm bồi thường những tổn thất
mà mình gây ra là hồn tồn đích đáng, nhưng để có một quyết định giải quyết về mức
bồi thường thiệt hại thật chính xác và hợp tình, hợp lý thì người có trách nhiệm giải
quyết cần quan tâm đến tính chất của những hành vi đã gây ra. Pháp luật Việt Nam ghi
nhận hai loại thiệt hại mà người bị thiệt hại có thể được bồi thường: “Thiệt hại bao
gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần”3.
Hành vi trái pháp luật gây thiệt hại được hiểu là những xử sự của con người
dưới dạng hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp luật.
Cần phân biệt giữa hành vi trái pháp luật với hành vi vi phạm điều cấm của pháp
luật. Ở đây, điều cấm của pháp luật được hiểu là những quy định của pháp luật
không cho phép chủ thể được thực hiện những hành vi nhất định. Khi chủ thể thực
hiện những hành vi mà theo quy định của pháp luật là những hành vi khơng được
thực hiện thì khi đó được coi là chủ thể đó có hành vi vi phạm điều cấm của pháp
luật. Nhưng đối với trường hợp có hành vi trái pháp luật thì khơng cần phải có một
quy phạm cấm nào của pháp luật, mà chỉ cần chủ thể thực hiện những hành vi
không đúng, không phù hợp với nội dung mà quy phạm pháp luật đề cập tới thì đã
được coi là có hành vi trái pháp luật. Ví dụ: pháp luật ghi nhận và bảo vệ quyền sở
hữu tài sản của chủ sở hữu, khi đó khơng cần phải có quy phạm pháp luật quy định
những hành vi nào chủ thể không được làm gây ảnh hưởng đến quyền sở hữu này
(điều cấm) mà chỉ cần chủ thể có một hành vi bất kỳ xâm phạm đến quyền sở hữu
(lấy cắp tài sản, hủy hoại tài sản...) thì hành vi của chủ thể đó được xác định là
hành vi trái pháp luật. Phạm vi của hành vi trái pháp luật ở đây không chỉ là trái pháp
luật dân sự mà có thể là trái với quy định pháp luật của những ngành luật
khác, như luật hành chính, luật hình sự... Dưới góc độ là một trong những điều
kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trong một số trường
hợp việc gây ra thiệt hại không xuất phát từ một hành vi của con người mà có thể xuất
phát từ một sự kiện gây thiệt hại nhất định (ví dụ: xe máy đang đi với tốc độ bình
thường nhưng bị đứt phanh và gây thiệt hại; cây cối do mục ruỗng nên đổ, gẫy và gây
thiệt hại...).
Mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật gây thiệt hại, mối

quan hệ nhân quả là sự liên hệ giữa hai hiện tượng trong đó có chứa đựng nguyên nhân
và kết quả. Phải có sự vận động của hiện tượng là nguyên nhân trong những điều kiện
hoàn cảnh cụ thể mới nảy sinh hiện tượng là kết quả. Thiệt hại xảy ra là kết quả của
hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại
3 Mục 1.1, Phần I, Nghị Quyết 03/2006/NQ-HĐTP


11

xảy ra. Xét về nguyên tắc, nguyên nhân phải xảy ra trước kết quả trong khoảng thời
gian xác định và hành vi trái pháp luật là nguyên nhân trực tiếp (nguyên nhân quyết
định đối với thiệt hại xảy ra), có nghĩa là thiệt hại có sẵn trong hành vi. BLDS 2015
quy định “ Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường” 4, ở đây chúng ta có thể thấy hành vi “xâm phạm" đến tính mạng, sức khỏe,
tài sản… là nguyên nhân và thiệt hại là hậu quả của hành vi đó. Sẽ có những trường
hợp hành vi trái pháp luật và thiệt hại tạo thành một chuỗi những nguyên nhân, kết quả
liên tiếp nhau, do đó việc xác định hành vi nào là nguyên nhân gây ra thiệt hại và thiệt
hại nào là kết quả được tạo ra bởi hành vi trái pháp luật là một vấn đề quan trọng để
xác định chính xác trách nhiệm bồi thường. Mặt khác, một kết quả có thể tạo nên từ
nhiều nguyên nhân, cũng như từ một nguyên nhân có thể tạo ra nhiều kết quả khác
nhau, do đó cũng cần xác định hành vi trái pháp luật nào là nguyên nhân trực tiếp
(hoặc nguyên nhân gián tiếp) gây ra thiệt hại và thiệt hại nào là kết quả tất yếu của
hành vi trái pháp luật đã thực hiện, qua đó mới có cơ sở xác định trách nhiệm bồi
thường một cách khách quan.
Có lỗi của người gây thiệt hại, từ điển Tiếng Việt năm 1992 của Viện ngôn ngữ
học đưa ra định nghĩa về lỗi như sau: “Lỗi là điều sai sót, khơng nên, khơng phải
trong cách xử sự, trong hành động”. Đây là cách hiểu thông thường về lỗi trong đời
sống hàng ngày. Định nghĩa này mới mơ tả lỗi ở hiện tượng bề ngồi là xử sự, là hành
động. Dưới góc độ là một thuật ngữ luật học và trong mối liên hệ với vấn đề trách

nhiệm, lỗi được hiểu là yếu tố chủ quan nói lên trạng thái tâm lý của con người, có khả
năng đánh giá và nhận thức được hành vi của mình là đúng hay sai và hậu quả của
hành vi đó. Một hành vi gây thiệt hại cho xã hội sẽ bị coi là có lỗi nếu hành vi đó là kết
quả của sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể trong khi chủ thể có đủ điều kiện
khách quan và chủ quan để tự do lựa chọn và quyết định một xử sự khác phù hợp với
lợi ích của xã hội, Nhà nước, và các chủ thể khác. Như vậy, vấn đề lỗi chỉ được đặt ra
đối với những cá nhân có nhận thức và có khả năng đánh giá được hành vi của mình.
Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân
sự gây ra
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây
ra là một trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực
hành vi dân sự gây ra về cơ bản giống với các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngồi hợp đồng nói chung. Bên cạnh đó, vì là một trường hợp cụ

4 Khoản 1, Điều 584 BLDS 2015


12

thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nên những yếu tố cần
thiết này cũng có những điểm đặc trưng nhất định.
Điều kiện về thiệt hại xảy ra: Thiệt hại vẫn là điều kiện đầu tiên cần phải có
để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự
gây ra. Về cơ bản, những thiệt hại này được xác định bao gồm: thiệt hại về vật chất
và thiệt hại về tinh thần. Trong đó, thiệt hại về vật chất được hiểu là những tổn thất
thực tế mà người bị thiệt hại phải gánh chịu, làm cho những lợi ích vật chất nhất
định của người bị thiệt hại bị giảm sút theo những cách thức khác nhau. Thiệt hại
về vật chất có thể tính tốn được thành một khoản tiền cụ thể, bao gồm các khoản như:
những hư hỏng, mất mát về tài sản, những chi phí bỏ ra để sửa chữa và những thu nhập

bị mất do bị thiệt hại,… Khác với những thiệt hại vật chất có thể tính toán thành một
khoản tiền cụ thể để thực hiện việc bồi thường thì những thiệt hại về tinh thần thực
chất khơng thể tính tốn thành những con số chính xác. Bởi vì những giá trị tinh thần
khơng phải là những đại lượng ngang giá với tiền và không thể định giá được thành
tiền.“Thiệt hại do tổn thất tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm phạm
mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn phiền,
mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm
… và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải
chịu”5.Thông thường, để thuận lợi cho việc bồi thường thì những thiệt hại về tinh thần
này có thể được định lượng thành một khoản tiền nhất định với mục đích để an ủi,
động viên, bù đắp một phần những tổn thương, đau đớn, mất mát mà người bị thiệt hại
hoặc người thân thích của họ phải gánh chịu do hành vi trái pháp luật của người gây
thiệt hại gây nên.
Điều kiện về hành vi trái pháp luật gây thiệt hại: Hành vi trái pháp luật gây
thiệt hại cũng vẫn được hiểu một cách chung nhất là những xử sự của con người,
nhưng những xử sự này đi ngược lại với những nội dung được quy định trong các
quy phạm pháp luật. Hành vi trái pháp luật đóng vai trị là một trong những điều
kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi gây
ra phải là hành vi do chính người mất năng lực hành vi dân sự thực hiện. Dù người
này được xác định là khơng có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình
nhưng việc xâm phạm đến những giá trị đã được pháp luật ghi nhận và bảo vệ như
tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, uy tín, nhân phẩm của cá nhân; tài sản, danh
dự, uy tín của pháp nhân, tổ chức khác thì những hành vi đó vẫn được xác định là hành
vi trái pháp luật, và sẽ phát sinh trách nhiệm bồi thường nếu việc xâm phạm
đó gây ra thiệt hại. Một điểm đặc biệt trong trường hợp trách nhiệm bồi thường
5 Điểm b, Mục 1.1, Phần I, Nghị Quyết 03/2006/NQ-HĐTP


13


thiệt hại do người mất năng lực hành vi gây ra là: trong những hoàn cảnh, điều kiện
cụ thể, ngoài hành vi của người mất năng lực hành vi dân sự trực tiếp gây ra thiệt
hại thì hành vi quản lý khơng tốt của những người có trách nhiệm quản lý người
mất năng lực hành vi dân sự, để người này có điều kiện gây thiệt hại cho chủ thể
khác, cũng là một trong những điều kiện, căn cứ để phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại, xác định chủ thể có trách nhiệm bồi thường. Bởi trong nhiều
trường hợp, việc quản lý người mất năng lực hành vi dân sự hợp lý và hiệu quả sẽ
làm cho người này khơng có điều kiện để có những xử sự trái với quy định của
pháp luật.
Điều kiện về mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi gây thiệt hại
trái pháp luật: Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi
dân sự gây ra, yếu tố nguyên nhân ở đây trước tiên được hiểu là hành vi gây thiệt hại
trái pháp luật của người mất năng lực hành vi dân sự. Như đã phân tích các yếu tố liên
quan đến người mất năng lực hành vi dân sự, rõ ràng người này về mặt nhận thức là
khơng cịn có thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, do đó họ cần có người
thường xuyên ở bên cạnh để quản lý, chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
Việc những người có trách nhiệm quản lý người mất năng lực hành vi dân sự không
làm tốt trách nhiệm của họ trong những trường hợp nhất định có thể tạo điều kiện cho
người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho các chủ thể khác, làm cho thiệt hại
có khả năng xảy ra một cách dễ dàng hơn. Tóm lại, để thỏa mãn điều kiện phát sinh
trách nhiệm bồi thường về “mối quan hệ nhân – quả” thì hành vi của người mất năng
lực hành vi dân sự phải là nguyên nhân gây ra thiệt hại, và thiệt hại xảy ra là kết quả
tất yếu do hành vi của người mất năng lực hành vi tác động đến tài sản, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, uy tín của những chủ thể khác.
Điều kiện về yếu tố lỗi: Như đã phân tích ở trên, lỗi chỉ đặt ra với những người có
khả năng nhận thức và có khả năng đánh giá được hành vi của mình là đúng hay sai so
với địi hỏi của xã hội. Nói cách khác, những người có nhận thức chưa phát triển hoặc
đã có nhận thức nhưng sau đó lại rơi vào trạng thái mất khả năng nhận thức và làm chủ
hành vi của mình thì khơng bị coi là có lỗi khi thực hiện một hành vi nhất định. Điều

này cũng có nghĩa, khi người mất năng lực hành vi dân sự có hành vi gây thiệt hại cho
các chủ thể khác thì người này khơng bị coi là có lỗi khi gây ra thiệt hại.
Như đã phân tích, người mất năng lực hành vi dân sự vì khơng có khả năng
nhận thức và làm chủ hành vi của mình nên việc chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho người này thuộc trách nhiệm của người giám hộ của người đó. Ngồi
ra, người mất năng lực hành vi dân sự cịn có thể được đặt dưới sự quản lý của bệnh
viện hoặc tổ chức khác trong thời gian chữa bệnh để khôi phục lại khả năng
nhận thức và làm chủ hành vi ban đầu của họ. Người giám hộ, bệnh viện, tổ chức


14

khác chữa bệnh cho người này cần phải có trách nhiệm thực hiện việc quản lý đối
với chủ thể không có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi. Trách nhiệm quản lý này
hướng tới mục đích đảm bảo sức khỏe, đời sống của chính những người mất
năng lực hành vi dân sự; đồng thời, cũng hướng tới việc đảm bảo an tồn đối với
các chủ thể khác có khả năng bị ảnh hưởng bởi hành vi của người khơng có khả
năng nhận thức tác động lên. Chính vì yếu tố này, khi người mất năng lực hành vi
dân sự gây thiệt hại, xét về nguyên tắc, các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại đối với họ là không đầy đủ, họ không phải thực hiện việc bồi
thường. Tuy nhiên, trách nhiệm này phát sinh đối với người giám hộ, bệnh viện, tổ
chức chữa bệnh. Bởi vì, những người này được xác định là có lỗi do không làm tốt
nghĩa vụ quản lý người mất năng lực hành vi dân sự, để người này gây thiệt hại
cho chủ thể khác. Tương ứng, nếu các chủ thể quản lý chứng minh được việc quản
lý của mình là tốt, phù hợp, khơng có lỗi liên quan đến việc gây thiệt hại của người
mất năng lực hành vi dân sự thì họ cũng khơng đương nhiên phải thực hiện trách
nhiệm bồi thường.
Từ sự phân tích trên về điều kiện lỗi làm phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng có thể thấy sự khác biệt rất rõ giữa yếu tố lỗi trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra nói chung so với yếu

tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự
gây ra nói riêng. Cụ thể: Yếu tố lỗi trong trường hợp bồi thường thiệt hại do hành
vi của con người gây ra luôn gắn với hành vi gây thiệt hại trái pháp luật của chính
người gây thiệt hại. Nói cách khác, người có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật
được suy đốn là có lỗi vì đã khơng lựa chọn một xử sự khác phù hợp hơn với đòi
hỏi của xã hội. Tuy nhiên, đối với trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự
gây thiệt hại, dù hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật do xâm phạm đến
những giá trị được pháp luật bảo vệ (như tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, uy
tín nhân phẩm của cá nhân và tổ chức) nhưng hành vi này được thực hiện không
do yếu tố lỗi của chính người thực hiện hành vi. Yếu tố lỗi ở đây, được xác định
cho người có trách nhiệm quản lý người đã thực hiện hành vi gây thiệt hại trái
pháp luật. Đây là điểm khác biệt rất lớn khi xem xét về điều kiện phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người mất năng lực hành vi dân sự gây ra nói riêng.
Từ việc nghiên cứu những điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra có thể xây dựng một khái niệm về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra như
sau: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người mất năng lực
hành vi dân sự gây ra là một loại trách nhiệm dân sự mà theo đó người giám hộ


15

hoặc bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý người mất năng lực hành vi dân sự
phải bồi thường thiệt hại về mặt vật chất và tinh thần mà người bị thiệt hại phải
gánh chịu do hành vi trái pháp luật của người mất năng lực hành vi dân sự gây ra,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
1.1.2.2. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người mất năng
lực hành vi dân sự gây ra
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người mất năng lực

hành vi dân sự gây ra là một loại trách nhiệm pháp lý, do đó nó mang đầy đủ đặc
điểm của trách nhiệm pháp lý nói chung như: (i) do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền áp dụng; (ii) luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người bị áp dụng; (iii) được
đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế của Nhà nước. Bên cạnh đó, với tư cách là một
loại trách nhiệm dân sự, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người
mất năng lực hành vi dân sự gây ra cũng mang tính chất tài sản. Điều này thể hiện
ở chỗ, nó ln mang đến một hậu quả bất lợi về tài sản cho người có trách nhiệm
bồi thường. Bởi lẽ, khi có hành vi trái pháp luật gây tổn thất cho người khác thì tổn
thất đó phải tính tốn được bằng tiền hoặc phải được pháp luật quy định là một đại
lượng vật chất nhất định, nếu không, sẽ không thể thực hiện được việc bồi thường.
Do đó, những thiệt hại liên quan đến yếu tố tinh thần dù khơng thể tính toán được
một cách ngang giá thành tiền nhưng cũng sẽ được xác định theo quy định của
pháp luât với mục đích bù đắp một phần nào những tổn thất mà người bị thiệt hại
hay thân nhân của người bị thiệt hại phải gánh chịu.
Bên cạnh những đặc điểm chung, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra cịn có đặc điểm riêng thể
hiện ở nội dung chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường. Thông thường, đối với những
trường hợp bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra thì chủ thể
có trách nhiệm phải bồi thường chính là chủ thể có hành vi gây thiệt hại. Tuy
nhiên, trong trường hợp người gây ra thiệt hại được xác định là người đã bị Tòa án
tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự thì khơng thể áp dụng giống trường hợp
chung. Người này xét về mặt tư cách pháp lý là khơng có tư cách chủ thể để tham
gia các quan hệ pháp luật dân sự một cách độc lập, đồng thời về mặt tố tụng cũng
không có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Như đã trình bày ở phần trên, người mất
năng lực hành vi dân sự khơng thể kiểm sốt được bất kỳ hành vi nào của mình khi
tham gia vào các quan hệ pháp luật, do đó việc họ có hành vi gây thiệt hại cho
người khác là hồn tồn có thể xảy ra. Trong trường hợp người mất năng lực hành
vi dân sự gây thiệt hại cho người khác thì hành vi gây thiệt hại đó được coi là
khơng có lỗi, bởi lẽ họ khơng có nhận thức cá nhân về hành vi mình thực hiện là
đúng hay sai, cũng như khơng có thái độ tâm lý về hậu quả của hành vi đó. Do



16

vậy, dù hành vi của những người này có gây ra thiệt hại cho người khác về mặt vật
chất cũng như về mặt tinh thần thì họ đều khơng phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại. Trong trường hợp này, người giám hộ hoặc bệnh viện, tổ chức trực tiếp
quản lý người mất năng lực hành vi dân sự này sẽ có trách nhiệm bồi thường, tùy
từng hồn cảnh cụ thể.
1.2. Ý nghĩa quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra
Quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực
hành vi gây ra có ý nghĩa về mặt pháp lý cũng như ý nghĩa xã hội quan trọng, góp
phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho những cá nhân, tổ chức và các chủ thể
khác trong xã hội. Cụ thể:
Thứ nhất, quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do
người mất năng lực hành vi dân sự gây ra đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc áp dụng pháp luật để bảo vệ quyền lợi
của người bị thiệt hại. Với việc quy định các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường, nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm bồi thường cũng như
cách xác định thiệt hại, thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại... giúp cho
các cơ quan áp dụng pháp luật thuận lợi hơn trong việc giải quyết những yêu cầu
bồi thường thiệt hại liên quan đến hành vi gây thiệt hại của con người nói chung,
cũng như người mất năng lực hành vi dân sự nói riêng.
Thứ hai, pháp luật luôn ghi nhận và bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của
các cá nhân, tổ chức... do đó, khi những chủ thể này bị xâm phạm về tài sản, tính
mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm thì cần thiết phải có những chế tài nhất
định để bảo vệ và khôi phục lại những giá trị vật chất cũng như giá trị tinh thần mà chủ
thể bị thiệt hại phải gánh chịu. Quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra tạo cơ sở pháp lý cho việc khắc phục và

bù đắp những tổn thất về vật chất và tinh thần cho người bị thiệt hại, tạo tâm lý ổn
định hơn cho các chủ thể trong xã hội khi có cơ sở để chắc chắn rằng những thiệt hại
về vật chất và thiệt hại về tinh thần của họ sẽ được khơi phục và bù đắp một cách tồn
bộ và kịp thời nhất có thể.
Thứ ba, người mất năng lực hành vi dân sự khơng có nhận thức về hành vi cũng
như hậu quả của hành vi do họ thực hiện, do đó, những thiệt hại do hành vi của người
mất năng lực hành vi dân sự gây ra xuất phát hồn tồn từ vơ thức của họ. Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại không phát sinh đối với người mất năng lực
hành vi dân sự mà phát sinh đối với người giám hộ hoặc bệnh viện, tổ chức khác –
những chủ thể có nghĩa vụ chăm sóc, bảo vệ quyền lợi hoặc trực tiếp quản lý người
mất năng lực hành vi dân sự. Việc quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người


17

mất năng lực hành vi dân sự gây ra còn có ý nghĩa trong việc giúp người
giám hộ, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý người mất năng lực hành vi dân
sự ý thức được những hậu quả pháp lý bất lợi mà mình sẽ có thể phải gánh chịu. Qua
đó, nâng cao trách nhiệm của những chủ thể này trong việc chăm sóc,
quản lý người mất năng lực hành vi dân sự một cách hiệu quả, không để họ xâm
phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của những chủ thể khác trong xã hội.
1.3. Sơ lược quá trình phát triển quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra
Chế định BTTH ngoài hợp đồng là một trong những chế định có lịch sử lâu đời
của pháp luật dân sự, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác nhằm duy trì, bảo đảm trật tự, an ninh xã
hội. Trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, ở những nước khác nhau có những quy
định khác nhau về cách thức bồi thường, cũng như mức độ bồi thường. Nhưng pháp
luật cũng như tập quán đều ghi nhận một nguyên tắc chung nhất là người gây ra thiệt
hại phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại.

Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng ở Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn trong
lịch sử, từ sự phân biệt giữa hình phạt nhằm mục đích trừng trị thơng qua các Bộ Cổ
luật (Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật Gia Long) đến tiền bồi thường nhằm mục đích đền bù
thiệt hại như hiện nay là cả một quá trình dài trải qua nhiều giai đoạn:
Trong giai đoạn đầu: Khi tổ chức quyền lực (nhà nước) còn non trẻ, chưa thiết
lập tổ chức tòa án, mỗi khi bị xâm phạm về quyền lợi, cá nhân được phép tự ý trả thù
để trừng trị đối phương bằng cách làm cho đối phương phải bị thiệt hại tương tự hoặc
bắt đối phương làm nô lệ, hay lấy tài sản của họ. Ví dụ: nạn nhân bị một người nào đó
làm cho gãy tay thì sẽ buộc người gây thiệt hại đưa tay cho mình làm gãy lại y như
vậy. Đây là chế độ trả thù tư hay cịn gọi nơm na là “ăn miếng, trả miếng”.
Trong giai đoạn thứ hai, ý niệm trả thù tư lu mờ dần bởi lẽ người bị thiệt hại
ngày càng cảm nhận rằng việc đánh đập hay giết người đã gây thiệt hại cho mình để hả
cơn giận khơng hay bằng việc đòi một số tiền bồi thường để thêm vào tài sản của
mình. Cịn về phía người gây thiệt hại cũng hy vọng được nộp một số tiền cho nạn
nhân để tránh sự trả thù. Đây là chế độ tự ý dàn xếp và nó thay đổi tùy cá nhân, tùy
trường hợp.
Trong giai đoạn tiếp theo, khi hệ thống pháp luật đã được hình thành dần dần
cùng với việc thiết lập và hoàn thiện bộ máy nhà nước, số tiền bồi thường thiệt hại với
tính chất như tiền dàn xếp bị quyền lực công dần dần giành lấy quyền ấn định và dàn
xếp, vừa nhằm ổn định trật tự xã hội vừa nhằm thể hiện quyền lực cai trị xã hội của
mình. Lúc này, số tiền đó vừa được coi như một hình phạt, vừa như một khoản bồi
thường.


18

Ở giai đoạn hiện nay, khi quyền tự do cá nhân được khẳng định, khi có sự phân
chia tương đối giữa luật công và luật tư, công quyền chỉ ưu tiên giành quyền can thiệp
để trừng phạt những tội phạm có hành vi nguy hiểm cho xã hội nên khơng xem số tiền
bồi thường này như tiền phạt nhằm trừng trị nữa. Dần dần, trách nhiệm bồi thường mất

đi tính như là một hình phạt mà chỉ cịn là một khoản bồi thường, cá nhân mất hết
quyền trả thù tư mà chỉ có quyền xin bồi thường thiệt hại về mặt dân sự. Ở Việt Nam,
bồi thường thiệt hại hiện nay được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự, theo đó người
có hành vi gây ra thiệt hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình
gây ra.


19

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Trong phạm vi Chương 1, tác giả trình bày một cách khái quát các vấn đề lý luận
chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người mất năng lực hành
vi dân sự gây ra, thơng qua việc phân tích các khái niệm, đặc điểm, các căn cứ áp dụng
của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tạo tiền đề cho việc nghiên cứu, đánh giaa
thực tiễn áp dụng pháp luật một cách toàn diện để đề xuất những kiến nghị phù hợp
nhằm hoàn thiện chế độ bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây
ra ở Việt nam.


20

Chương 2
PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP
ĐỒNG DO NGƯỜI MẤT NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ GÂY RA, THỰC
TRẠNG ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
2.1. Quy định về trường hợp phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người
mất năng lực hành vi dân sự gây ra
2.1.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng
lực hành vi dân sự gây ra
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và trách nhiệm bồi

thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra nói riêng
là một loại trách nhiệm pháp lý, do đó chỉ phát sinh khi thỏa mãn các điều kiện do
pháp luật quy định. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng là những yếu tố, những cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường, người phải bồi
thường, người được bồi thường và mức độ bồi thường. Các điều kiện phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại phải được xem xét trong mối quan hệ biện chứng, thống
nhất và đầy đủ.
Pháp luật dân sự không quy định cụ thể về điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra, mà chỉ
quy định điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng nói
chung. Do đó, điều kiện phát sinh quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được
áp dụng để xác định điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng do người mất năng lực hành vi dân sự gây ra. Trên cơ sở quy định tại Điều 584,
BLDS 2015 và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tịa án
nhân dân tối cao thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi
thỏa mãn các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, có thiệt hại xảy ra. Đây là tiền đề của trách nhiệm bồi thường bởi lẽ
mục đích của trách nhiệm bồi thường là khơi phục lại tình trạng trước khi xảy ra thiệt
hại nên trách nhiệm thường gắn liền với việc bồi thường.
Thứ hai, có hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật. Mọi cơng dân đều có
quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và
lợi ích hợp pháp khác; mọi hành vi xâm phạm đến quyền này đều là trái pháp luật, dù
là lỗi cố ý hay vô ý, thậm chỉ cả trường hợp khơng có lỗi.
Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại xảy ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi thiệt hại xảy ra là do chính kết quả
trực tiếp, tất yếu của hành vi trái pháp luật. Đó là mối quan hệ của sự vận động nội tại
theo quy luật nguyên nhân phải xảy ra trước kết quả trong khoảng thời gian xác định.
Thứ tư, người gây thiệt hại có lỗi.



21

2.1.1.1. Có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại là một trong những điều kiện đầu tiên làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngồi hợp đồng nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người mất năng lực hành vi dân sự gây ra nói riêng. Bởi lẽ suy cho cùng, ý nghĩa của
việc quy định trách nhiệm bồi thiệt hại ngoài hợp đồng là để nhằm khắc phục và bù
đắp những tổn thất nhất định về mặt vật chất cũng như về mặt tinh thần mà người bị
thiệt hại phải gánh chịu. Thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất
về tinh thần, khi có thiệt hại xảy ra thì thiệt hại này có thể dễ dàng tính tốn, quy đổi
thành tiền nếu đó đơn thuần là thiệt hại về vật chất. Tuy nhiên, thiệt hại xảy ra có thể là
những tổn thất về tinh thần, mà bản chất của thiệt hại này mang những đặc điểm riêng
biệt, do vậy việc phân chia và nghiên cứu rõ hai loại thiệt hại này sẽ giúp cho việc xác
định bồi thường thiệt hại tiến hành được chính xác hơn, thuận tiện hơn.
 Thiệt hại về vật chất
Điều đầu tiên phải khẳng định rằng thiệt hại về vật chất là thiệt hại có thể tính
tốn, định lượng ra tiền được. Thiệt hại về vật chất được hiểu là những giảm sút, mất
mát về lợi ích vật chất mà thực tế người bị thiệt hại phải gánh chịu. Quyền địi bồi
thường vì bị thiệt hại chỉ có thể được thực hiện với một số điều kiện: (i) thiệt hại phải
chắc chắn có; (ii) thiệt hại phải thực tế; (iii) thiệt hại chưa được bồi thường. Thiệt hại
phải chắc chắn, nghĩa là người bị thiệt hại phải đưa ra được những thiệt hại mà mình
phải gánh chịu và những thiệt hại đó có thể tính tốn được. Thiệt hại đó phải thực tế,
tuy nhiên tính thực tế của thiệt hại được biểu hiện không nhất thiết phải là thiệt hại đã
xảy ra, bởi lẽ một thiệt hại trong tương lai (thiệt hại gián tiếp) cũng được coi là có tính
thực tế nếu chắc chắn rằng nó sẽ xảy ra và có thể ước lượng trước được. Do vậy mà
hậu quả tương lai của một thiệt hại thực tế cũng có thể được xem xét để định ra mức
bồi thường. Đương nhiên một thiệt hại không chắc chắn và chỉ mang tính giả định thì
khơng thể được xem xét để bồi thường. Đồng thời, nếu một thiệt hại đã được bồi
thường rồi thì người bị thiệt hại khơng thể khởi kiện để đòi bồi thường một lần nữa.
Theo đó, Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP cũng đã quy định thiệt hại về vật chất

bao gồm: “Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm quy định tại Điều 589 BLDS 2015; thiệt
hại do sức khỏe bị xâm phạm quy định tại Điều 590 BLDS 2015; thiệt hại do tính
mạng bị xâm phạm quy định tại Điều 591 BLDS 2015; thiệt hại do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm quy định tại điều 592 BLDS 2015”6.
- Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm
Hiến pháp năm 2013 có quy định: “Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp
pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong

6 Điểm a, Mục 1.1, Phần I, Nghị Quyết 03/2006/NQ-HĐTP


22

doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác” 7, đồng thời BLDS 2015 cũng quy
định: “Khơng ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái luật quyền sở hữu, quyền khác đối
với tài sản”8. Như vậy, khi một người có hành vi nhất định xâm phạm đến tài sản của
chủ thể khác, dẫn đến việc thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản của chủ thể này bị
ảnh hưởng thì sẽ phải bồi thường những thiệt hại xảy ra do hành vi của mình. Nói cách
khác, khi tài sản của một chủ thể bị xâm phạm và bị thiệt hại bởi hành vi trái pháp luật
của người mất năng lực hành vi dân sự thì họ sẽ được bồi thường những thiệt hại mà
mình phải gánh chịu. Cơ sở pháp lý cho việc xác định thiệt hại do tài sản bị xâm phạm
được quy định tại Điều 589 BLDS năm 2015, theo đó thiệt hại bao gồm: (i) tài sản bị
mất, bị hủy hoại, hư hỏng; (ii) lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị
mất, bị giảm sút; (iii) chi phí hợp lý để hạn chế, ngăn chặn, khắc phục thiệt hại; (iv)
thiệt hại khác do luật quy định.
Tài sản bị mất được hiểu là tài sản khơng cịn nằm trong sự nắm giữ và
quản lý của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp tài sản đó nữa, đồng thời
khơng thể tìm lại được tài sản để tiếp tục thực hiện các quyền đối với tài sản. Tài
sản bị hủy hoại được hiểu là tài sản đã bị thiệt hại một cách nặng nề, không thể sửa
chữa hay khắc phục thiệt hại được nữa. Nói cách khác, chủ sở hữu khơng thể thực

hiện được việc khai thác tính năng cũng như công dụng của tài sản. Trong cả hai
trường hợp này, việc bồi thường đều được xác định là bồi thường toàn bộ giá trị
của tài sản. Khác với trường hợp tài sản bị mất hoặc bị hủy hoại, tài sản bị hư hỏng
được hiểu là trường hợp tài sản chỉ bị thiệt hại một hoặc một số bộ phận, việc khắc
phục thiệt hại vẫn có thể giúp cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp tài sản
khai thác được cơng dụng và tính năng sử dụng của tài sản. Việc bồi thường thiệt
hại về tài sản trong trường hợp này được xác định là những chi phí để sửa chữa,
phục hồi tài sản. Nghị quyết số 03/2006/ NQ-HĐTP chỉ hướng dẫn về trường hợp xác
định thiệt hại do sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà
khơng có hướng dẫn về việc xác định thiệt hại do tài sản bị xâm phạm. Do đó, nếu chỉ
căn cứ vào quy định tại Khoản 1, Điều 589 BLDS năm 2015 quy định “tài sản bị
mất”; “tài sản bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng” thì sẽ rất khó để xác định thiệt hại trong
từng trường hợp cụ thể. Bởi lẽ, đa số các trường hợp, những tài sản bị xâm phạm đến
đều qua quá trình sử dụng cũng như đã có những hao mịn, giảm sút giá trị nhất định.
Mặt khác, chủ thể bị thiệt hại và chủ chịu trách nhiệm bồi thường lại đứng về hai phía
có lợi ích đối lập nhau. Bên bị thiệt hại luôn muốn thiệt hại được xác định ở mức cao
nhất, cịn bên có trách nhiệm bồi thường lại chỉ muốn xác định thiệt hại sao cho thiệt
hại ở mức thấp nhất có thể. Việc định giá của tài sản để bồi thường sẽ căn cứ vào giá
7 Khoản 1, Điều 31, Hiến pháp 2013
8 Khoản 1, Điều 163 BLDS 2015


×