Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Bài thu hoạch lớp CCLLCT môn triết học xong mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trọng với công cuộc đổi mới ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.54 KB, 14 trang )

1

MỞ ĐẦU

Chủ nghĩa Mác - Lênin coi quan hệ giữa kinh tế và chính trị là biểu hiện
tập trung nhất của quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng. Lênin
đã khái quát bản chất mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị như sau: “Chính
trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”; “Chính trị tức là kinh tế được cô
đọng lại”. Sự khẳng định này có nghĩa, chính trị ra đời từ kinh tế, do kinh tế
quyết định; chính trị là sự phản ánh, là tính thứ hai so với kinh tế.
Đồng thời với việc thừa nhận tính thứ nhất của kinh tế, Lênin cũng cho
rằng, “chính trị khơng thể khơng chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế”. Khẳng
định đó của Lênin đã nhấn mạnh tính độc lập tương đối và vai trị tác động trở
lại rất tích cực của chính trị đối với kinh tế. Sự tác động của chính trị đối với
kinh tế được thể hiện ở chỗ nếu một nền chính trị đúng đắn khoa học, phù hợp
với cơ sở kinh tế của xã hội hiện tại thì nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế
phát triển, và vì thế, nó sẽ góp phần to lớn vào tăng trưởng kinh tế, giải phóng
sức sản xuất, làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội. Ngược lại, nếu chính trị sai
lầm, trì trệ, khơng khoa học, khơng phù hợp với các thực tiễn kinh tế thì nó sẽ là
lực lượng kìm hãm sự phát triển kinh tế, thậm chí đẩy kinh tế vào khủng hoảng,
và hậu quả đi kèm tất yếu là mất ổn định chính trị - xã hội.
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ln là mối quan hệ cơ bản, chi
phối tồn bộ sự vận hành của đời sống xã hội. Trong suốt 30 năm đổi mới,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước nhận thức và giải quyết khá tốt mối
quan hệ này. Tuy nhiên, trong từng giai đoạn, cả trong nhận thức cũng như
trên thực tiễn cịn bộc lộ khơng ít những lúng túng, bất cập. Chính vì vậy,


2

nghiên cứu và vận dụng đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và


chính trị có ý nghĩa quan trọng với công cuộc đổi mới ở Việt Nam.


3

NỘI DUNG
1. Quan điểm Mácxít về mối quan hệ biện chứng giữa
kinh tế và chính trị
1.1. Khái niệm kinh tế và chính trị
C.Mác cho rằng: "Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con
người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của
họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ
phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ
những quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội ” 1. Khẳng định
điều này C.Mác đã chỉ cho chúng ta thấy kinh tế là: tổng thể các quan hệ sản
xuất nhất định trong lịch sử phù hợp với mỗi trình độ phát triển nhất định của
lực lượng sản xuất. Theo đó có thể hiểu, kinh tế là những cách thức và
phương thức của con người trong một xã hội nhất định dùng để sản xuất và
trao đổi sản phẩm với nhau.
Khi bàn về chính trị, C.Mác khẳng định: "Tồn bộ những quan hệ ấy hợp
thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực, trên đó xây dựng
lên một một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý
thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó" 2. Điều này cho thấy,
chính trị ở đây được C.Mác xem xét dưới khía cạnh là kiến trúc thượng tầng
chính trị và nói đến kiến trúc thượng tầng chính trị là nói đến quyền tác động,
chi phối, thống trị của một giai cấp đối với toàn bộ xã hội. Hay nói cách khác,
chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, giữa các quốc gia
có liên quan tới vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực Nhà nước, là biểu
1C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Tập 13, Nxb CTQG – ST, H. 1995, tr. 14- 15.
2C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Tập 13, Nxb CTQG – ST, H. 1995, tr.15.



4

hiện tập trung của kinh tế, là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, các đảng
phái, các nhà nước để hiện thực hóa lợi ích cơ bản của mình trong mối tương
quan với các chủ thể chính trị khác.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về quan hệ giữa kinh tế và
chính trị
Một là, kinh tế - suy cho cùng là nhân tố quyết định chính trị.
Theo Lênin, chính trị xét trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức,
là một trong những hình thức biểu hiện của kinh tế, nhưng là hình thức biểu
hiện tập trung nhất, cô đọng nhất. Sự biến đổi, phát triển kinh tế là nguồn gốc
sâu xa của mọi sự biến đổi về xã hội và đảo lộn về chính trị. Do đó, khi giải
thích mọi sự biến đổi về chính trị, cần phải xuất phát từ căn nguyên kinh tế.
Ngược lại, chính trị khơng ngồi mục đích là hướng vào sự phát triển của
kinh tế. Kinh tế là gốc của chính trị, là thước đo tính hợp lý của chính trị.
Kinh tế phát triển thì chính trị tiến bộ; kinh tế khủng hoảng, chính trị cũng sẽ
ảnh hưởng thậm chí có thể bị khủng hoảng theo. Vì vậy, ở bất kỳ thời đại, chế
độ nào, chính trị nếu khơng hướng vào việc giải quyết thỏa đáng các quan hệ
lợi ích nhằm phát triển kinh tế thì sẽ khơng có cơ sở để tồn tại, sớm muộn
cũng phải thay thế bởi một chính trị mới tiến bộ hơn, phù hợp hơn. Chính trị
chủ yếu là xây dựng nhà nước về mặt kinh tế.
Hai là, chính trị có tính độc lập tương đối và tác động trở lại đối với
kinh tế vì:
- Chính trị có quy luật vận động riêng:
Chủ nghĩa Mác-Lênin khơng phủ nhận vai trò quyết định suy đến cùng
của kinh tế, song cũng khơng có nghĩa là chỉ kinh tế là nguyên nhân duy nhất



5

chủ động cịn các yếu tố xã hội khác đóng vai trị thụ động: “Vấn đề hồn
tồn khơng phải là chỉ có hồn cảnh kinh tế mới là ngun nhân, chỉ có nó là
tích cực, cịn tất cả những cái còn lại đều chỉ là hậu quả thụ động”. Trong tất
cả sự tác động trở lại của các nhân tố xã hội khác đối với kinh tế thì sự tác
động trở lại của chính trị giữ vị trí quan trọng hàng đầu
“Chính trị có logic khách quan của nó, khơng phụ thuộc vào những dự
tính của cá nhân này hay cá nhân khác”.
- Chính trị tác động trở lại kinh tế:
Với tính độc lập tương đối, chính trị tác động trở lại kinh tế theo nhiều
hướng khác nhau, thúc đẩy hoặc kìm hãm, hoặc vừa thúc đẩy vừa kìm hãm.
Tác động ngược lại của quyền lực nhà nước đối với sự phát triển kinh tế có
thể có ba loại: có thể tác động ngược lại sự phát triển kinh tế, có thể cản trở sự
phát triển kinh tế hoặc thúc đẩy sự phát triển ở chiều hướng khác. Trên thực
tế, khơng có đường lối chính trị đúng đắn thì khơng một giai cấp nào có thể
giữ vững được sự thống nhất chính trị của mình, và do đó, cũng khơng có khả
năng lãnh đạo kinh tế. Muốn có đường lối chính trị đúng đắn, cần thiết phải
có một thiết chế chính trị và các chủ thể chính trị phù hợp, bảo đảm hiện thực
hóa có kết quả đường lối phát triển kinh tế.
Chính trị đóng vai trị định hướng và tạo mơi trường chính trị - xã hội ổn
định bảo đảm cho sự phát triển kinh tế. Sự định hướng chính trị cho sự phát
triển kinh tế thể hiện trên tất cả các khâu của quá trình phát triển kinh tế như:
xây dựng đường lối phát triển kinh tế, định hướng q trình tổ chức thể chế
hóa đường lối, quản lý quá trình phát triển kinh tế và định hướng xã hội phát
triển kinh tế để khơng có sự hy sinh cái này cho cái kia, và để lợi ích giai cấp
thống trị không bị vi phạm. Hơn nữa, trong điều kiện tồn cầu hóa đời sống


6


kinh tế, sự ổn định chính trị là điều kiện thuận lợi cho mọi hoạt động đầu tư,
kinh doanh và phát triển kinh tế.
Trong các mối quan hệ xã hội, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là
quan trọng nhất, đồng thời cũng nhạy cảm và phức tạp nhất. Để giải quyết tốt mối
quan hệ này cần phải tránh hai quan điểm sai lầm: một là, tuyệt đối hóa kinh
tế; hai là, tuyệt đối hóa chính trị. Nếu theo khuynh hướng thứ nhất, nền kinh tế sẽ
phát triển một cách tự phát, vơ chính phủ. Nếu theo khuynh hướng thứ hai, nền
kinh tế sẽ phát triển theo hướng áp đặt, không theo quy luật khách quan. Nếu đồng
nhất chính trị với kinh tế sẽ làm chính trị trở nên cứng nhắc, giáo điều.
Thực chất sự tác động của chính trị đối với kinh tế là tạo ra mơi trường
xã hội ổn định, giải phóng sức sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế và
định hướng phát triển. Sự phát triển xã hội địi hỏi phải có sự ưu tiên của
chính trị đối với kinh tế, phải có giải pháp chính trị để phát triển kinh tế. Kinh
tế càng phát triển thì chính trị càng phải mở rộng, đổi mới, tạo tiền đề tiên
quyết thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2. Vận dụng quan điểm Mác xít về quan hệ giữa kinh tế và chính trị
trong q trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay
Trong thời kỳ chiến tranh, vì chưa giành được chính quyền nên Đảng ta
xác định, phải ưu tiên chính trị, kinh tế chỉ là nhân tố phục vụ cho mục tiêu
chính trị. Thậm chí, ở mức độ nào đó, chúng ta đã phải hy sinh nhu cầu, lợi
ích kinh tế để giữ vững thành quả chính trị. Vì vậy, việc phát triển nền kinh tế
kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp là phù hợp và cần thiết.
Hịa bình lập lại (năm 1975), chính trị lúc này phải là phát triển kinh tế.
Nhưng Việt Nam lại kéo dài mơ hình kinh tế và chính trị thời chiến sang thời
kỳ hịa bình, thậm chí có lúc, có nơi cịn tuyệt đối hóa chính trị, theo đó, mơ
hình kinh tế và chính trị được thiết lập một cách chủ quan duy ý chí, giáo


7


điều, không trên cơ sở thực trạng phát triển kinh tế đất nước, không phù hợp
với yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng. Nhấn quá mạnh vai trò của chính
trị, coi chính trị là thống sối, bất chấp quy luật kinh tế: đường lối, chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước dựa trên mong muốn chủ
quan; can thiệp một cách quá sâu và thô bạo bằng những biện pháp áp đặt phi
kinh tế vào sự phát triển kinh tế. Hậu quả dẫn đến chính trị mang nặng tính
quan liêu, trở thành gánh nặng cản trở kinh tế; kinh tế mất động lực phát triển,
rơi vào trì trệ, khủng hoảng. Vì vậy, Việt Nam buộc phải tiến hành đổi mới.
Từ khi đổi mới đến nay, trên cơ sở nhận thức lại chủ nghĩa Mác - Lênin
nói chung và quan niệm của C.Mác về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
nói riêng, Đảng ta đã chủ trương đổi mới toàn diện và triệt để trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, đổi mới cả kinh tế lẫn chính trị. Thành cơng nổi
bật là Đảng ta đã xác định đúng đắn trọng tâm, trọng điểm và bước đi trong
đổi mới. Cụ thể: bắt đầu từ đổi mới về tư duy, tư duy lý luận về chủ nghĩa xã
hội. Cùng với đổi mới tư duy, Đảng chủ trương kết hợp ngay từ đầu đổi mới
kinh tế với đổi mới chính trị. Đây là sự vận dụng đúng đắn quan niệm của
C.Mác về mối quan hệ kinh tế và chính trị. Thời kỳ đầu lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm, từng bước đổi mới chính trị. Kết quả là chúng ta đã đổi mới một
cách cơ bản về cơ sở hạ tầng, tức từ nền kinh tế một thành phần sang kinh tế
nhiều thành phần; từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước; từ phân phối bình quân, tem phiếu sang
phân phối theo hiệu quả lao động, theo vốn đóng góp và theo phúc lợi xã hội.
Từ Hội nghị Trung ương 2 (khóa VII) đến nay, tình hình đã cho phép
về mặt kinh tế và đòi hỏi phải đổi mới căn bản về chính trị. Tuy nhiên, trong
đổi mới chính trị, Đảng ta đã khẳng định có những vấn đề thuộc về nguyên
tắc là: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội và thực hiện chế độ chính trị nhất nguyên, một



8

đảng lãnh đạo đó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Tập trung đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, các khâu khác được tiến hành
thận trọng từng bước. Đặc biệt, chính trị đụng chạm đến các mối quan hệ
đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội, nên Đảng đã chủ động chỉ đạo
“việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu
và chuẩn bị rất nghiêm túc, khơng cho phép gây mất ổn định chính trị, dẫn
đến sự rối loạn"3.
Tuy nhiên, quá trình đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của nước ta
hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Đó là: “Kinh tế phát triển
chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực
được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mơ có lúc thiếu ổn định, tốc độ
tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất
lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu
bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và mơi trường ” 4. Trên thực tế, đổi mới
chính trị cũng đang chậm so với đổi mới kinh tế: “Tổ chức bộ máy của Đảng và
tồn hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; chức năng, nhiệm vụ ở
một số tổ chức còn chồng chéo; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhiều tổ chức
trong hệ thống chính trị chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, v.v. Việc kiện toàn tổ
chức, bộ máy các cơ quan, tổ chức nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội gắn
với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức kết quả
cịn thấp. Số lượng cơng chức khơng những khơng giảm mà lại tăng…”5. Điều
đó không chỉ ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội, mà còn là nguyên nhân
dẫn đến xuất hiện một số bất ổn định trong xã hội. Vì thế, Đại hội XII của Đảng
nhấn mạnh mục tiêu và nhiệm vụ phát triển đất nước trong 5 năm tiếp theo là:
“đổi mới mạnh mẽ, tồn diện và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực,
3 ĐCSVN- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr 54.
4 ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB CTQG - ST, H. 2016, tr. 67.


5 ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB CTQG - ST, H. 2016, tr. 193 – 194.


9

nhất là giữa kinh tế và chính trị”6 và đây cũng là một trong chín mối quan hệ lớn
chúng ta phải giải quyết trong nhiệm kỳ 2016 - 2020.
Để giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị mà
Đại hội XII đã đề ra trong những năm tới, chúng ta cần tuân thủ một số
nguyên tắc sau:
Một là, cần nhận thức đúng vấn đề có tính quy luật là kinh tế suy cho cùng
quyết định chính trị, mọi sự biến đổi của chính trị đều là sự phản ánh của biến
đổi kinh tế, do kinh tế quyết định. Vì vậy, phải từ đổi mới kinh tế của nước ta
hiện nay mà đổi mới chính trị và từ thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa để xem xét đổi mới chính trị cho phù hợp. Đồng
thời, chính trị có vai trị định hướng, dẫn dắt (thơng qua cơ chế, chính sách) đối
với kinh tế nên phải đổi mới chính trị. Tuy nhiên, chính trị là lĩnh vực nhạy cảm
và phức tạp nên đổi mới chính trị phải thận trọng, có bước đi phù hợp, tiến hành
từng bước.
Hai là, đặt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong
xu thế phát triển của thời đại và với các mối quan hệ khác của công cuộc đổi
mới. Thời đại ngày nay là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên toàn cầu,
do vậy cần tiếp tục đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội, xác định những
yêu cầu mới trong việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị là điều kiện giải quyết các mối quan hệ khác trên cơ sở giữ vững
độc lập, chủ quyền trong q trình hội nhập quốc tế. Theo đó, ở nước ta hiện
nay giải quyết quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị theo hướng
thiết lập và hồn thiện thể chế kinh tế - chính trị - xã hội thống nhất, hài hòa;
xây dựng kinh tế thị trường hiện đại - chính trị dân chủ - xã hội công bằng,

văn minh.

6 ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB CTQG - ST, H. 2016, tr. 15.


10

Ba là, cần nắm vững những quan điểm có tính chỉ đạo, những yêu cầu về
sự thay đổi tương thích cần có giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị để có
sự lựa chọn và vận dụng các phương pháp khoa học trong việc giải quyết mối
quan hệ giữa chúng.
Trong những năm tới chúng ta cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Về kinh tế: tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế quyết định chính trị và nguyên nhân sâu xa
của mối quan hệ này là do sở hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu quy định. Do vậy,
để đổi mới kinh tế, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể, cần tập trung nhận thức và thể chế hóa
các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; thể chế hóa vai trò “chủ đạo” của kinh tế nhà nước;
xác định rõ ràng vị trí, vai trị, biện pháp phát triển kinh tế tư nhân; hoàn thiện
thể chế phát triển các loại thị trường trong điều kiện hội nhập quốc tế đầy đủ,
sâu rộng, đặc biệt là thị trường lao động, tài chính, bất động sản và khoa học cơng nghệ; hoàn thiện thể chế phân phối thu nhập quốc dân, giải quyết hài hòa
tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và thể chế quản lý
các lĩnh vực văn hóa, xã hội và mơi trường, đảm bảo sự phát triển bền vững.
Về chính trị, “Tiếp tục đổi mới bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị
theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều
hành”7. Các kỳ Đại hội trước, Đảng chủ trương tập trung đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội
khác. Nhưng tại Đại hội XII, Đảng tập trung vào đổi mới bộ máy của Đảng,
hơn nữa là tập trung “Nghiên cứu thực hiện thí điểm hợp nhất một số cơ quan

đảng và nhà nước tương đồng về chức năng, nhiệm vụ” 8 để trên cơ sở đó tinh
giảm bộ máy làm việc khơng hiệu quả, chồng chéo những chức năng, nhiệm
7 ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB CTQG - ST, H. 2016, tr.203.
8 ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB CTQG - ST, H. 2016, tr.203.


11

vụ không rõ ràng, nhằm “Thực hiện chủ trương quản lý biên chế thống nhất
trong tồn bộ hệ thống chính trị. Tinh giản tổ chức, bộ máy gắn với tiếp tục
phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của các tổ chức;
thực hiện kiêm nhiệm một số chức danh và tinh giản biên chế trong toàn hệ
thống chính trị. Cơ bản thực hiện mơ hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch
Hội đồng nhân dân các cấp. Sớm tổng kết mơ hình bí thư cấp ủy đồng thời là
chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, cấp huyện ở những nơi có đủ điều kiện”9.
Xác định rõ ràng vai trò lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý kinh tế
của Nhà nước, nhằm khắc phục những sai lầm thường xảy ra trong quản lý
kinh tế ở nước ta là cơ quan đảng làm thay chức năng quản lý nhà nước, còn
cơ quan nhà nước lại lấn át quyền quản lý của doanh nghiệp. Do vậy, trong
những năm tới cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa theo hướng “đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến
hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực,
hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế
bảo vệ Hiến pháp và pháp luật”10. Nhà nước đóng vai trị định hướng, xây
dựng và hồn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng,
minh bạch; Nhà nước sử dụng các nguồn lực, cơng cụ, cơ chế, chính sách
để định hướng, điều tiết nền kinh tế; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
trong từng bước, từ chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Trong đổi mới chính trị những năm qua chúng ta mới chỉ tập trung nhấn
mạnh ý nghĩa của đổi mới tư duy về chính trị chứ chưa thực sự tiến hành đổi

mới ở con người chính trị - chủ thể hoạt động chính trị và cơ chế hoạt động có
hiệu quả của hệ thống chính trị. Vì vậy, thời gian tới chúng ta cần tập trung
đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy phải gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm
9 ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB CTQG - ST, H. 2016, tr.204.
10 ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB CTQG - ST, H. 2016, tr.175.


12

vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước và
hệ thống chính trị.
Ngồi ra, cần tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của
các tổ chức chính trị - xã hội. Đa dạng hóa về hình thức, chức năng, nhiệm vụ,
nâng cao tính thiết thực và hiệu quả, làm tốt chức năng phản biện, giám sát xã
hội. Về phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị, đồn thể xã hội, hội
nghề nghiệp cần mạnh dạn sang hoạt động tự chủ. Tránh tình trạng “nhà nước
hóa” các tổ chức chính trị như trong tình hình hiện nay làm cho ngân sách nhà
nước phải gánh quá lớn mà ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ cho các tổ chức này
khi họ thực hiện công việc do Nhà nước yêu cầu.
KẾT LUẬN
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là một trong 8 mối quan hệ lớn đã
được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH (Bổ sung và phát triển năm 2011), được Đại hội XII tiếp tục khẳng
định. Nhìn lại 30 năm đổi mới vừa qua, mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và
chính trị ngày càng trở thành nội dung quan trọng trong các quan điểm, chủ
trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Do vậy, nhận thức và
giải quyết đúng đắn mối quan hệ này không chỉ là khâu đột phá mà còn giúp
giải quyết những vấn đề cơ bản nhất của thực tiễn đất nước đang đặt ra.



13

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1

Giáo trình Triết học Mác-Lênin (Hệ
cao cấp lý luận chính trị), Nxb. Lý luận
chính trị, H2016.

2

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Tập
13, Nxb CTQG - ST, H. 1995

3

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII. Nxb Sự thật, H.1991

4 Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội.

5 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội.


6 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ


14

XII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội.



×