Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Pháp luật quốc tế về tuyển dụng, sử dụng lao động trẻ em potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.42 KB, 18 trang )


Pháp lu
ật quốc tế về tuyển dụng,
sử dụng lao động trẻ em


1. Các công ước quốc tế về tuyển dụng, sử dụng lao động trẻ em

Theo Báo cáo Toàn cầu lần thứ hai về lao động trẻ em, trong năm
2004, ước tính có 218 triệu trẻ em trên toàn thế giới phải lao động
1
,
trong đó có 126 triệu em phải lao động nặng nhọc, nguy hiểm. Tình
trạng đáng buồn này có nguồn gốc sâu xa từ một số yếu tố như văn hóa
- xã hội, kinh tế, luật pháp.

Yếu tố văn hóa - xã hội xuất phát từ quan niệm truyền thống cho
rằng, trẻ em phải tham gia làm việc để phát triển về mọi mặt, hoặc để
kế thừa nghề nghiệp của ông bà. Do đó, nhiều gia đình khuyến khích
hoặc buộc trẻ em phải tham gia lao động sớm và làm cả những công
việc nặng nhọc, độc hại.

Yếu tố kinh tế xuất phát từ hoàn cảnh gia đình các em nghèo đói, nên
phải ưu tiên cho việc kiếm sống và mọi thành viên trong gia đình, trong
đó có trẻ em, cũng được huy động vào việc này.

Bên cạnh đó, nhiều chủ doanh nghiệp nhận thấy những lợi ích kinh tế
của việc sử dụng lao động trẻ em. Họ có thể trả cho trẻ em tiền công
thấp, mặc dù công việc trẻ em làm ngang bằng với công việc của người
lớn. Thêm nữa, trẻ em cũng dễ bảo, dễ sai khiến, dễ lạm dụng sức lao
động. Trẻ em thường là người không hiểu biết, không nhận thức rõ các


quyền, lợi ích hợp pháp của mình, ít phàn nàn, yêu sách và ít khi kết
thành hiệp hội, nên chủ sử dụng lao động trẻ em không phải lo đối phó
với những yêu cầu hoặc các cuộc đấu tranh của các tổ chức công đoàn
đòi tăng lương, cải thiện điều kiện làm việc.

Yếu tố kinh tế còn xuất phát từ sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế của
quốc gia, mà biểu hiện là quá trình thương mại hóa, tư nhân hóa, toàn
cầu hóa có nhu cầu lớn về lao động, dẫn tới việc bóc lột sức lao động
trẻ em. Trong các quốc gia đang phát triển, quá trình công nghiệp hóa,
đô thị hóa kéo theo tình trạng mất đất, thiếu tư liệu sản xuất buộc nhiều
người, cả người lớn và trẻ em phải di cư, phải làm đủ nghề để đáp ứng
nhu cầu của bản thân, gia đình và vì vậy, hiện tượng lao động trẻ em lại
xuất hiện.

Ngoài những yếu tố nói trên, cần kể đến sự thiếu vắng các quy định
của pháp luật. Pháp luật là tập hợp các quy tắc xử sự do Nhà nước ban
hành, có tính chất bắt buộc với mọi chủ thể trong xã hội, là hành lang
pháp lý cho sự vận hành đúng đắn của các quan hệ xã hội, trong đó có
các quan hệ về tuyển dụng và cho phép trẻ em tham gia lao động. Việc
không có hoặc thiếu các quy định pháp luật phù hợp sẽ ảnh hưởng trực
tiếp tới tình trạng lao động trẻ em. Ví dụ, pháp luật nhiều nước chưa
điều chỉnh các quan hệ lao động trong khu vực phi chính thức đã dẫn
tới tình trạng lao động trẻ em ở khu vực này trở thành một vấn đề xã
hội bức xúc. Ngoài ra, nếu một hệ thống pháp luật đầy đủ, phù hợp
nhưng không được triển khai hay triển khai kém hiệu quả thì tình trạng
lao động trẻ em vẫn xảy ra.

Hiện nay, cộng đồng quốc tế và nhiều quốc gia rất coi trọng việc ban
hành pháp luật nhằm kiểm soát, điều chỉnh vấn đề lao động trẻ em.
Điều này bảo đảm cho các em có thể tham gia quan hệ lao động; mặt

khác, nó bảo vệ tốt nhất quyền lợi cho trẻ em.

Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) từ khi thành lập năm 1919 đến nay
đã thông qua gần 200 công ước và cũng gần 200 khuyến nghị, trong đó
có gần 30 công ước đề cập đến việc bảo vệ trẻ em khỏi các hình thức
bóc lột và lạm dụng sức lao động. Nổi bật trong số đó là hai công ước
cơ bản trực tiếp đề cập đến vấn đề ngăn ngừa, cấm và xoá bỏ lao động
trẻ em là Công ước số 138 về Độ tuổi lao động tối thiểu năm 1973
(kèm theo Khuyến nghị số 146) và Công ước số 182 về Cấm và hành
động ngay lập tức để xoá bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất
năm 1999 (kèm theo Khuyến nghị số 190). Từ khi thông qua cho đến
nay, đã có 155 quốc gia phê chuẩn Công ước số 138 và 171 quốc gia
phê chuẩn Công ước số 182.

Công ước số 138 về Độ tuổi lao động tối thiểu quy định rằng, tuổi tối
thiểu được nhận vào làm việc sẽ không dưới độ tuổi hoàn thành giáo
dục bắt buộc và trong bất kỳ trường hợp nào cũng không dưới 15 tuổi
(Khoản 3 Điều 2). Pháp luật hay quy định quốc gia có thể cho phép sử
dụng lao động hay lao động của người từ đủ 13 đến 15 tuổi trong
những công việc nhẹ nhàng mà không có khả năng tác hại đến sức
khoẻ, học tập hoặc sự phát triển các mặt của trẻ em (Khoản 1 Điều 7).
Đối với những công việc hoặc lao động mà tính chất hoặc điều kiện
tiến hành có thể có hại cho sức khoẻ, an toàn hoặc phẩm hạnh của thiếu
niên, thì tuổi tối thiểu không được dưới 18 (Khoản 1 Điều 3).

Công ước số 182 về Cấm và hành động ngay lập tức để xoá bỏ các
hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất đề cập tới những hình thức lao
động trẻ em tồi tệ nhất gồm: a) Mọi hình thức nô lệ hay tương tự nô lệ
như buôn bán trẻ em, gán nợ, lao động khổ sai, lao động cưỡng bức,
bao gồm tuyển mộ cưỡng bức hoặc bắt buộc trẻ em để phục vụ trong

các xung đột vũ trang; b) Sử dụng, dụ dỗ hoặc lôi kéo trẻ em làm mại
dâm, tham gia sản xuất văn hoá phẩm khiêu dâm hoặc biểu diễn khiêu
dâm; c) Sử dụng, dụ dỗ hoặc lôi kéo trẻ em tham gia các hoạt động bất
hợp pháp, đặc biệt là hoạt động sản xuất và buôn bán các chất ma tuý
như đã được xác định trong các điều ước quốc tế có liên quan; d) Sử
dụng trẻ em trong những công việc mà tính chất và hoàn cảnh làm việc
có thể xâm hại đến sức khoẻ, sự an toàn và đạo đức của trẻ em. Công
ước này cũng xác định rõ, khi tham gia thì cơ quan có thẩm quyền của
quốc gia phải xác định những nơi tồn tại các công việc nguy hại sau khi
tham khảo ý kiến của các tổ chức người lao động và người sử dụng lao
động có liên quan và phải định kỳ xem xét, sửa đổi danh mục các công
việc nguy hại khi cần thiết.


2. Pháp luật các nước về tuyển dụng, sử dụng lao động trẻ em

Để nội luật hóa nội dung hai Công ước này, nhiều quốc gia đã có
những cách thức khác nhau để quy định thành các văn bản pháp luật
nhằm bảo vệ trẻ em khỏi bị lạm dụng, bóc lột sức lao động. Nhìn
chung, nội dung các văn bản pháp luật của các quốc gia như Anh, Mỹ,
Canada, Hàn Quốc, Philipine, Nepal, Trung Quốc… thường đề cập đến
độ tuổi tối thiểu mà trẻ em được tham gia lao động; điều kiện, thủ tục
tuyển dụng và những trường hợp, ngành nghề, công việc không được
sử dụng trẻ em lao động. Cụ thể:

2.1. Về độ tuổi lao động tối thiểu

Theo pháp luật của nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Philipine thì
tuổi lao động tối thiểu của trẻ em thường là từ 15 tuổi trở lên. Chẳng
hạn, Điều 64 Luật Tiêu chuẩn lao động Hàn Quốc năm 1997 (được sửa

đổi, bổ sung năm 2007), Điều 139 Luật Lao động của Philipin năm
1974, Điều 63 Bộ luật Lao động của Nga năm 2001, Điều 249 Bộ luật
Lao động của Azerbaijan năm 1999 quy định người lao động là người
từ 15 tuổi trở lên, trừ trường hợp khác được pháp luật cho phép. Điều 6
Bộ luật Lao động của Việt Nam cũng quy định tương tự. Tuy nhiên,
quy định của một số nước như Điều 2 Những quy định về cấm lao động
trẻ em của Trung Quốc năm 2002 và Bộ luật Tiêu chuẩn việc làm sửa
đổi của Canada năm 2006 lại nâng độ tuổi tối thiểu được phép lao động
là 16 tuổi. Mức tuổi tối thiểu để làm việc này là phù hợp với sự phát
triển của trẻ em, để trẻ em có thể bước đầu tiếp xúc, làm quen với
những công việc nhẹ nhàng mà không ảnh hưởng đến sự phát triển về
trí lực và thể lực của trẻ em.

2.2. Điều kiện, thủ tục tuyển dụng lao động trẻ em

Luật lao động trẻ em của Nepal tại Chương 2 và Chương 3 quy định
cấm tuyển dụng trẻ em vào làm việc bằng việc dụ dỗ, lừa dối hoặc đe
dọa, ép buộc hoặc bất kỳ hình thức nào trái với mong muốn của trẻ em.
Người sử dụng lao động muốn tuyển trẻ em vào làm việc phải tuân theo
những quy định sau:

Thứ nhất, phải làm đơn gửi cơ quan lao động xin phép được tuyển
dụng trẻ em vào làm việc. Trong đơn phải có các nội dung sau: tên và
địa chỉ cơ sở sản xuất; tên và địa chỉ của nhà quản lý; ngày hoạt động
của cơ sở; nghề nghiệp hoặc công việc do cơ sở tiến hành; tên và địa
chỉ, tuổi của đứa trẻ; tên và địa chỉ của cha, mẹ, hoặc người giám hộ
của đứa trẻ; ngày mà đứa trẻ được tuyển dụng; tính chất của công việc
do đứa trẻ tiến hành; tổng số tiền và quyền lợi khác mà đứa trẻ được
hưởng; giấy xác nhận về công việc phù hợp với trẻ.


Thứ hai, phải được sự đồng ý của cơ quan lao động có liên quan hoặc
bất kỳ cơ quan khác hoặc quan chức được chỉ định bởi cơ quan đó và
bởi cha, mẹ hay người giám hộ của đứa trẻ. Quy định này cũng tương
tự như quy định tại Điều 66 Luật Tiêu chuẩn lao động Hàn Quốc:
người dưới 18 tuổi tham gia quan hệ lao động phải được sự đồng ý của
cha, mẹ hoặc người giám hộ.

Thứ ba, phải nộp đơn cho cơ quan lao động để được cấp giấy phép
về công việc trẻ em sẽ làm là phù hợp với khả năng và độ tuổi của trẻ
em. Khi nhận được đơn này, cơ quan lao động sẽ yêu cầu cơ quan y tế
tiến hành kiểm tra sức khỏe của trẻ em và khi cơ quan y tế cấp giấy xác
nhận trẻ em đủ sức khỏe để làm thì cơ quan lao động mới cấp phép cho
sử dụng trẻ em. Giấy phép này có giá trị trong một năm. Các chi phí
cho quá trình trên do người sử dụng lao động trả.

Như vậy, người sử dụng lao động muốn được sử dụng trẻ em lao
động phải tuân theo những quy định rất chặt chẽ. Từ giai đoạn nộp
đơn xin phép được tuyển dụng, phải được xác nhận là công việc phù
hợp với trẻ em đến việc phải đảm bảo có sự đồng ý của trẻ em, cha mẹ
hoặc người giám hộ và cơ quan nhà nước thì mới được phép sử dụng
trẻ em, luôn có sự hiện diện của cơ quan quản lý nhà nước. Điều này
sẽ đảm bảo cho việc không có sự vi phạm từ phía người sử dụng lao
động và bảo vệ tốt nhất quyền lợi cho trẻ em khi tham gia quan hệ lao
động, tránh hiện tượng trẻ em bị bóc lột, bị lạm dụng sức lao động. So
sánh quy định trên với quy định về tuyển dụng lao động của pháp luật
Việt Nam, chúng ta thấy, pháp luật Việt Nam chưa đề cập tới điều
kiện, trình tự tuyển dụng như pháp luật của Nepal. Điều 16 của Bộ
luật Lao động Việt Nam chỉ đề cập tới quyền của người lao động có
thể đăng ký để tìm việc hoặc tự tìm việc, còn người sử dụng lao động
có quyền trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức giới thiệu việc làm để

tuyển chọn lao động, mà chưa nêu cụ thể các điều kiện, nghĩa vụ, trình
tự mà người sử dụng lao động phải tuân theo để có thể được tuyển
dụng lao động dưới 18 tuổi, nhất là đối với những trẻ em dưới 15 tuổi.

2.3. Những ngành nghề, công việc cấm tuyển dụng lao động trẻ em

Pháp luật các nước đã tiến hành nội luật hóa Công ước số 182 về
Cấm và hành động ngay lập tức để xoá bỏ các hình thức lao động trẻ
em tồi tệ nhất theo cách thức khác nhau: có nước chỉ quy định mang
tính khái quát, có nước quy định thành điều kiện hoặc quy định chi tiết
thành từng lĩnh vực, ngành nghề cấm tuyển dụng các em.

Điểm 5 (4) Luật Thương thuyền và Tầu đánh cá của Anh năm 1998
quy định cấm sử dụng người dưới 18 tuổi làm những công việc ảnh
hưởng đến thể lực, trí lực, công việc tiếp xúc với chất độc hại, tia xạ, ở
nơi quá nóng, quá lạnh, có độ ồn, độ rung cao, ảnh hưởng đến gien, ảnh
hưởng lâu dài tới sức khỏe. Hoặc Luật Tiêu chuẩn tuyển dụng của Mỹ,
phần Các quy định lao động trẻ em, tại điểm 29 CFR 570.117 có nêu
cấm tuyển nhân công từ 16 tuổi đến 18 tuổi vào làm những công việc
nguy hiểm hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, tâm lý của
nhân công, hoặc ảnh hưởng đến sức khoẻ và lao động nặng quá sức đối
với họ.

Có thể nói, cách quy định mang tính khái quát như trên sẽ rất khó đi
vào thực tế và người áp dụng hay thi hành cũng không biết được những
trường hợp nào, công việc cụ thể nào được sử dụng người lao động dưới
18 tuổi.

Còn Luật lao động trẻ em của Nepal lại quy định thành những lĩnh
vực cấm sử dụng lao động trẻ em tại điểm 3, Chương 2, như: lĩnh vực du

lịch hoặc liên quan gồm: du lịch, nhà ở, nhà nghỉ, khách sạn, sòng bạc,
nhà hàng, quán bar, quán rượu, nhà điều dưỡng, trượt tuyết, cưỡi
ngựa…; nghề định hướng dịch vụ: hội thảo, thí nghiệm, kho lạnh; vận
tải công cộng và nghề xây dựng; lĩnh vực liên quan đến sản xuất thuốc
lá, dệt, nhuộm thảm, đánh sạch gỗ, dệt, lau, in và nhuộm vải, thuộc da,
sản xuất và đóng gói ximăng, sản xuất và bán, phân phối, diêm, chất nổ
và chất dễ cháy, sản xuất bia, rượu và đồ uống, sản xuất xà phòng, sản
phẩm nhựa đường, bột giấy và sản phẩm giấy, đá phiến, sản xuất bút chì,
sản xuất thuốc trừ sâu, sản phẩm từ dầu mỏ, nhặt rác; làm việc liên quan
đến các sản phẩm năng lượng từ nguồn nước, không khí, nắng, than đá,
khí ga, dầu mỏ, bioga và các nguồn tương tự khác và việc truyền, phân
phối có liên quan.

Cách quy định này cấm tuyệt đối trẻ em tham gia trong các lĩnh vực
đã được liệt kê. Tuy nhiên, nó cũng làm hạn chế cơ hội việc làm của trẻ
em khi mà trong mỗi lĩnh vực kể trên có những công đoạn, công việc
nhẹ nhàng, phù hợp với sức khỏe, khả năng của trẻ em.

Khác với cách quy định như trên, pháp luật lao động Philipine lại nội
nội luật hóa Công ước 182 theo hướng một mặt vừa cụ thể hóa nội dung
điều khoản của Công ước, mặt khác lại có những văn bản pháp quy riêng
để quy định thành danh mục ngành nghề, công việc cấm sử dụng lao
động dưới 18 tuổi. Lệnh số 65-04 về Nguyên tắc và quy định thực hiện
Luật công số 9231, sửa đổi Luật số 7610 của Philipine tại Mục 5 đã quy
định cụ thể điểm (d) Điều 3 Công ước số 138 như sau: công việc, mà
tính chất hay trong các trường hợp được thực hiện mà nguy hiểm hoặc
gây tổn hại cho sức khoẻ, an toàn hoặc đạo đức của trẻ em như: tước
đoạt, hạ thấp danh dự nhân phẩm của trẻ; khiến trẻ bị lạm dụng về thể
chất, tinh thần hoặc tình dục, hoặc có nguy cơ cao gây tổn hại đến đạo
đức, tâm lý của trẻ; được thực hiện dưới mặt đất, dưới nước hoặc ở độ

cao nguy hiểm; liên quan đến việc sử dụng máy móc nguy hiểm, thiết bị,
công cụ nguy hiểm; khiến trẻ tiếp xúc với nguy hiểm; được thực hiện
trong môi trường không đảm bảo sức khoẻ, khiến trẻ tiếp xúc với điều
kiện độc hại, chất, nhân tố nguy hại hay quá trình xử lý liên quan đến
chất phóng xạ, lửa, chất dễ cháy, chất độc hoặc tương tự hoặc với nhiệt
độ cao, tiếng ồn, độ rung quá mức; được thực hiện trong điều kiện khó
khăn; khiến trẻ tiếp xúc với các nhân tố như vi khuẩn, virút, mầm bệnh;
liên quan đến sản xuất hoặc kiểm soát chất nổ.

Lệnh số 04 của Philipine có hẳn một danh mục nghề nguy hiểm (trong
đó có nêu cả điều kiện) cấm sử dụng người trẻ tuổi gồm: a) đánh cá, săn
bắt, khai thác gỗ và nghề có liên quan;b) hầm mỏ, và các nghề liên quan
như: người vận hành điều khiển máy, thiết bị nghiền đá, băng tải, máy
nén, nồi hơi, bể chứa khí, gas; đốt nhiên liệu; xẻ đá; làm việc dưới mặt
đất; c) vận tải, viễn thông và nghề hàng hải lái tầu như: đội viên chữa
cháy; lái hoặc vận hành xe ủi đất, cần trục, thiết bị kéo, toa moóc, máy
kéo, cần trục, máy đào, máy tải, xe tải, buýt, taxi; đốt than vận hành
máy; d) thợ thủ công, sản xuất, xử lý và các nghề có liên quan như: xe
sợi, cuốn chỉ; thợ nhuộm; người làm công cụ, cơ khí, thợ nồi hơi, thợ
hàn, thợ mạ; lắp đặt, sửa chữa điện thoại và viễn thông; lắp đường điện;
thợ nối dây điện, cáp; thợ xử, người vận hành máy cắt gỗ; sản xuất gạch,
kính, đồ sứ, bia rượu; e) dịch vụ, thể thao và công việc liên quan như:
lính chữa cháy, bảo vệ, lái tầu, phục vụ trên máy bay, quầy rượu, soát vé
xe; nữ phục vụ trong nhà tắm; nữ hộ tống cho nam; trông giữ ở nơi tục
tĩu; làm ở sòng bạc, cá độ; nâng, mang, cầm và di chuyển vật nặng; g)
công việc mang tính chuyên nghiệp như: dịch vụ cá nhân nữ ở quán bar,
phòng cocktail, nhà nghỉ, khách sạn, cơ sở massage và nơi uống khác; h)
tất cả các nghề nghiệp trong quá trình xử lý và chế biến chất ma tuý, chất
hoá học; i) tất cả các nghề trong quá trình sản xuất, kiểm soát và vận
chuyển chất nổ, chất độc, chất cháy; k) tất cả các hoạt động trong phòng

làm việc, toà nhà hoặc bất kỳ nơi nào mà lưu giữ chất phóng xạ rađium,
giữ hoặc xử lý hoặc sử dụng chất luminous và các chất phóng xạ khác.

Ngoài những ngành nghề, công việc trên, Luật công số 7610 của
Philipine năm 1992 còn quy định thêm về cấm tuyển dụng các em trong
việc quảng cáo tiêu thụ rượu bia, nước uống có cồn, thuốc lá và các sản
phẩm mang tính bạo lực.

So với cách thức quy định của các nước khác, ta thấy việc quy định
những ngành nghề, công việc cụ thể cấm sử dụng lao động dưới 18 tuổi
của Philipine sẽ rất dễ áp dụng trong thực tế. Người sử dụng lao động
hoặc những người thực thi pháp luật chỉ cần nhìn vào danh mục đó là sẽ
biết công việc mà các em làm có hợp pháp hay không. Tuy nhiên, cách
thức quy định như vậy cũng cần phải thực hiện thêm hoạt động thường
xuyên cập nhật danh mục những ngành nghề, công việc cấm sử dụng lao
động dưới 18 tuổi. Điều này cũng phù hợp với tinh thần của điểm 3 Điều
4 Công ước số 182 về việc yêu cầu các nước thành viên tham gia Công
ước cần định kỳ xem xét và chỉnh sửa về danh mục công việc cấm sử
dụng lao động dưới 18 tuổi.

Cách quy định trên của Philipine cũng tương tự như cách quy định
của Việt Nam. Việt Nam cũng ban hành những văn bản riêng (như
Thông tư 09/TT-LB ngày 13/4/1995 của liên Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội và Bộ Y tế quy định các điều kiện lao động có hại và
các công việc cấm sử dụng lao động chưa thành niên; Thông tư liên
tịch số 21/2004/TTLT-BLĐTBXH-BYT ngày 9/12/2004 của Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế về việc hướng dẫn, quy định
danh mục chỗ làm việc, công việc không được sử dụng lao động dưới
18 tuổi trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ dễ bị lợi dụng để hoạt động
mại dâm) quy định cụ thể những ngành nghề, công việc cấm sử dụng

người lao động dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, so với nội dung danh mục lĩnh
vực, ngành nghề, công việc cấm sử dụng lao động dưới 18 tuổi của một
số nước trên thì trong pháp luật của Việt Nam còn nhiều lĩnh vực,
ngành, nghề chưa được nêu như: sản xuất bia rượu, xà phòng, sản xuất
gạch, kính, đồ sứ, vận chuyển chất độc, chất dễ cháy, các công việc liên
quan đến các sản phẩm năng lượng từ khí ga, dầu mỏ, dệt, nhuộm,
thuộc da, nhặt rác, cưỡi ngựa… Hiện tại ở Việt Nam đang nổi lên
những lĩnh vực, ngành nghề, công việc độc hại, nguy hiểm thu hút
đông lao động dưới 18 tuổi tham gia mà vẫn chưa được cập nhật, bổ
sung vào danh mục ngành nghề, công việc cấm như: đua ngựa, đãi,
tuyển vàng, đá đỏ, khai thác đá, đập đá thủ công, nhặt rác phế liệu, bán
rong, đánh cá trên biển, làm tại các phòng vẽ tranh, chụp ảnh người
mẫu khoả thân, phục vụ khách ăn uống tại các phòng ăn, phòng hát
karaoke, hát với khách tại các quán ca cổ, câu lạc bộ ca cổ, phục vụ
khách tắm tại các cơ sở tắm nước thuốc, thảo dược… Điều này cho
thấy công tác cập nhật, bổ sung định kỳ vào danh mục cấm lao động trẻ
em những ngành, nghề mới còn chưa kịp thời và hầu như từ khi ban
hành cho đến nay, danh mục đó chưa được bổ sung, sửa đổi.

Ngoài những quy định trên, pháp luật của một số nước (như Trung
Quốc) còn đề cập đến trách nhiệm của cả các tổ chức, cá nhân, cơ quan
trong việc để người lao động dưới 18 tuổi bị sử dụng trái phép. Theo
Điều 12 Luật về cấm lao động trẻ em của Trung Quốc, thì các cơ quan,
quan chức quản lý của Nhà nước sẽ phải chịu hình phạt như kỷ luật,
giáng chức; trong trường hợp nặng sẽ bị tước quyền hoặc sa thải; trong
trường hợp có liên quan đến tội phạm, họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo quy định của luật hình sự về tội phạm có liên quan đối với
các hành vi: thanh tra mà phát hiện ra việc sử dụng lao động trẻ em,
nhưng không cho dừng, khắc phục hoặc xử lý trường hợp đó; cảnh sát
phục vụ trong các cơ quan an ninh công cộng mà có lỗi hoặc vi phạm

quy định về việc kiểm soát, xác minh độ tuổi, căn cước của người lao
động; quan chức từ các cơ quan có thẩm quyền quản lý các vấn đề
thương mại và ngành nghề mà cấp phép cho cá nhân kinh doanh khi
thấy rằng họ có sử dụng người vị thành niên dưới 16 tuổi trái phép.

So với pháp luật của nhiều nước thì đây là những quy định mới, quy
định ngay trong một văn bản luật chuyên ngành cụ thể về trách nhiệm
của cá nhân, cơ quan trong việc để xảy ra tình trạng sử dụng lao động
trẻ em trái phép. Điều đó sẽ giúp cho việc áp dụng dễ dàng, ít phải viện
dẫn từ những văn bản khác. Ngoài ra, nó cũng giúp nâng cao trách
nhiệm của tổ chức, cá nhân, cơ quan trong công tác bảo vệ người lao
động dưới 18 tuổi.

3. Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tuyển dụng, sử dụng lao
động trẻ em

Qua các công ước quốc tế và kinh nghiệm của một số quốc gia về việc
tuyển dụng, sử dụng người lao động dưới 18 tuổi nói trên và để góp
phần hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nam đối với người lao động
dưới 18 tuổi, chúng tôi đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền:

1. Ban hành một văn bản pháp quy để quy định cụ thể về điều kiện,
trình tự tuyển dụng người lao động dưới 18 tuổi, nhất là đối với trẻ em
dưới 15 tuổi.

2. Sửa đổi, bổ sung, ban hành mới những điều kiện, danh mục ngành
nghề, công việc cấm sử dụng người lao động dưới 18 tuổi (nhất là đối
với Thông tư số 09/TT-LB và Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT-
BLĐTBXH-BYT). Để pháp luật có tính khả thi thì trước khi ban hành,
cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tiến hành điều tra, khảo sát, đánh

giá về những điều kiện, danh mục ngành nghề, công việc cấm sử dụng
người lao động dưới 18 tuổi và tham khảo kinh nghiệm pháp luật của
một số quốc gia khác.

3. Ngoài những quy định hiện tại về trách nhiệm của người sử dụng
lao động khi sử dụng trái phép người lao động dưới 18 tuổi, cần có
những quy định cụ thể về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, cơ quan
trong việc để xảy ra tình trạng vi phạm pháp luật lao động về sử dụng
người lao động dưới 18 tuổi ngay trong các văn bản luật chuyên ngành
lao động.



(1) Theo Công ước số 138 và Công ước số 182 thì người lao động dưới
18 tuổi được gọi là lao động trẻ em.

ThS. Trần Thắng Lợi - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.

×