Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Vấn đề thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.95 KB, 12 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP HỌC KỲ
MÔN:
LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
ĐỀ BÀI: SỐ 22
“Vấn đề thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự ở tòa án cấp sơ
thẩm, phúc thẩm và thực tiễn thực hiện”

HỌ TÊN

:

MSSV

:

LỚP

:

NHÓM

:

Hà Nội, 2020


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 3
NỘI DUNG ....................................................................................................... 4
I. Một số vấn đề lý luận về thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự ở tòa án
cấp sơ thẩm, phúc thẩm ................................................................................. 4
1. Khái niệm ............................................................................................... 4
2. Cơ sở của quy định về việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự ở
tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm ................................................................... 5
II. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề thay đổi, bổ sung
yêu cầu của đương sự ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm ............................... 6
1. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề thay đổi, bổ
sung yêu cầu của đương sự ở tòa án cấp sơ thẩm ...................................... 6
2. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề thay đổi, bổ
sung yêu cầu của đương sự ở tòa án cấp phúc thẩm .................................. 7
III. Thực tiễn thực hiện việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự ở tòa
án cấp sơ thẩm, phúc thẩm............................................................................. 8
IV. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh vấn đề thay đổi,
bổ sung yêu cầu của đương sự ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm .................. 9
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 12

2


MỞ ĐẦU
Trong tố tụng dân sự, quyền tự định đoạt biểu hiện ở khả năng khi tham
gia tố tụng, các đương sự tự do định đoạt các quyền, phương tiện tố tụng
nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trước các xâm hại. Trong Bộ luật
Tố tụng Dân sự đã khái quát về việc đương sự có quyền quyết định việc khởi
kiện, u cầu tồ án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi
kiện, đơn yêu cầu giải quyết vụ việc của đương sự và chỉ giải quyết trong

phạm vi đơn khởi kiện, đơn u cầu đó. Trong q trình giải quyết vụ việc
dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc
thoả thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã
hội. Mặc dù đã xác lập một nguyên tắc cơ bản và quan trọng như vậy nhưng
xem xét các quy định khác của Luật tố tụng dân sự Việt Nam cũng như trong
thực tế xét xử thì vẫn cịn tồn tại một số điểm bất cập cần phải được hồn
thiện. Chính vì vậy, em xin lựa chọn đề tài số 22: “Vấn đề thay đổi, bổ sung
yêu cầu của đương sự ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và thực tiễn thực
hiện” để tìm hiểu và nghiên cứu.

3


NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lý luận về thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự ở tòa
án cấp sơ thẩm, phúc thẩm
1. Khái niệm
Đương sự trong vụ việc dân sự là người tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc để bảo vệ lợi ích cơng cộng, lợi ích
của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan
đến vụ việc dân sự.
Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 định nghĩa về đương sự như sau:
“ Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đương sự trong việc dân
sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm người yêu cầu giải quyết việc dân sự
và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.”
Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cơ quan,
tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án
giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó
bị xâm phạm..

Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa
án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên
đơn bị người đó xâm phạm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy
không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên
quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các
đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng
với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Người yêu cầu giải quyết việc dân sự là người yêu cầu Tòa án công nhận
hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý làm căn cứ phát sinh quyền, nghĩa
4


vụ về dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của
mình hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; u cầu Tịa án cơng nhận cho
mình quyền về dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động.
Thay đổi yêu cầu là việc sửa đổi yêu cầu mà đương sự đã đưa ra ban đầu
còn bổ sung là việc đương sự thêm các yếu tố cần thiết để yêu cầu ban đầu trở
nên đầy đủ. Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu là sự thể hiện của quyền tự định
đoạt của đương sự được pháp luật ghi nhận và đảm bảo thực hiện đối với cá
nhân, cơ quan, tổ chức, cho phép họ được sửa đổi, thêm bớt các đề nghị, đòi
hỏi đó trong q trình tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng dân
sự.
2. Cơ sở của quy định về việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự ở
tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm
Cơ sở pháp lý của quy định về việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương
sự ở tòa án sơ thẩm, phúc thẩm là nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương
sự được quy định tại Điều 5 Bộ luật TTDS 2015:

“ 1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, u cầu Tịa án có
thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân
sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong
phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.
2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm
dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện,
không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội”.
Quyền tự định đoạt của đương sự là quyền của đương sự trong việc tự
quyết định về quyền, lợi ích của họ và lựa chọn biện pháp pháp luật cần thiết
để bảo vệ quyền, lợi ích đó. Nội dung của ngun tắc quyền tự định đoạt của
đương sự xác định quyền của đương sự tự quyết định về việc tham gia tố tụng
dân sự, tự quyết định về việc tham gia tố tụng dân sự, tự quyết định quyền và
lợi ích của họ trong tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật và trách nhiệm
5


của tòa án giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác.
Cơ sở thực tiễn của quy định về việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương
sự ở tòa án sơ thẩm, phúc thẩm là trong q trình Tịa án xem xét, giải quyết
tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội thì các đương sự u cầu thì có thể
có nhiều nguyên nhân khác nhau như sự việc có biến chuyển, các bên thỏa
thuận được với nhau một số hoặc tồn bộ vấn đề tranh chấp hoặc có các tác
động khác dẫn đến việc thay đổi mong muốn của người đã yêu cầu và họ đưa
ra yêu cầu thay đổi, bổ sung các yêu cầu đó.
II. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề thay đổi, bổ
sung yêu cầu của đương sự ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm
1. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề thay đổi, bổ
sung yêu cầu của đương sự ở tòa án cấp sơ thẩm
Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu cho phép các đương sự có thể thay đổi u

cầu của mình theo hướng thêm, bớt yêu cầu, sửa đổi yêu cầu hay thay bằng
một yêu cầu khác với yêu cầu ban đầu. Khơng những vậy, đương sự cịn có
thể thực hiện việc này ở bất cứ thời điểm nào của quá trình tố tụng dân sự.
Khoản 2 Điều 5 BLTTDS 2015 quy định: “Trong quá trình giải quyết vụ
việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc
thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, khơng vi phạm điều cấm của luật và
không trái đạo đức xã hội”.
Theo đó, đương sự là người đã khởi kiện, đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu
độc lập đối với các đương sự khác hay yêu cầu Tòa án giải quyết đều có thể
thay đổi, bổ sung yêu cầu đó. Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự
chỉ được chấp nhận khi điều đó thể hiện ý chí tự nguyện của các đương sự,
việc thay đổi, bổ sung u cầu đó là khơng trái với pháp luật, đạo đức xã hội
và không vượt quá phạm vi được cho phép theo quy định của pháp luật.
Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
được quy định tại Điều 243 Bộ luật TTDS 2015.
6


“Thủ tục hỏi đương sự về việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu được bắt đầu
bằng việc chủ tọa phiên tòa hỏi đương sự về các vấn đề sau đây:
1. Hỏi nguyên đơn có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc tồn bộ u
cầu khởi kiện hay khơng.
2. Hỏi bị đơn có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc tồn bộ u cầu
phản tố hay khơng.
3. Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có thay
đổi, bổ sung, rút một phần hoặc tồn bộ u cầu độc lập hay khơng”.
Để đảm bảo một mặt tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự nhưng
mặt khác khơng gây khó khăn cho việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án,
Điều 244 BLTTDS 2015 quy định cụ thể như sau:
“1. Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương

sự nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu
khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu.
2. Trường hợp có đương sự rút một phần hoặc tồn bộ u cầu của mình
và việc rút u cầu của họ là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình
chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút”.
Quy định này là hợp lý và cần thiết vì để xem xét một u cầu mới phát
sinh thì Tịa án cần có thời gian chuẩn bị, chuẩn bị những vấn đề liên quan
liên quan đến yêu cầu mới tại phiên tịa; đồng thời khơng gây ra sự bất lợi cho
các đương sự khác nhằm đảm bảo quyền tranh tụng giữa các đương sự trong
tố tụng dân sự. Do đó, quy định hạn chế như vậy để tránh việc đương sự lạm
dụng quyền thay đổi yêu cầu gây ra khó khăn, rắc rối cho Tòa án trong việc
giải quyết vụ việc dân sự.
2. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề thay đổi, bổ
sung yêu cầu của đương sự ở tòa án cấp phúc thẩm
Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự ở tòa án cấp phúc thẩm được
quy định như sau:
7


“1. Trường hợp chưa hết thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 273
của Bộ luật này thì người đã kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo
mà không bị giới hạn bởi phạm vi kháng cáo ban đầu.
Trường hợp chưa hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại Điều 280
của Bộ luật này thì Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung
kháng nghị mà không bị giới hạn bởi phạm vi kháng nghị ban đầu.
2. Trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tịa phúc thẩm, người
kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo, Viện kiểm sát đã kháng nghị
có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị, nhưng không được vượt quá phạm vi
kháng cáo, kháng nghị ban đầu, nếu thời hạn kháng cáo, kháng nghị đã hết”.
Vì kháng cáo là người có quyền kháng cáo làm đơn yêu cầu Tòa án cấp

trên trực tiếp trực tiếp xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm vụ án mà bản án,
quyết định của Tịa án chưa có hiệu lực pháp luật nên trước hết có thể nhận
thấy rằng việc thay đổi kháng cáo trong phiên tòa phúc thẩm chỉ được giới
hạn trong phạm vi bản án, quyết định đó và giới hạn trong phạm vi kháng cáo
ban đầu. Như vậy, quyền thay đổi yêu cầu của đương sự trước khi mở phiên
tòa sơ thẩm rộng hơn quyền thay đổi kháng cáo trước khi mở phiên tòa phúc
thẩm.
Về thủ tục, việc thay đổi, bổ sung kháng cáo trước khi mở phiên tòa phải
được lập thành văn bản và gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm. Tòa án cấp phúc
thẩm phải thông báo cho các đương sự về việc thay đổi, bổ sung, kháng cáo,
thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc thay đổi, bổ sung kháng cáo.
Việc thay đổi, bổ sung kháng cáo tại phiên tòa phải được ghi vào biên bản
phiên tòa.
III. Thực tiễn thực hiện việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự ở
tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm
Thứ nhất, về khái niệm thay đổi, bổ sung yêu cầu. Tại khoản 2 Điều 5
Bộ luật TTDS 2015 quy định trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự các
8


đương sự có quyền thay đổi các yêu cầu của mình. Tuy nhiên, chưa có giải
thích rõ ràng về thế nào là thay đổi, bổ sung yêu cầu. Bộ luật TTDS 2015 cần
giải thích rõ thế nào là thay đổi, bổ sung yêu cầu để có sự áp dụng pháp luật
thống nhất trong các trường hợp đương sự có sự thay đổi, bổ sung yêu cầu
của mình.
Thứ hai, hiện nay, Tòa án địa phương chưa thống nhất về cách hiểu vượt
quá phạm vi khởi kiện ban đầu, ví dụ trong vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài
sản, đương sự chỉ yêu cẩu giải quyết buộc bị đơn trả nợ gốc, nhưng tại phiên
tòa yêu cầu bổ sung thêm tiền lãi chậm trả của số nợ gốc đã yêu cầu trong đơn
khởi kiện, như vậy, yêu cầu về tiền lãi có xem là vượt quá phạm vi yêu cầu

khởi kiện ban đầu không? Theo quy định của Khoản 1 Điều 244 Bộ luật
TTDS 2015 tại phiên toà sơ thẩm, Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi,
bổ sung yêu cầu của đương sự nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ
không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc
lập ban đầu. Nhận thức về cụm từ “vượt quá” có nhiều quan điểm khác nhau.
Theo quy định tại Điều 218 Bộ luật TTDS 2015 thì quyền thay đổi, bổ sung
yêu cầu của đương sự tại phiên toà bị hạn chế theo hướng rút bớt u cầu thì
được cịn theo hướng thêm thì khơng được. Bên cạnh đó lại có ý kiến cho
rằng không được vượt quá yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc
lập ban đầu là không được đưa thêm yêu cầu mới đồng thời không được tăng
giá trị u cầu, có nghĩa khơng được gây bất lợi cho các đương sự khác. Điều
này dẫn đến sự lúng túng, không thống nhất trong áp dụng pháp luật.
Thứ ba, thủ tục thực hiện việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự
trước khi mở phiên tịa khơng được pháp luật tố tụng dân sự hiện hành quy
định cụ thể và chỉ được ghi nhận trong đơn trình bày của đương sự hoặc biên
bản lấy lời khai. Trong khi đó, tại giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, việc
đương sự sửa đổi, bổ sung kháng cáo phải được lập thành văn bản và gửi tới
Tòa án cấp phúc thẩm. Quy định như vậy là chưa thống nhất và dễ dẫn tới sự
9


tùy tiện của Tòa án, gây ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền tố tụng hợp
pháp của đương sự.
IV. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh vấn đề thay
đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm
Thứ nhất, cần phải bổ sung các quy định về quyền thay đổi, bổ sung yêu
cầu của đương sự trước phiên tòa sơ thẩm; việc thay đổi này phải được báo
trước cho các đương sự khác trước khi mở phiên tòa sơ thẩm để đảm bảo cho
họ có thời gian chuẩn bị tài liệu, chứng cứ bảo vệ cho các quyền, lợi ích hợp

pháp của mình trước Tịa án.
Thứ hai, để tránh được sự tùy tiện từ phía Tịa án khi xem xét việc thay
đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm,
BLTTDS nên quy định việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự trong giai
đoạn này cần được thể hiện dưới hình thức văn bản là đơn yêu cầu.
Thứ ba, nếu giữ nguyên quy định về việc đương sự có quyền cung cấp
chứng cứ trong suốt quá trình tố tụng thì cần sửa khoản 1 Điều 244 BLTTDS
theo hướng: “Tại phiên toà sơ thẩm, đương sự có quyền thay đổi, bổ sung nếu
không làm xuất hiện thêm đương sự mới, không làm phát sinh thêm quan hệ
pháp luật mới cần giải quyết”.
Thứ tư, không nên hạn chế phạm vi thay đổi yêu cầu một cách triệt để
mà nên linh hoạt quy định những yêu cầu đơn giản được bổ sung không được
chấp nhận tại phiên tịa sơ thẩm thì Tịa án phải giải quyết các yêu cầu của
đương sự ở các vụ việc khác nhau mặc dù chúng liên quan đến nhau. Điều
này sẽ khiến cho vụ việc giải quyết vụ việc gặp khó khăn, lãng phí thời gian,
tiền bạc của cả người tiến hành và người tham gia tố tụng.

10


KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu cho thấy pháp luật tố tụng dân sự hiện hành đã quy định
tương đối về quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự trong quá trình tố
tụng dân sự. Các quy định này là cơ sở pháp lý để Tòa án giải quyết vụ việc
dân sự và là cơ sở để đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của
mình. Tuy nhiên, mặc dù đã có những sửa đổi, bổ sung đáng kể nhưng những
quy định về vấn đề này vẫn còn tồn tại khơng ít bất cập, địi hỏi phải được
tiếp tục nghiên cứu và hồn thiện. Để đẩy mạnh cơng cuộc cải cách tư pháp,
xây dựng nhà nước pháp quyền, thực hiện đầy đủ các quy định về tố tụng dân
sự nói chung và các quy định về việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự,

yêu cầu cầu đặt ra là phải thực hiện đồng bộ các giải pháp về sửa đổi, bổ sung
các quy định của pháp luật cùng với các giải pháp về tổ chức Tòa án và tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2015;
2. Bình luận Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Chủ biên: TS Bùi Thị
Huyền, NXB Lao động, Hà Nội, 2016;
3. Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
4. Bùi Thị Huyền, Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ án dân sự
theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tạp chí Luật học,
Số 7/2017;
5. Phạm Như Hưng, Nguyên tắc tranh tụng trong luật Tố tụng dân sự,
Tạp chí Luật học số 4/2017;
6. ;
7. ;
8. .

12



×