Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Hát kể sử thi - Tiềm năng du lịch văn hóa dân gian của tộc người thiểu số Tây Nguyên: Trường hợp hát kể sử thi Mơ Nông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.49 KB, 7 trang )

HÁT KỂ SỬ THI - TIỀM NĂNG DU LỊCH VĂN HÓA DÂN GIAN
CỦA TỘC NGƢỜI THIỂU SỐ TÂY NGUYÊN:
TRƢỜNG HỢP HÁT KỂ SỬ THI MƠ NÔNG
Hà Thị Thới
Trƣờng Cao đẳng Sƣ phạm Tây Ninh
Email:

TÓM TẮT
Sử thi Tây Nguyên (sử thi Mơ Nơng) là vốn văn hóa di sản phi vật thể cần đƣợc bảo
tồn một cách cấp thiết. Trong phạm vi bài viết này, bằng phƣơng pháp nghiên cứu tài
liệu và phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành, chúng tôi đề xuất một giải pháp bảo tồn
sử thi dƣới dạng một tiềm năng du lịch văn hóa dân gian theo hình thức “slow
tourism27”.
Từ khóa: Sử thi, di sản văn hóa phi vật thể, du lịch, du lịch văn hóa dân gian.
1 TỔNG QUAN
Sử thi là một loại hình văn học dân gian đặc biệt, có hình thức của lời nói vần, thơ ca
nhƣng lại có nội dung mang tính tự sự. Sử thi xét trên phạm vi thế giới đƣợc xếp vào
hàng loại hình văn học dân gian có số lƣợng ít và phân bố khơng đều giữ các quốc gia,
dân tộc. Ở Việt Nam, cho đến thời điểm hiện tại, sử thi chỉ mới đƣợc phát hiện ở một
số ít tộc ngƣời ở Tây Bắc và Tây Nguyên.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi không đi sâu vào đặc điểm loại hình nghệ thuật
của sử thi mà chúng tôi tiếp cận sử thi với tƣ cách là một tài ngun mang tính tiềm
năng của du lịch văn hóa dân gian. Cho nên, chúng tôi chỉ điểm qua các cơng trình có
phạm vi nghiên cứu gần với phạm vi của bài viết.
Trong 2 cơng trình Văn hóa cổ truyền Mơ Nông và sự biến đổi trong xã hội đương đại
(2018) và Vai trị của văn hóa truyền thống các tộc người bản địa Tây Nguyên đối với
sự phát triền bền vững vùng (2019), tác giả Đỗ Hồng Kỳ, có bàn đến thực trạng về đời
sống của sử thi trong cộng đồng ngƣời Mơ Nông dƣới sự tác động của q trình hiện
đại hóa kinh tế, xã hội, văn hóa. Tác giả đƣa ra giải pháp chân dung hóa các nhân vật
anh hùng trong sử thi, và phát triển các câu lạc bộ sử thi để kéo dài đời sống của sử
thi và đem sử thi đến gần với nhận thức của tộc ngƣời Mơ Nơng ngày nay. Trong sự


nhìn nhận của tác giả, sử thi chỉ là một loại hình nghệ thuật dân gian cần đƣợc bảo
tồn, chứ chƣa phải là một loại tài nguyên của du lịch văn hóa dân gian.

27

Tạm dịch là du lịch chậm”.

107


2 PHƢƠNG PHÁP
Để tiến hành nghiên cứu, chúng tôi thực hiện bằng hai phƣơng pháp chính đó là
phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành. Phƣơng
pháp nghiên cứu tài liệu dùng để hệ thống và phân tích các tài liệu về sử thi Mơ Nơng
đã đƣợc xuất bản, và cũng cho chúng tôi một cái nhìn tổng quan rằng chƣa có một
kết quả nghiên cứu nào về tiềm năng du lịch văn hóa dân gian “hát kể sử thi” của tộc
ngƣời thiểu số Tây Nguyên nói chung và tộc ngƣời Mơ Nơng nói riêng. Từ nhiệm vụ
nghiên cứu đặt ra, chúng tôi sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành giữa văn
học, văn hóa và kinh tế - du lịch, để nhìn thấy đƣợc mối tƣơng quan giữa chúng, và
tìm ra đƣợc một con đƣờng cho sự bảo tồn sử thi (Tây Nguyên) – một nhiệm vụ cấp
thiết và sự phát triển kinh tế đời sống tộc ngƣời.
3 KẾT QUẢ/THẢO LUẬN
Du lịch văn hóa dân gian (folklore tourism) là một khái niệm đã đƣợc nhiều nƣớc trên
thế giới đề cập, và ở Việt Nam, chúng ta cũng đang phát triển hình thức du lịch này để
tận dụng các lợi thế về tiềm năng văn hóa dân gian nhằm phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, hình thức du lịch này vẫn đang là vấn đề buộc những nhà phát triển du lịch
phải đầu tƣ và sáng tạo hơn nữa bởi chúng chƣa đƣợc khơi dậy tiềm năng phát triển
nhƣ chúng vốn có.
Thực trạng đời sống sử thi của tộc ngƣời Mơ Nông
Tộc ngƣời Mơ Nơng có khoảng 89 nghìn ngƣời, cƣ trú tập trung ở các huyện Chƣ Jut,

Đắk Min, Đắk Sông, Kiến Đức, Tuy Đức, Krơng Nơ, tỉnh Đắk Nơng. Ngồi ra ngƣời Mơ
Nơng ở Việt Nam cịn sinh sống ở các vùng thuộc tỉnh Đắk Lắk, Lâm Đồng và Bình
Phƣớc. Ngƣời Mơ Nơng có các nhóm địa phƣơng là Prech, Biăt, Nong, Bu Nơi, Đip,
Rơ Ong, Gar, Rlâm, Kuêng, Prâng. Ngƣời Mơ Nông theo chế độ song hệ, tuy nhiên,
yếu tố mẫu hệ nổi trội hơn. Mỗi gia tộc sống trong ngôi nhà dài tới 40 - 50 m. Trong
nhà chia làm nhiều gian. Ngồi gian chung cho bố mẹ và cơ gái út ở ra, còn những
gian khác là một tiểu gia đình trong gia tộc sinh sống. Mỗi tiểu gia đình có bếp và bồ
lúa riêng. Điều hành đại gia đình mẫu hệ là ngƣời đàn bà cao tuổi nhất. Họ làm đổi
cơng, giúp đỡ nhau khi khó khăn, hoạn nạn. Khi có việc chung các tiểu gia đình có
trách nhiệm đóng góp và hƣởng thụ nhƣ nhau. (Đỗ Hồng Kỳ : 2019; tr. 14, 15).
Sử thi Mơ Nông phân bố chủ yếu ở các huyện Đắk Mil, Đắk Song, Tuy Đức, Kiến Đức
(Đắk Nơng), Bù Đăng (Bình Phƣớc). Trong đó “xứ Bu Prâng”28 là cái nơi của kho tàng
sử thi đồ sộ và phong phú này. (Đỗ Hồng Kỳ : 2018; tr. 156).
Sử thi Mơ Nông đƣợc giới nghiên cứu đánh giá là kho tàng sử thi đồ sộ vào bậc nhất
thế giới. Tộc ngƣời Mơ Nông sở hữu khoảng 200 sử thi. Đó là một hệ thống bức tranh
tồn cảnh về khơng gian địa lý, lịch sử, hoạt động kinh tế, xã hội, tín ngƣỡng văn hóa
của ngƣời Mơ Nông trong mối quan hệ mật thiết và tƣơng hỗ với thế giới thần linh.
Không chỉ phản ánh thế giới vật chất mà còn phản ánh thế giới tinh thần sống động
của tộc ngƣời Mơ Nông. Ngƣời Mơ Nông ln muốn mình là những hậu duệ thừa
hƣởng nét đẹp, sắc vóc, tính cách anh hùng, quả cảm của những cô gái, chàng trai
28

Nay thuộc xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông.

108


đƣợc nhắc đến trong sử thi. Với ngƣời Mơ Nông, những nhân vật trong sử thi không
phải là những vị thần linh với một khoảng cách cao xa mà chính là tổ tiên của họ,
những con ngƣời đã sáng lập ra làng bon và đời sống sản xuất vật chất của họ.

Ở Tây Nguyên từng tồn tại kho tàng sử thi “sống”. Trƣớc năm 1986, nhất là trƣớc năm
1975, việc diễn xƣớng sử thi ở các buôn làng Ê Đê, Ba Na, Mơ Nông,… gần nhƣ
thƣờng xuyên diễn ra. Sau năm 1986, nhất là trong thời gian gần đây việc diễn xƣớng
sử thi đã suy giảm trầm trọng. Hiện nay, việc hát kể sử thi trong buôn làng đồng bào
các tộc ngƣời thiểu số tại chỗ Tây Nguyên gần nhƣ khơng cịn diễn ra nữa. (Đỗ Hồng
Kỳ : 2019; tr. 214).
Ngƣời Mơ Nông hát kể sử thi ở ba địa điểm: Trong nhà, trên rẫy, trong rừng. Nhƣng
trong những năm gần đây, môi trƣờng sử thi đã bị thu hẹp, thậm chí là thay đổi và
khơng cịn. Tình trạng diện tích rừng thu hẹp, họ khơng cịn đi săn bắn nhƣ trƣớc, nên
khơng cịn ở lại qua đêm trong rừng; nhà cửa cũng hiện đại hóa theo ngƣời kinh nên
hát kể sử thi hầu nhƣ đã vắng bóng. Nhất là ngƣời Mơ Nông theo tôn giáo Tin Lành và
các tôn giáo khác, tƣ duy tín ngƣỡng của họ đã có sự thay đổi và chịu sự tác động lớn
từ tôn giáo nên niềm kính tín dành cho các bậc tổ tiên, các vị anh hùng đã chìm sâu
vào ẩn ức.
Theo thời gian, các nghệ nhân biết hát kể sử thi Mơ Nơng khơng cịn nữa hoặc đã già
yếu, lớp trẻ chƣa đƣợc truyền dạy hoặc là khơng có niềm đam mê với hát kể sử thi
nên không chịu học, chỉ riêng Điểu Thị Mai con gái của nghệ nhân, dịch giả tiếng Mơ
Nông ra tiếng Việt Điểu Kâu (mất năm 2008) ở xã Đăk Ndung, huyện Đăk Song, tỉnh
Đăk Nông là cịn nặng nợ với sử thi Mơ Nơng.
Nhƣ vậy, sử thi của tộc ngƣời Mơ Nông đang mất dần đời sống tự nhiên của nó. Nhận
thấy đƣợc tính cấp thiết, nên nhiều dự án cấp Nhà nƣớc, cấp Bộ đã đƣợc tiến hành,
nhằm lƣu giữ sử thi - vốn di sản văn hóa phi vật thể của tộc ngƣời Mơ Nơng nói riêng
và đất nƣớc nói chung. Năm 2001, dự án Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và
xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên đƣợc triển khai (2001 – 2007), kết quả tính đã
xuất bản đƣợc 26 tác phẩm sử thi. Ngồi ra cịn có các cơng trình sƣu tầm sử thi khác
đã đƣợc xuất bản: Sử thi cổ sơ M’ Nông (Đỗ Hồng Kỳ, Điểu Kâu biên soạn, Nxb. Khoa
học Xã hội, HN, 1993); Cây nêu thần (Tấn Vịnh, Điểu Kâu sƣu tầm và biên soạn, Sở
Văn hóa – Thơng tin Đắc Lắc, 1994); Mùa rẫy bon Tiăng (Điểu Kâu, Tấn Vịnh, Sở Văn
hóa – Thông tin Đắc Lắc, 1996); Sử thi thần thoại M’ Nông (Đỗ Hồng Kỳ, Điểu Kâu, Nơ
Yu, Đăm Pơ Tiêu, Nxb. Văn hóa Dân tộc, HN, 1997); Kể dịng con cháu mẹ Chếp

(Trƣơng Bi sƣu tầm, Điểu Kâu dịch, Sở Văn hóa – Thơng tin Đắc Lắc, 2003); Tiăng
bán tượng gỗ (Trƣơng Bi sƣu tầm, Điểu Kâu dịch, Sở Văn hóa – Thơng tin Đắc Lắc,
2003)29.
Bên cạnh đó, cịn có hai đề tài cấp Bộ: Sử thi Tây Nguyên với cuộc sống đương đại –
thực trạng, triển vọng và giải pháp do GS.TSKH. Phan Đăng Nhật chủ nhiệm (2006);
Một phƣơng thức đƣa sử thi Tây Nguyên trở về với cộng đồng các dân tộc Tây
Nguyên do GS.TS. Nguyễn Xuân Kính làm chủ nhiệm (2008).

29

Tham khảo bài viết “Nhìn lại quá trình sƣu tầm, nghiên cứu sử thi Mơ Nơng in trong sách Trên đường tìm hiểu
văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam của tác giả Nguyễn Xuân Kính, Tr. 161.

109


Du lịch văn hóa dân gian và hình thức phát triển
Trong thời đại ngày nay, với sự phát triển nhƣ vũ bão của công nghệ, đời sống đô thị
đang trên đà chèn ép cuộc sống xanh của con ngƣời. Với guồng quay của cơng việc,
sự ơ nhiễm khói bụi, tiếng ồn, ánh sáng,… khiến cho chúng ta nhƣ mất dần đời sống
vốn có. Do đó, ngƣời ta tìm đến du lịch nhƣ một “lối thốt” để tìm lại cuộc sống. Trong
các chuyến đi, du khách muốn đi đến những nơi khác, dù là chỉ trong một thời gian
ngắn, để thoát khỏi cuộc sống thƣờng nhật, và đồng thời tìm cho mình một mơi trƣờng
thay thế đƣợc xem là có những cảnh quan thiên nhiên hoang sơ và những nền văn
hóa kỳ lạ và hấp dẫn30. (Dr Greg Richards : 2000; tr. 43).
Có nhiều loại hình du lịch nhƣng gần đây, ngƣời ta đặc biệt chú trọng đến du lịch văn
hóa. Nhƣng văn hóa đây là văn hóa sống, chứ khơng phải là những đền đài sừng sững
với thời gian, nó thuộc về loại hình du lịch văn hóa dân gian. Vậy du lịch văn hóa dân
gian là gì? Đó là một chuyến du lịch có mục đích đến bối cảnh chính của các buổi biểu
diễn văn hóa dân gian để tham quan và nhận thức một loại hình văn hóa dân gian cụ

thể, một cách cẩn trọng không làm gián đoạn cuộc sống vốn có của đời sống văn hóa
dân gian. Ở đây, khách du lịch nƣớc ngoài hoặc bản địa là những vị khách trả tiền
chính cho ngƣời dân địa phƣơng. Chủ nhà hoặc ngƣời thân ở bản địa sẽ làm hƣớng
dẫn viên du lịch31. (Pecsek : 2016; tr. 1).
Nguồn du khách của loại hình du lịch văn hóa dân gian mang tính đa dạng, có thể
phân chia du khách thành các nhóm: (1). Du khách là những nhà nghiên cứu văn hóa
dân gian; (2). Du khách là những ngƣời ham học hỏi văn hóa dân gian; (3). Du khách
là những ngƣời yêu thích văn học dân gian; (4). Du khách là những ngƣời xem văn
hóa dân gian nhƣ một điều khác lạ mang tính giải trí. Việc phân khúc du khách đem lại
tác động lớn trong việc thiết kế hành trình du lịch văn hóa dân gian đạt hiệu suất cao
hơn với việc đánh đồng du khách. Thao tác thống kê loại du khách hàng năm sẽ đem
lại cho các nhà đầu tƣ, phát triển du lịch một tầm nhìn chiến lƣợc sáng tạo nhằm thúc
đẩy sự phát triển của loại hình du lịch văn hóa dân gian, nhất là du lịch văn hóa dân
gian tộc ngƣời thiểu số. Việc đem văn hóa dân gian tộc ngƣời quảng bá và đến gần
với du khách nhƣ một động tác đính chính vẻ đẹp bản sắc văn hóa tộc ngƣời. Rằng
khơng có văn hóa tộc ngƣời nào cao hơn, đẹp hơn mà mỗi văn hóa một tộc ngƣời đều
có những nét đặc trƣng trong chỉnh thể hệ thống văn hóa thế giới.
Hát kể sử thi của tộc người Mơ Nông – một tiềm năng phát triển du lịch văn hóa
dân gian và những giải pháp phát triển với hình thức “slow tourism”32
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật
thể và khơng gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản
sắc của cộng đồng, không ngừng đƣợc tái tạo và đƣợc lƣu truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác33. Sử thi
Tây Ngun nói chung, sử thi Mơ Nơng nói riêng là di sản văn hóa phi vật thể cần phải
đƣợc bảo tồn và lƣu giữ. Sử thi Tây Nguyên đƣợc nhà nƣớc đề cử vào danh sách di
30

Tác giả tạm dịch (tg.td)

31


tg.td

32

Tạm dịch là “du lịch chậm”.

33

/>
110


sản văn hóa phi vật thể cần đƣợc bảo vệ khẩn cấp 2027. Danh sách các Di sản Văn
hóa Phi vật thể cần đƣợc Bảo vệ Khẩn cấp là danh sách quan trọng nhất vì mục tiêu
của nó nhằm đƣa ra những biện pháp bảo vệ phù hợp để bảo vệ các biểu đạt và thể
hiện của văn hóa phi vật thể đang phải đối mặt với các đe dọa tới sức sống của chúng
– tức là sự chuyển giao và tiếp tục đƣợc sáng tạo.34
Sử thi Mơ Nông đƣợc ngƣời Mơ Nông xem nhƣ vốn quý của tổ tiên để lại. Lúc sử thi
cịn đƣơng thời hồng kim, ngƣời ngƣời trong bon cứ cơm nƣớc xong là sẽ đến nhà
mà nghệ nhân hát kể sử thi để nghe. Nghệ nhân hát kể sử thi nhƣ nhập vai vào các
nhân vật, giọng kể lúc trầm lúc bổng, lúc vang xa, lúc vọng lại làm cho ngƣời nghe nhƣ
bị thôi miên, họ im lặng không một tiếng động từ ngƣời già đến trẻ nhỏ. Dƣờng nhƣ,
sự lắng đọng đó khơng chỉ vì nội dung hay, giọng kể cuốn hút mà ở đó cịn có cả lịng
kính tín, tơn thờ, sự ngợi ca, niềm tự hào đối với các nhân vật trong sử thi mà tộc
ngƣời từ đời này sang đời khác xem là tổ tiên của họ. Vậy giải pháp nào đƣợc đƣa ra
để sử thi hiện nay tái lập lại “thời hồng kim” của nó? Chúng ta phải tìm ra động lực để
“hồi sinh” đời sống tự nhiên của sử thi, chứ không phải là phục dựng, biểu diễn để ghi
hình trên sân khấu để rồi ngƣời xem chỉ lƣớt qua, kết quả chỉ là một cuộn băng ghi
hình “sử thi Mơ Nơng” mang tính chất lịch sử.

Để hồi sinh sức sống sử thi cần phải nhắc đến hai yếu tố, đó là: (1) Nghệ nhân; (2)
Động lực hồi sinh.
Xét về nghệ nhân, ngay trong xã hội cổ truyền, số lƣợng ngƣời biết hát kể sử thi cũng
không phải là nhiều. Nghệ nhân sử thi phải hội tụ các phẩm chất và điều kiện sau: (1)
Có trí nhớ thiên bẩm; (2) Khơng vụ lợi; (3) Có cảm quan, có niềm tin về hiện thực
huyền ảo mà sử thi đề cập. (Đỗ Hồng Kỳ: 2019; tr. 216). Yêu cầu này phụ thuộc vào 3
tiêu chí năng lực, phẩm chất và đức tin nên các lớp bồi dƣỡng, đào tạo nghệ nhân
đƣợc mở ra phải lấy 3 tiêu chí này làm định hƣớng giảng dạy. Tuy nhiên, làm thế nào
để thu hút ngƣời học để trở thành nghệ nhân? Nghệ nhân hát kể sử thi khơng đơn
thuần là vì tình u với truyền thống văn hóa dân tộc mà đó cịn là một nghề có thể
đem lại sự phát triển kinh tế cho cộng đồng, cá nhân.
Xét về động lực hồi sinh, hát kể sử thi ngày nay môi trƣờng bị thu hẹp dần, chúng ta
cần phải “hồi sinh” môi trƣờng hát kể sử thi phù hợp với bối cảnh thời đại bằng cách
phối hợp với sự phát triển của du lịch văn hóa dân gian và xu hƣớng “slow tourism”
hiện nay trên thế giới. Du lịch chậm là tất cả về cuộc sống ở một nơi với tốc độ chậm,
theo xu hƣớng này, du khách nƣớc ngoài hay du khách bản địa đều dành thời gian
nhiều hơn ở một địa điểm du lịch để trải nghiệm và mở rộng vốn hiểu biết của mình.
Địa phƣơng có thể kết hợp với chính quyền để tổ chức hình thức du lịch này, với một
vài gợi ý ban đầu nhƣ:
Nơi ở: Nhà của ngƣời dân trong bon của tộc ngƣời.
Hướng dẫn viên: Ngƣời ở trong bon đƣợc đào tạo bài bản và có tri thức về văn hóa nói
chung, sử thi nói riêng của tộc ngƣời.
Chính ngƣời trong bon sẽ tiếp đón khách du lịch, liên hệ nơi ở, có sắp xếp chu đáo
nhƣng không quá cách biệt với đời sống của ngƣời dân trong bon. Trong quá trình du
34

/>
111



khách sinh hoạt ở bon, hƣớng dẫn viên sẽ thiết kế một chƣơng trình trải nghiệm dành
cho du khách, trong đó nhất thiết phải có một buổi hát kể sử thi của tộc ngƣời Mơ
Nông bao gồm nghệ nhân và tất cả những ngƣời trong bon. Việc du khách đến bon
làng ở lại sẽ đạt đƣợc lợi ích 2 chiều: (1) Từ phía du khách, họ sẽ trải nghiệm đƣợc
đời sống ở bon làng tộc ngƣời, học hỏi đƣợc nhiều điều từ văn hóa tộc ngƣời, những
điều này là vốn sống mới, khác biệt so với cuộc sống thƣờng nhật của họ; (2) Từ phía
tộc ngƣời, ngồi lợi nhuận đƣợc chi trả, tộc ngƣời cịn đƣợc giao lƣu văn hóa với
những luồng văn hóa mới và quảng bá văn hóa tộc ngƣời của chính mình.
Theo thời gian, sự phát triển du lịch văn hóa dân gian sẽ kéo theo sự phát triển sức
sống tự nhiên của hát kể sử thi, bên cạnh sự phát triển kinh tế - xã hội của tộc ngƣời
Mơ Nơng. Cho nên, chính quyền địa phƣơng và tộc ngƣời cần có sự đầu tƣ theo
hƣớng này, đó cũng chính là một hình thức bảo tồn sử thi Mơ Nơng nói riêng và sử
thi Tây Ngun nói chung.
4 KẾT LUẬN
Du lịch văn hóa dân gian hiện nay khơng cịn lạ lẫm trong hƣớng khai thác du lịch,
nhƣng vấn đề quan trọng là cần phải phát triển văn hóa dân gian theo hƣớng động hay
hƣớng tĩnh để phục vụ du lịch. Với xu hƣớng “slow tourism”, du lịch văn hóa dân gian
sẽ đƣợc khai thác và đạt hiệu quả tối đa. Sử thi Tây Nguyên đã, đang và sẽ là vốn di
sản văn hóa phi vật thể của nƣớc ta cần đƣợc bảo tồn. Giới nghiên cứu sử thi, tiêu
biểu là Đỗ Hồng Kỳ - nhà nghiên cứu sử thi Mơ Nông, đƣa ra giải pháp bảo tồn là chân
dung hóa nhân vật sử thi, thành lập các câu lạc bộ sử thi. Trong bài viết này, chúng tôi
đề xuất một hƣớng bảo tồn với dạng thức sống của sử thi đó là một tiềm năng, một
“loại tài nguyên” để phát triển du lịch văn hóa trong cộng đồng ngƣời Mơ Nơng nói
riêng, Tây Ngun nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]

Dung, V. T. T., 2016. Tín ngưỡng và lễ hội truyền thống của người M’Nông tỉnh
Đăk Nông. Luận án Tiến sĩ, Tp. HCM: Đại học Quốc gia Tp. HCM.


[2]

Ghi, L. K., 2018. Lễ hội truyền thống của người M’nông Preh huyện Krông Nô,
tỉnh Đăk Nông trong xã hội đương đại. Luận án Tiến sĩ, Hà Nội: Viện Văn hóa
Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam.

[3]

Dr Greg Richards, 2000. “Satisfying the cultural tourist: challenges for the new
millennium”, Proceedings of the ATLAS Africa International Conference: Cultural
tourism in Africa: strategies for the new millennium, Mombasa, Kenya.

[4]

Kính, N. X., 2019. Trên đường tìm hiểu văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt
Nam. Hà Nội: Nxb. Văn hóa dân tộc.

[5]

Kỳ, Đ. H., 2018. Văn hóa cổ truyền Mơ Nơng và sự biến đổi trong xã hội đương
đại. Hà Nội: Nxb. Văn hóa dân tộc.

[6]

Kỳ, Đ. H., n.d. Vai trị của văn hóa truyền thống các tộc người bản địa Tây
Nguyên đối với sự phát triển bền vững vùng. Hà Nội: Nxb. Sân khấu.

112



[7]

Pecsek, B., 2016. Revitalizing tourism in small regional towns through folkloredriven slow tourism: The example of Matyó land, Hungary. Dos Algarves: A
Multidisciplinary e-Journal, (27), 94-119.

[8]

Siswo Harsono., 2017. “Folklore Tourism in Jepara”, Culturalistics: Journal of
Cultural, Literary, and Linguistic Studies, [1] (1), 1-7.

[9]

.i. [Online]
Available at:
/>
[10] . [Online]
Available at:
/>
113



×