Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TIỂU LUẬN NHÀ nước và PHÁP LUẬT, “học thuyết về nhà nước và pháp luật của môngtexkiơ và vận dụng vào thực tiễn pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.31 KB, 28 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU

Xây dựng nhà nước pháp quyền khẳng định vai trò quản lý nhà nước,
quản lý xã hội bằng pháp luật, đảm bảo thực hiện và tôn trọng quyền con người,
quyền cơng dân. Trong q trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, bên cạnh vận dụng và nghiên cứu học thuyết Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật chúng ta cần nghiên cứu và tiếp
thu có chọn lọc những học thuyết khác có tư tưởng tích cực, tiến bộ khoa học về
những giá trị tinh hoa của nhân loại để vận dụng trong điều kiện hội nhập phát
triển kinh tế.
Quan điểm của Đảng ta về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa được hình thành trên cơ sở nhận thức và tiếp thu chọn lọc những quan
điểm tư tưởng tích cực về nhà nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại bao gồm
của các nước trên thế giới để đưa vào thử nghiệm và từng bước xây dựng hoàn
thiện ở Việt Nam. Đây là q trình tìm tịi nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc,
không sao chép, rập khuôn, giáo điều để vận dụng một cách linh hoạt vào thực
tiễn lịch sử Cách mạng Việt Nam.
Vì lý do đó, nên bản thân chọn đề tài: “Học thuyết về nhà nước và pháp
luật của Môngtexkiơ và vận dụng vào thực tiễn pháp luật Việt Nam” để làm
tiểu luận cho mình.
Để phục vụ cho việc nghiên cứu, bản thân đã thu thập nhiều tài liệu từ
những nguồn khác nhau như: giáo trình, tài liệu học tập, các bài viết đăng trên
các tạp chí… để từ đó sử dụng phương pháp tổng hợp, lịch sử, phân tích, chứng
minh, quy nạp nhằm giải quyết những vấn đề mà đề tài đã đặt ra.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của đề tài gồm 3 nội
dung, cụ thể như sau:
1. Lịch sự hình thành và phát triển tư tưởng về nhà nước và pháp quyền.
2. Nội dung cơ bản về nhà nước và pháp luật của Môngtexkiơ.


3. Vận dụng của Việt Nam trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội


chủ nghĩa.

B. NỘI DUNG
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN CỦA MÔNGTEXKIƠ
I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG VỀ
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN:
1. Quan điểm nhà nước pháp quyền:
Thế kỷ 18 – 19, Cantơ và các nhà tư tưởng tiến bộ đã đưa ra quan niệm
nhà nước pháp quyền nhằm chống lại nhà nước chuyên chế, cực quyền phong
kiến, chống lại sự độc đoán, lạm quyền và nằm trong trào lưu chung của hệ tư
tưởng giải phóng. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền địi hỏi phải thay đổi hệ
thống chính trị, mở rộng dân chủ dựa trên nguyên tắc tôn trọng tính tối cao của
pháp luật và pháp chế. Với tính cách là một hình thức chính trị pháp lý hợp lý,
nhà nước pháp quyền là một trong những giá trị quý báu chung của toàn nhân
loại, được xếp ngang với những giá trị khác như nhân quyền, dân chủ và chế độ
lập hiến.
2


Vấn đề nhà nước pháp quyền được đề cập nhiều trong các tác phẩm kinh
điển về nhà nước và pháp luật. Từ thời cổ đại, người ta đã bắt đầu tìm kiếm
nguyên tắc, hình thức và cơ cấu để thiết lập quan hệ qua lại, tác động qua lại và
phụ thuộc lẫn nhau giữa pháp luật và quyền lực. Trào lưu của quan niệm ngày
càng sâu sắc, sớm hình thành tư tưởng về sự hợp lý và công bằng của việc tổ
chức một hình thức chính trị của đời sống xã hội, trong đó nhờ vào sự thừa nhận
và ủng hộ của quyền lực, pháp luật trở thành sức mạnh của quyền lực, còn sức
mạnh của quyền lực được tổ chức có trật tự, thừa nhận bằng pháp luật và bị hạn
chế, ràng buộc bởi pháp luật, trở thành quyền lực nhà nước công bằng (tức phù
hợp với pháp luật). Sự nhận thức như vậy về nhà nước như một tổ chức pháp lý

của sức mạnh quyền lực công khai là tư tưởng cơ bản về nhà nước pháp quyền.
Học thuyết về nhà nước pháp quyền thực tế được xây dựng muộn hơn trong
cuộc đấu tranh chống lại sự lộng quyền, độc đoán của giai cấp phong kiến. Tuy
vậy, ý tưởng về nhà nước pháp quyền đã có cội nguồn từ xa xưa trong lịch sử
nhân loại.
Có người cho rằng cội nguồn của nhà nước pháp quyền chính là biểu
tượng cổ xưa về quan tòa - nữ thần bịt mắt bằng băng vải đen, một tay cầm
kiếm, một tay cầm cán cân công lý, thể hiện sự kết hợp giữa sức mạnh và quyền
lực pháp luật có ý nghĩa sâu sắc: trật tự pháp luật mà nữ thần bảo vệ là bắt buộc,
bình đẳng đối với tất cả mọi người. Biểu tượng nữ thần nói trên, theo quan niệm
của người cổ đại, khơng chỉ là biểu tượng về tồ án cơng bằng mà cịn là chế độ
nhà nước cơng bằng nói chung (tổ chức quyền lực cơng bằng). Tư pháp được coi
là sự phán xét dựa trên cơ sở pháp luật.
Aristơt - cha đẻ của khoa học chính trị cổ đại - cho rằng nơi nào khơng
có sức mạnh của Luật thì nơi đó khơng có hình thức chế độ nhà nước. Aristôt
hiểu luật là luật pháp quyền (bất cứ đạo luật nào cũng bao hàm trong mình pháp
luật, nói về tính tối cao của luật trong một nhà nước được tổ chức theo đúng
nghĩa của nó). Theo ơng, khái niệm công bằng gắn liền với quan niệm về nhà
nước, bởi vì pháp luật là tiêu chuẩn của sự cơng bằng, là quy phạm điều chỉnh
3


mọi giao tiếp chính trị. Các nhà tư tưởng cổ đại khơng chỉ chú trọng tới tính tối
cao của luật, của pháp luật mà còn chú trọng tới sự tổ chức hợp lý của hệ thống
quản lý nhà nước. Cả hai khía cạnh đều có ý nghĩa quan trọng, liên hệ mật thiết
với nhau. Nếu khơng có tổ chức quy củ của nhà nước, thì khơng có sự phân định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; không quy định trật tự trong mối quan hệ qua
lại giữa các cơ quan nhà nước thì khơng thể có tính tối cao của pháp luật. Mặt
khác, bản thân tổ chức hệ thống quyền lực của nhà nước pháp quyền không thể
tồn tại nếu không phù hợp với pháp luật, nếu luật không được tuân thủ.

Quan điểm nhà nước pháp quyền của Môngtexkiơ (1698 – 1755): là tác
giả cuốn sách nổi tiếng Bàn về tinh thần pháp luật (1748). Trong tác phẩm này,
ông cho rằng sự tồn tại của chế độ chuyên chế dựa vào việc làm cho con người
khiếp sợ và nhà nước trong chế độ chuyên chế là nhà nước của sự độc đốn và
tuỳ tiện, bởi vì việc ban hành pháp luật và thi hành pháp luật tập trung vào tay
một người. Từ việc phân tích đó, Mơngtexkiơ lập luận về sự cần thiết phải có
pháp luật và tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật, về sự cần thiết phải phân chia
quyền lực nhà nước thành quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Môngtexkiơ
lập luận rằng: “khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay
một người hay một viện ngun lão thì sẽ khơng là tự do nữa, vì người ta sợ
rằng chính ơng ta hay viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một cách độc tài.
Cũng khơng cịn là tự do nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và
quyền hành pháp. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp thì người ta sẽ
độc đốn với quyền sống và quyền tự do của cơng dân, quan tịa sẽ là người đặt
ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì ơng quan tịa có sức
mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của
quý tộc, hoặc của dân chúng nắm ln cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ
mất hết”. Vì vậy, cần phải phân chia quyền lực nhà nước để kiểm soát và ngăn
chặn lẫn nhau, khắc phục tình trạng độc đốn, chun quyền, tuỳ tiện. Như vậy,
nhân tố hợp lý trong lý thuyết phân chia quyền lực nhà nước của Môngtexkiơ
bắt nguồn từ yêu cầu đảm bảo tự do, dân chủ. Sự phân công trong thực hiện
4


quyền lực nhà nước đã trở thành nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước.
2. Lịch sử hình thành và phát triển tư tưởng về nhà nước pháp
quyền:
Bước phát triển đáng kể trong lý luận về Nhà nước pháp quyền được thể
hiện trong các học thuyết chính trị - pháp lý của các nhà tư tưởng La mã cổ đại,

đặt biệt của Xixêrơn. Ơng đã có những tư tưởng tiến bộ như: nhà nước là công
việc chung của nhân dân. Đặc biệt Xixêrôn đưa ra quan điểm nổi tiếng đó là: tất
cả mọi người đều ở dưới hiệu lực của pháp luật và nhân dân phải coi pháp luật
như chốn nương thân của mình. Theo ông, nhà nước là sự nghiệp và tài sản của
nhân dân. Xixêrôn quan niệm rằng nhân dân không phải là sự tập hợp bất kỳ nào
của nhiều người, tập trung lại với nhau theo kiểu nào đó mà là sự tập hợp của
nhiều người gắn bó với nhau bằng sự thống nhất với nhau về pháp luật và lợi ích
chung.
Như vậy, pháp luật là cội nguồn đẻ ra chế độ, tổ chức nhà nước. Pháp
luật ở đây được hiểu là pháp luật tự nhiên, pháp luật xuất phát từ bản chất lý trí
của con người và của thế giới xung quanh con người như sự sáng tạo của lý trí
thần thánh. Pháp luật tự nhiên có trước nhà nước và luật thành văn. Vì con người
là sản phẩm của tạo hóa, sản phẩm có lý trí nên pháp luật và sự cơng bằng là
thuộc tính vốn có của con người. Theo ông, một nhà nước là nhà nước pháp
quyền khơng phải do nhà nước đó tn thủ luật của mình mà là vì xét về cội
nguồn và về bản chất, nhà nước chính là pháp luật, pháp luật tự nhiên của nhân
dân. Pháp luật của nhà nước phải đáp ứng những đòi hỏi của pháp luật tự nhiên.
Các đạo luật đó đóng vai trị quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ chính
trị - quyền lực. Xixêrơn đưa ra nguyên tắc: luật tác động tới tất cả mọi người, kể
cả người nắm quyền lực nhà nước. Sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp
luật của nhà nước xuất phát ngay từ chỗ bản thân nhà nước là pháp luật chung

5


của mọi công dân. Do vậy, công dân là một trong những chủ thể bình đẳng của
pháp luật, của các mối quan hệ pháp lý và của trật tự pháp luật chung.
Tính hiện thực và hiệu lực thực tế của nhà nước với tính cách là trật tự
pháp luật chung, theo Xixêrơn phụ thuộc vào tính tích cực chính trị, pháp lý của
nhân dân. Do vậy, bảo vệ tự do cho công dân không phải việc của riêng ai mà là

tất cả mọi người vì quyền con người, vì tự do của công dân là quyền công dân,
là bộ phận cấu thành của trật tự pháp luật chung, của toàn bộ tổ chức nhà nước.
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền của các nhà tư tưởng cổ đại ảnh hưởng đến
sự hình thành và phát triển các học thuyết về phân quyền, nhà nước pháp quyền
của các nhà tư tưởng thời kỳ trung đại và cận đại. Các học thuyết này đã đóng
vai trị to lớn trong việc phê phán sự bất bình đẳng của chế độ phong kiến, sự
lạm quyền của quan lại phong kiến, khắc phục các quan điểm thần học về nhà
nước và pháp luật, khẳng định tư tưởng bình đẳng và tự do của mọi người trong
đời sống xã hội, trong tổ chức pháp luật - nhà nước của các quan hệ chính trị. Ý
nghĩa quyết định của sự phát triển về lịch sử và lý luận của những quan niệm
mới về nhà nước pháp quyền vào thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến lên chủ
nghĩa tư bản, là những vấn đề quyền lực chính trị dưới hình thức phân quyền
phù hợp với tương quan mới của các lực lượng chính trị, xã hội - giai cấp, đồng
thời loại trừ khả năng độc quyền hoá quyền lực trong tay một người hay một cơ
quan. Thế giới quan pháp lý của giai cấp tư sản đang lên đòi hỏi những quan
niệm mới về tự do của con người thơng qua việc tơn trọng tính tối cao của pháp
luật trong mọi việc công, tư.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT CỦA
MÔNGTEXKIƠ:
1. Học thuyết về chính thể nhà nước:
Trước khi cơng bố tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật; trong tác phẩm
Những bức thư Ba Tư, xuất bản năm 1721, Suy nghĩ về chính thể quân chủ phổ
6


thông xuất bản năm 1724, Môngtexkiơ đã phê phán chế độ chun chế Pháp.
Ơng coi sự độc đốn của chế độ này là khơng giới hạn và vì thế nó giống như
thể chế bạo chúa. Vua Pháp là “nhà phù thủy vĩ đại: ơng ta áp đặt quyền lực của
mình tới cả tư duy của các thần dân, ông ta buộc họ phải suy nghĩ theo ý thích
của ơng ta”. Trong các tác phẩm này, bằng lối kể chuyện ngụ ngôn, ông đã vạch

trần sự tráo trở, bạo lực, phản bội, gian xảo của chính thể chun chế độc đốn
Pháp, ông đã nhạo bán nhà vua Pháp có thiên tài tuyệt vời trong cầm quyền.
Đồng thời, ông cũng kịch liệt phê phán nhà thờ Thiên Chúa giáo, vạch trần bộ
mặt giả dối của các giáo sĩ, sự mù quáng và ăn bám của giáo hội. Môngtexkiơ
cho rằng, chế độ chuyên chế khơng thể dung hịa với tự do, vì thế để có tự do
cần phải tiêu diệt chế độ chuyên chế.
Trong tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật, Môngtexkiơ tiếp tục phát
triển lý thuyết của mình về các chính thể. Theo ơng, có ba cách cai trị khác nhau
hay là ba chính thể khác nhau, đó là chính thể dân chủ, chính thể quân chủ và
chính thể chuyên chế.
Chính thể dân chủ là chính thể mà dân chúng hay một bộ phận dân
chúng có quyền lực tối cao. Chính thể dân chủ chia thành chính thể cộng hịa
hay chính thể q tộc, ơng cho rằng “trong nước cộng hịa, khi tồn thể dân
chúng nắm quyền lực tối cao đó chính là chính thể dân chủ. Khi quyền lực tối
cao nằm trong tay một bộ phận dân chúng đó chính là chính thể q tộc”.
“Chính thể qn chủ thì chỉ một người cai trị nhưng cai trị bằng luật pháp được
thiết lập hẵn hoi. Trong chính thể chun chế thì trái lại, chỉ một người cai trị mà
khơng có luật lệ gì hết, chỉ theo ý chí và sở thích của hắn ta mà thôi”.
Như vậy, Môngtexkiơ đã coi chế độ chuyên chế là đối lập với chế độ
quân chủ bao gồm chế độ quân chủ lập hiến của chế độ cộng hịa. Theo ơng, nền
qn chủ lập hiến là quyền lực bị hạn chế theo kiểu quân chủ lập hiến Anh,
trong đó quyền lực của một người được thực hiện trên cơ sở đạo luật. Tuy nhiên,
trong quan điểm của Mơngtexkiơ về chính thể qn chủ vẫn cịn tính hạn chế
7


q tộc của ơng. Ơng cho rằng: “chính thể qn chủ ắt phải có những đặc quyền,
những đẳng cấp và cả nguồn gốc quý tộc” vì vậy cần phải giữ lại một vài đặc
quyền của quý tộc (về thuế, về xét xử ưu đãi) cũng như thiết lập cơ quan nghị
viện tối cao bao gồm đại diện quý tộc. Sở dĩ nên thành lập nghị viện của quý

tộc, vì quý tộc là những người khác biệt với người khác bởi nguồn gốc sinh ra,
có ưu thế về của cải bổng lộc, phần tham gia của họ vào việc lập pháp phải phù
hợp với những ưu thế này. Giáo hội và quý tộc là những yếu tố trung gian giữa
nhân dân và nhà vua, hạn chế quyền lực của nhà vua và ngăn ngừa độc đốn.
Khơng phải ngẫu nhiên các khuynh hướng ưu ái quý tộc của Mo6ngtexkiơ lại bị
Vo6nte và Gienvetxi phê phán.
Môngtexkiơ cũng dành nhiều sự quan tâm và thiện cảm đối với chính thể
cộng hịa, trong đó ơng chia thành chính thể cộng hịa dân chủ và cộng hịa q
tộc. Theo ơng, ngun tắc của chính thể cộng hịa dân chủ là đạo đức chính trị
với định nghĩa rõ ràng “đạo đức chính trị là tình u luật pháp và tình u tổ
quốc. Tình u ấy địi hỏi ln ln đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân. Ở
đây vận mệnh của chính thể được giao cho mỗi người cơng dân”. Ơng cịn giải
thích thêm: “Đạo đức trong chính thể cộng hịa là một điều rất giản dị: đó là lịng
u mến cộng hịa, đó là tình cảm chứ khơng phải là một chuỗi kiến thức”, “lịng
u mến nền cộng hịa trong chính thể dân chủ là lòng yêu dân chủ. Lòng yêu
dân chủ lại là lịng u sự bình đẳng và khơng những u vì quyền lợi mà yêu cả
về nghĩa vụ. Lòng yêu dân chủ còn là lòng yêu cuộc sống thanh đạm”, “luật
pháp mong muốn xây dựng nếp sống thanh đạm để công dân có thể đóng góp
nhiều cho tổ quốc.
Mơngtexkiơ cũng vạch ra những hạn chế của các chính thể. Tuy đề cao
chính thể dân chủ nhưng ơng cũng phân tích thêm “thật khó mà thiết lập bình
đẳng một cách tuyệt đối, nên cần có một cách định mức tương đối để giảm bớt
sự chênh lệch, như yêu cầu người giàu có đóng góp cho xã hội nhiều hơn người
nghèo và có chính sách nâng đỡ người nghèo”, “mọi sự bất bình đẳng trong
chính thể dân chủ đều phải tương đối hợp với bản chất của nền dân chủ. Ví dụ,
8


những người nào đó cần có việc làm thường xuyên để khơng bị nghèo khổ q,
thì họ khơng được lười biếng trên cơng việc...”. Bàn về tính thanh đạm trong

chính thể dân chủ, ơng cho rằng: “Khi chính thể dân chủ được xây dựng trên
một nền kinh tế thương mại, về bản chất là hướng tới sự thanh đạm, tính tiết
kiệm, tính khiêm tốn, thích làm việc, thích yên tỉnh. . ., mọi điều luật đều phải
phù hợp với nó, khiến cho thương mại làm tăng tài sản của mọi người, đặt các
cơng dân nghèo vào hồn cảnh dễ chịu, có thể làm việc như mọi người khác và
đặt các cơng dân giàu có vào một địa vị khiêm tốn, khiến họ cũng phải làm việc
thì mới có thu nhập, mới tồn tại được”.
Bên cạnh đó, ơng cịn chỉ ra rằng, chính thể dân chủ có thể sa đoạ trong
ngun tắc của nó trong hai trường hợp: một là, dân chúng sa vào khuynh hướng
bình đẳng cực đoan, tự do chủ nghĩa, khiến cho việc chỉ huy cũng như việc tuân
lệnh trở thành lộn xộn, phong tục tập quán, lòng u trật tự, rồi đến cả đạo đức
cũng khơng cịn nữa; hai là, người cai trị đánh mất tư tưởng bình đẳng, khi mà
những kẻ được dân tin tưởng muốn che giấu sự sa đọa của bản thân họ, tìm cách
làm bại hoại dân chúng, để dân chúng không thấy sự tham lam của họ, họ ca
ngợi tính “vĩ đại” của dân chúng, để dân chúng khơng nhìn thấy sự biển lận của
họ, họ ca ngợi tính tằn tiện của dân chúng.
Về chính thể qn chủ, Mơngtexkiơ khẳng định ngun tắc của chính thể
là danh dự và thể diện. Nguyên tắc ấy “làm cho mọi bộ phận trong cơ thể chính
trị lay chuyển, liên kết lại trong hành động, làm cho mọi người thấy mình hướng
về cái lợi của đất nước và tin rằng như thế sẽ có lợi cho cá nhân mình”. Nhưng
chính thể qn chủ cũng có thể bị sa đọa từ trong ngun tắc của nó, ví dụ như
các triều đại quân chủ Trung Hoa khi ông vua khơng tự ức chế mình, khơng chịu
sự kiểm sốt của pháp luật, thích tự mình cai quản tất cả và ngay tức khắc.
Trong tình trạng đó, vua và quan khơng được nhân dân kính trọng nữa, họ “phải
dùng đến cơng cụ tồi tệ của chính quyền độc tài để bắt dân kính trọng”. Cái gọi
là danh diện trở thành bỉ ổi. Cái gọi là công bằng trở thành khắc nghiệt.
9


Đối với chính thể chun chế Mơngtexkiơ cho rằng: “ngun tắc của

chính thể chun chế thì lúc nào cũng khơng ngừng sa đọa, đó là do bản chất
của chính thể. Các chính thể khác sa đọa là vì những sự cố riêng lẻ vi phạm
ngun tắc (cịn như chính quyền chun chế thì bản chất của nó là sự tàn bạo,
tàn bạo ấy ln ln tồn tại, mặc dầu có đơi khi dịu bớt tí chút”.
Sau khi phân tích những nguyên tắc, đặc điểm và những mặt lợi, hại của
từng loại hình chính thể, Mơngtexkiơ cho rằng, chính thể qn chủ hạn chế - là
qn chủ ơn hịa như ở Anh, là tốt hơn cả. Dựa trên lý luận về chính thể và mơ
hình tổ chức nhà nước ở Anh, ông đã xây dựng học thuyết về phân chia quyền
lực nhà nước (phân quyền).
2. Học thuyết về phân chia quyền lực nhà nước:
Chủ trương thành lập chíh thể quân chủ ôn hòa đã đưa Mo6ngtexkiơ đến
quan điểm về tự do chính trị, và từ quan điểm tự do chính trị ông đả ông đã xây
dựng học thuyết về phân chia quyền lực hà nước.
Phê phán các quan điểm sai lầm về tự do trước đây, Môngtexkiơ cho
rằng “Trong một nước có luật pháp, tự do chỉ có thể là được làm những cái nên
làm và không bị ép buộc làm điều không nên làm. . .Tự do là quyền được làm tất
cả những điều mà luật cho phép. Nếu một cơng dân làm điều trái luật thì anh ta
khơng cịn được tự do nữa, vì nếu anh ta tự do làm thì mọi người đều làm trái
luật cả”.
Dựa trên cơ sở những định chế của nước Anh và ý kiến của Lốccơ nêu
ra về việc phân chia quyền lực trong tổ chức nhà nước, nhưng khác với Lốccơ
ông không phân chia bang giao quốc tế thành một nhánh quyền lực ngang hàng
với quyền lập pháp và hành pháp. Ông phân chia thành ba quyền: quyền lập
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, trong đó quyền lập pháp là quyền của
nhà Vua hay pháp quan làm ra các thứ luật cho một thời gian hay vĩnh viễn và
sửa đổi hay hủy bỏ luật này; quyền hành pháp là nhà vua quyết định việc hòa
hay chiến, gửi đại sứ đi các nước, thiết lập an ninh, đề phòng xâm lược; quyền
10



tư pháp là quyền của nhà vua hay pháp quan trừng trị tội phạm, phân xử tranh
chấp giữa các cá nhân.
Phân tích về sự cần thiết phải phân chia quyền lực nhà nước,
Môngtexkiơ viết: “Khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại tay một
người, hay một viện ngun lão, thì sẽ khơng cịn gì là tự do nữa, vì người ta sợ
rằng chính ơng ta hay viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một cách độc tài.
Cũng khơng có gì là tự do nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và
quyền hành pháp. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp thì người ta sẽ
độc đốn đối với quyền sống và quyền tự do của công dân, quan tòa sẽ là người
đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì ơng quan tịa sẽ
có sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu có một người hay một tổ chức của quan chức,
hoặc của quý tộc, hoặc của dân chúng nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì
tất cả sẽ mất hết”.
Quan điểm chủ yếu trong chủ trương phân chia quyền lực nhà nước của
Môngtexkiơ là quyền lực ngăn cản quyền lực. Mỗi cơ quan được giao một lĩnh
vực và có thẩm quyền hoạt động trong lĩnh vực của mình, khơng có quyền trong
lĩnh vực khác, nhưng có quyền ngăn cản cơ quan khác. Ông chỉ rõ chức năng
thẩm quyền của từng cơ quan: “Quyền phán xét không nên giao cho một viện
nguyên lão thường trực, mà phải do những người trong đoàn thể dân chúng được
cử ra từng thời gian trong một năm, do luật định, lập thành tòa án, làm việc kéo
dài bao lâu tuỳ theo sự cần thiết. Làm như thế thì quyền xét xử, một thứ quyền
đáng sợ đối với người đời, không gắn vào một cơ quan nào hay một chức vụ
nào, nó trở thành như là vơ hình, như con số khơng... Cịn như quyền lập pháp
và quyền hành pháp thì có thể giao cho các cơ quan thường trực và các quan
chức vì nó khơng áp dụng cho từng cá nhân. Quyền lập pháp thể hiện ý chí
chung của quốc gia, quyền hành pháp thì thực hiện ý chí chung đó”.

11



Để đảm bảo quyền lập pháp thể hiện ý chí chung của quốc gia,
Môngtexkiơ đề nghị phân cơ quan lập pháp thành hai viện: một viện gồm đại
biểu quý tộc, một viện dành cho đại biểu của dân chúng. Mỗi viện sẽ thảo luận
riêng theo quan điểm và quyền lợi của mình nhưng nghị viện quý tộc chỉ được
tham gia công cuộc lập pháp với chức năng ngăn cản chứ khơng có chức năng
quy định.
Giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp cần có sự ngăn cản lẫn nhau. Cơ
quan hành pháp khơng có quyền thơng qua (biểu quyết) luật nhưng có quyền
ngăn cản cơ quan lập pháp biểu quyết các đạo luật có hại cho quốc gia. Vấn đề
này Mơngtexkiơ giải thích “nếu cơ quan hành pháp khơng có quyền ngăn cản
các dự định của cơ quan lập pháp thì cơ quan lập pháp sẽ trở thành chuyên chế,
tự ban cho mình thứ quyền hành mà xóa bỏ các quyền lực khác”. Ngược lại, cơ
quan lập pháp có quyền kiểm sốt cơ quan hành pháp, ơng giải thích: khơng nên
để cho quyền lực lập pháp có được chức năng ngăn cản quyền lực hành pháp, vì
quyền hành pháp có những giới hạn theo bản chất của nó, bao giờ nó cũng chỉ
giải quyết những cơng việc nhất thời...nhưng trong một nước tự do, nếu cơ quan
lập pháp khơng có quyền ngăn cản hành pháp thì nó phải có chức năng xem xét
các đạo luật đã ban hành được thực hiện như thế nào”. Ngồi ra cơ quan lập
pháp khơng được quyền xét xử nhà vua là người đứng đầu cơ quan hành pháp.
“Nếu cơ quan lập pháp xâm phạm ơng ta thì nó sẽ trở thành chun chế, và như
vậy là khơng cịn tự do nữa”.
Mặc dù Mơngtexkiơ chủ trương thành lập cơ quan đại biểu cho nhân
dân, nghĩa là chủ trương cho nhân dân được tham gia chính quyền nhưng ơng
muốn hạn chế bớt quyền này vì dân chúng do trình độ thấp kém khơng thể trực
tiếp lo việc nước, “dân chúng chỉ nên tham gia việc nước bằng cách chọn đại
biểu của mình là những người đủ năng lực làm việc”. Từng khu vực và từng địa
phương tổ chức bầu cử riêng để người dân bỏ phiếu lựa chọn đại biểu có năng
lực đại diện cho mình. Môngtexkiơ kêu gọi thành lập cơ quan đại diện nhân dân
để hạn chế quyền lực nhà vua nhằm chống lại chế độ chuyên chế nhưng thực
12



chất cũng chỉ là cương lĩnh thỏa hiệp, ơn hịa kêu gọi giai cấp tư sản thực hiện tự
do chính trị chứ khơng phải thiết lập tự do chính trị bằng con đường cách mạng
lật đổ giai cấp thống trị. Sau này, cách mạng 1789 và 1791 ở Pháp đã tiến xa hơn
cương lĩnh thỏa hiệp đó của Mơngtexkiơ, từ chối trao cho quý tộc thượng viện
và cắt bỏ một loạt quyền ưu đãi cho nhà vua.
3. Các quan điểm về pháp luật:
Trong tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật, Mơngtexkiơ cịn đề cập hàng
loạt vấn đề quan trọng về pháp luật như: pháp luật trong quan hệ với khí hậu và
địa lý; pháp luật trong quan hệ với tính cách dân tộc; pháp luật trong quan hệ với
thương mại, tiền tê; pháp luật với vấn đề dân số, hơn nhân gia đình, quyền thừa
kế, lịch sử pháp luật của người Pháp xưa.... Đặc biệt, ông chú trọng về những
điều cần chú ý trong việc soạn thảo luật. Ông cho rằng: phong cách thảo luật
phải giản dị, chớ nên dùng những từ ngữ mơ hồ, cần chú ý cách diễn đạt có thể
mâu thuẩn ngay trong điều luật. Ơng cịn chỉ rõ: luật khơng cần phải mềm mỏng,
tế nhị, khơng phải là một nghệ thuật lơgíc. Trong một đạo luật, nếu xét các
trường hợp ngoại lệ, giới hạn hoặc điều chỉnh linh hoạt là khơng cần thiết thì
chớ đưa vào văn bản luật, khiến cho các ci tiết lồng lẫn vào nhau. Chớ thay đổi
một điều luật chưa có đủ lý do cần thiết. . .luật thì phải có hiệu quả, được nhận
thức đúng với ý nghĩa của sự vật chứ đừng trái ngược với bản chất sự vật. Luật
pháp phải có cái gì trong sáng, làm ra luật là để trừng phạt cái ác. Luật phải có
tâm hồn vô tư cao cả”.

III. VẬN DỤNG CỦA VIỆT NAM TRONG XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA:
1. Sự cần thiết xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay:
13



Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước với đường lối phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản
lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước giữ vai trò hết sức
quan trọng trong điều tiết vĩ mơ. Vì vậy việc xây dựng và củng cố nhà nước
pháp quyền là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân như Hiến pháp
1992 đã quy định, đó là một trong những nhiệm vụ bức xúc, vô cùng quan trọng.
Nhà nước ta ra đời từ Cách mạng tháng 8/1945 được rèn luyện và trưởng
thành qua hai cuộc cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội
chủ nghĩa; được thử thách qua hai cuộc kháng chiến và xây dựng trong hòa bình.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, nhà nước đã có những đóng góp to lớn
trong q trình cách mạng, là công cụ đắc lực của nhân dân trong đấu tranh cách
mạng và xây dựng xã hội mới. Đảng ta, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh,
trung thành với học thuyết Mác-Lênin về Nhà nước và pháp luật đã vận dụng
sáng tạo vào điều kiện cụ thể ở nước ta phù hợp với truyền thống lịch sử và bản
sắc dân tộc Việt Nam. Những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và
pháp luật được khẳng định và kiểm nghiệm qua lịch sử lâu dài với những thành
tựu to lớn của Nhà nước ta. Đây là một tư tưởng độc đáo, sáng tạo của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và của Đảng ta trong q trình lãnh đạo Cách mạng Việt Nam, là
kết quả của sự vận dụng và phát triển những quan điểm tư tưởng của chủ nghĩa
Mác-Lênin, sự tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới vào chính quyền
xây dựng nhà nước kiểu mới do nhân dân làm chủ.
Ngay sau ngày giành được chính quyền về tay nhân dân, Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng ta đã chủ trương xây dựng Hiến pháp, biểu hiện đầu tiên của
một nhà nước pháp quyền. Hiến pháp năm 1946 là Hiến pháp dân chủ đầu tiên
của nước Việt Nam mới, phù hợp với giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân của nước ta, là một mốc son quan trọng đánh dấu quá trình bắt đầu xây dựng
một nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
14



Quá trình đổi mới kinh tế - xã hội đang diễn ra sơi động. Nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, ngày càng thiết lập
và củng cố quan hệ đa phương, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại, nhu cầu dân
chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội ngày càng cao, đòi hỏi phải xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền, đổi mới từ cơ chế, pháp luật, chính sách đến mơ
hình tổ chức, phương thức hoạt động cho phù hợp và thúc đẩy trở lại quá trình
phát triển kinh tế-xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, xác định quan điểm cơ bản,
phương hướng, chủ trương của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền, khắc
phục nhận thức mơ hồ, quan điểm lệch lạc là yêu cầu cấp thiết để thống nhất tư
tưởng, định hướng đúng cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã
hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới. Xây dựng nhà nước pháp quyền khơng
có nghĩa là quay lưng lại với quá khứ, xây dựng lại từ đầu một nhà nước theo
hướng khác mà là xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền, phát
huy thành tựụ và ưu điểm của nhà nước trong hơn nửa thế kỷ qua, triệt để khắc
phục khuyết điểm. Đây là sự kế thừa, vận dụng, phát huy học thuyết Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật trong điều kiện mới
của quốc gia, của thời đại nhằm phục vụ cho công cuộc đổi mới.
2. Vận dụng của Việt Nam trong xây dựng nhà nước pháp quyền:
2.1. Nguyên tắc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam:
Khi xây dựng nhà nước pháp quyền cần nắm vững nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như cương lĩnh của Đảng
về Nhà nước và pháp luật
Phát huy truyền thống và kinh nghiệm quản lý của Nhà nước. Xuất phát
từ thực tiễn Việt Nam với đặc điểm, truyền thống, tính cách và bản sắc dân tộc
15


Việt Nam, đồng thời tham khảo, học hỏi kiến thức và kinh nghiệm của thế giới,
song quyết không được rập khuôn sao chép trong bất cư trường hơp nào, giáo

điều, rập khuôn, sao chép đều làm phương hại đến lợi ích của đất nước, của dân
tộc". Xây dựng Nhà nước pháp quyền gắn liền với đổi mới đồng bộ hệ thống
chính trị.
2.2. Vận dụng học thuyết về nhà nước và pháp luật của Môngtexkiơ đối
với Việt Nam:
Chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng là một bước đột phá
trong đổi mới tư duy chính trị của Đảng, đánh một dấu mốc quan trọng trong đổi
mới hệ thống chính trị và đổi mới nhà nước ở Việt Nam. Tuy nhiên để hình
thành chủ trương này chính là sự cần thiết về phát triển các tư tưởng nhà nước
pháp quyền trong tư tưởng lịch sử của nhân loại. Các nhà tư tưởng này đã tìm
kiếm những nguyên tắc, hình thức cơ chế, giải quyết các mối quan hệ tương hỗ
giữa pháp luật với tổ chức và hoạt động của nhà nước, thực thi quyền lực nhà
nước với mục đích đem lại sự hài hịa giữa pháp luật và quyền lực.
Nội dung cốt lõi của lý thuyết nhà nước pháp quyền cho rằng, quyền lực
nhà nước ln có xu hướng tự mở rộng, tự tăng cường vai trị của mình. Bất cứ
ở đâu có quyền lực là xuất hiện xu hướng lạm quyền và chuyên quyền, cho dù
quyền lực ấy thuộc về ai. Do vậy, để đảm bảo các quyền tự do cơ bản của cơng
dân, ngăn ngừa các hành vi lạm quyền của Chính phủ thì phải thiết lập pháp chế
nhằm giới hạn quyền lực nhà nước. Cách tốt nhất để chống lạm quyền là giới
hạn quyền lực bằng các công cụ pháp lý và cách thực hiện không phải là tập
trung quyền lực, mà là phân chia nó ra. Thể chế chính trị tự do là thể chế chính
trị trong đó quyền lực tối cao được chia làm ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Các quyền này phải được trao cho các bộ phận độc lập với nhau nắm giữ.
Sự phân chia quyền lực ở đây phải được thể hiện trên cơ sở của pháp luật, nghĩa
16


là các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp chỉ được thực hiện những quyền
mà pháp luật quy định. Luật pháp ở đây phải mang tính khách quan, phải thừa

nhận các quyền tự do cá nhân, và bản chất của nó phải là sự thể hiện ý chí chung
của nhân dân.
Tuy nhiên, nội dung của lý thuyết phân quyền không chỉ dừng lại ở việc
phân định chức năng cho các nhánh quyền lực, mà còn tiến đến một mục đích
cao hơn, đó là cơ chế kiểm sốt lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực, hay còn gọi
là cơ chế kiềm chế và đối trọng. Kiềm chế và đối trọng là tập hợp các quyền và
trách nhiệm do pháp luật quy định làm cơ sở để các nhánh quyền lực thực hiện
kiểm sốt lẫn nhau. Nó tạo lập mối quan hệ chính trị - pháp lý giữa các nhánh
quyền lực sao cho các nhánh đó có thể độc lập thực thi nhiệm vụ bằng những
thẩm quyền pháp lý của mình, đồng thời có thể ngăn chặn được sự lạm quyền
của một nhánh nào đó. Theo lý thuyết này thì cơ chế phân quyền và đối trọng
quyền lực được thể hiện như:
Lập pháp ban hành luật, giám sát việc thực hiện các đạo luật do nó ban
hành và truy tố những quan chức bộ máy hành pháp khi họ vi phạm trách nhiệm.
Hành pháp có nhiệm vụ thực thi pháp luật, ngăn chặn những dự định tuỳ
tiện của cơ quan lập pháp.
Sự độc lập của cơ quan tư pháp và các quan tồ nhằm bảo vệ cơng dân
khỏi sự xâm hại bởi những đạo luật của cơ quan lập pháp cũng như hành vi tuỳ
tiện của cơ quan hành pháp. Thông qua các cuộc bầu cử tự do, nhân dân sẽ là
người thực hiện sự phân quyền, và các thiết chế quyền lực này phải tôn trọng
pháp luật và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Từ những cơ chế phân quyền và đối trọng quyền lực như đã nêu trên, các
tác giả của lý thuyết phân quyền cho rằng, phân quyền không những sẽ làm tăng
thêm hiệu quả của mỗi nhánh quyền lực trong việc thực hiện những chức năng
được giao, mà cịn ngăn cản khơng để một cơ quan riêng biệt nào tập trung
17


quyền lực quá mức, dẫn đến lạm dụng quyền hành trong khi thi hành công vụ.
Thông qua cơ chế như vậy, quyền tự do chính trị và quyền bình đẳng về cơ hội

phát triển cho mỗi cá nhân sẽ được bảo đảm và phát huy ở mức tối đa.
Từ khi ra đời, thuyết phân quyền được xác định là cơ sở lý luận cho việc
thiết kế và xây dựng các mơ hình thể chế nhà nước. Trong khn khổ của lý
thuyết phân quyền, thực tiễn đã hình thành những chính thể khác nhau phù hợp
với đặc điểm kinh tế, xã hội và truyền thống văn hoá của mỗi nước như: chính
thể Tổng thống, chính thể đại nghị và chính thể hỗn hợp. Các nước này, các
nhánh quyền lực nhà nước được thể chế hoá cao độ, các cơ quan lập pháp, hành
pháp, tư pháp được chuyên nghiệp hoá rất cao, cơ chế kiểm sốt quyền lực tỏ rõ
tính hiệu quả trong việc hạn chế tình trạng lạm quyền, chuyên quyền, quan liêu,
tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Lý thuyết phân quyền đã thể hiện những
giá trị tiến bộ của nó, những giá trị này đã được kiểm chứng trong thực tiễn
chính trị hàng trăm năm ở các nước tư bản phát triển, cụ thể:
Lý thuyết phân quyền được hình thành như là sự phủ định biện chứng về
mặt tư tưởng các lý thuyết thuyết tập quyền chuyên chế, đánh dấu sự chấm dứt
của chế độ quân chủ chuyên chế, độc tài và đặt nền móng cho sự hình thành các
thể chế tự do, dân chủ.
Việc trao quyền lực của nhân dân cho các nhánh quyền lực nhà nước
khác nhau như: lập pháp, hành pháp, tư pháp đã hình thành nên q trình phân
cơng lao động quyền lực nhằm tạo sự chun nghiệp hố, chun mơn hố chức
năng, nhiệm vụ của mỗi nhánh quyền lực, tăng cường tính hiệu quả và tác dụng
của chính quyền, khẳng định vị trí, vai trò của mỗi ngành trong cơ chế thực thi
quyền lực nhà nước.
Lý thuyết phân quyền đánh dấu sự phát triển hiện đại về tính kỹ thuật
chính trị - pháp lý trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, dùng phân
quyền để kiểm sốt sự lạm quyền. Đó là cơ chế kiềm chế và đối trọng, kiểm tra
18


và chế ước lẫn nhau trong hoạt động của ba nhánh quyền lực, nhờ đó mà nó đã
loại trừ nguy cơ tập trung tất cả quyền lực nhà nước vào tay một cá nhân, nhóm

người hay một cơ quan quyền lực duy nhất nào đó, nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến sự tha hóa trong q trình thực thi quyền lực.
Lý thuyết phân quyền là một đóng góp to lớn cho lý luận và thực tiễn
chính trị về nhà nước pháp quyền, vì nó được tổ chức và hoạt động trên nguyên
tắc lấy pháp luật làm tối thượng, lấy bảo đảm các quyền tự do cơng dân làm mục
đích cuối cùng. Nó khẳng định bất cứ một chế độ nào mà không thực hiện sự
phân chia quyền lực, không đề cao pháp luật và kiểm sốt quyền lực thì đó
khơng phải là nhà nước pháp quyền. Ở đây, phân quyền vẫn được khẳng định là
đặc trưng cơ bản của nhà nước có Hiến pháp, nhà nước pháp quyền, hay nhà
nước tự do dân chủ, trong đó phẩm giá cá nhân được tơn trọng và quyền tự do
được bảo đảm.
Thực tiễn chính trị đã thay đổi nhiều so với thời kỳ lý thuyết phân quyền
ra đời, thế nhưng, lý thuyết phân quyền vẫn cịn đầy sức sống, những giá trị
mang tính phổ quát của nó vẫn đang được khai thác và nhân rộng trong tổ chức
quyền lực của tất cả các nước, khơng phân biệt điều kiện kinh tế, văn hố và chế
độ chính trị. ở các nước tư bản phát triển, phân quyền vẫn là nguyên tắc cơ bản
để tiến hành cải cách, đổi mới phương thức tổ chức quyền lực nhà nước cho phù
hợp với sự xuất hiện và biến đổi của những nhân tố kinh tế, chính trị mới.
Riêng đối với các nước đang phát triển, lý thuyết phân quyền cũng đã tạo
ra nhiều vấn đề mang tính nguyên tắc khách quan trong q trình tìm kiếm mơ
hình dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền và thiết lập các yếu tố nền tảng
của văn minh chính trị. Nghiên cứu lý thuyết phân quyền vẫn có ý nghĩa lớn đối
với q trình đổi mới hệ thống chính trị, cải cách bộ máy nhà nước theo hướng
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Bên cạnh đó,
khai thác lý thuyết phân quyền, cần tập trung làm rõ tính độc lập, chun nghiệp
hố trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là việc tìm ra cơ chế
19


kiểm soát quyền lực hiệu quả nhưng vẫn đảm bảo tính tập trung thống nhất của

quyền lực, đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trước cơ quan quyền
lực của nhân dân.
2.3. Ảnh hưởng của học thuyết phân quyền trong tổ chức quyền lực ở
Việt Nam:
Khác với nguyên tắc phân quyền trong tổ chức bộ máy nhà nước tư sản,
quyền lực nhà nước ở Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống
nhất. Theo nguyên tắc này, Quốc hội được xác định là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất, đại diện cho toàn thể nhân dân, các cơ quan nhà nước khác là
phái sinh, do Quốc hội thành lập và chịu trách nhiệm trước cơ quan quyền lực
này. Các cơ quan nhà nước hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Mơ hình này đã có hiệu quả nhất định trong thời kỳ kế
hoạch hoá trước đây. Nhưng sang thời kỳ chuyển đổi, nó thể hiện sự kém hiệu
quả và cần phải được đổi mới.
Trong giai đoạn hiện nay, tổ chức bộ máy nhà nước ta về bản chất vẫn
bảo đảm tính tập quyền XHCN, song trên thực tế đã vận dụng những hạt nhân
hợp lý của thuyết phân quyền, nghĩa là nhấn mạnh đến khía cạnh phân cơng
quyền lực: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp”. Đây là bước phát triển trong nhận thức của Đảng ta về nguyên tắc
tập quyền XHCN trong thời kỳ đổi mới. Trên thực tế có thể thấy rằng, những hạt
nhân hợp lý của lý thuyết phân quyền chưa được chúng ta khai thác đầy đủ. Việc
phân công quyền lực giữa các cơ quan nhà nước còn nhiều bất cập, thiếu chuyên
nghiệp, chưa tạo ra được sự phát triển về kỹ năng chun mơn của các nhánh
quyền lực.
Chính sự phân công không rõ ràng về thẩm quyền đã dẫn đến sự chồng
chéo giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong việc thực thi quyền
20


lực. Tình trạng vừa tập trung quan liêu, trì trệ, vừa phân tán, thiếu thống nhất đã

làm cho cơ cấu quyền lực khơng phát huy được tính hiệu quả. Hơn nữa, chúng ta
cũng chưa kế thừa và thiết lập được cơ chế kiểm soát quyền lực hữu hiệu ngay
trong bản thân của bộ máy nhà nước, mà đó mới được coi là nội dung cốt lõi của
lý thuyết phân quyền. Chính vì quyền lực được tập trung nhưng khơng được
kiểm sốt hiệu quả đã dẫn đến tình trạng có lúc, có nơi người dân ủy quyền
nhưng lại bị mất quyền, các quyền tự do bị bó hẹp trên một số lĩnh vực và quyền
dân chủ cịn mang tính hình thức.
Ở nước ta, phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước được nhắc đến
nhiều nhất không phải thông qua cơ chế kiềm chế và đối trọng mà chủ yếu thông
qua chức năng giám sát tối cao của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đó là
Quốc hội. Về bản chất, đây là sự thể hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên
tắc này đảm bảo cho nhân dân, thông qua những người đại diện của mình có thể
kiểm sốt tồn bộ quyền lực nhà nước một cách toàn diện, triệt để nhất. Thế
nhưng, trong thực tiễn thì lại hồn tồn khác. Hoạt động giám sát tối cao của
Quốc hội còn hình thức, chưa tương xứng với vị thế cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất. Hệ thống các cơ quan thanh tra, kiểm tra tuy khá đầy đủ nhưng chưa
phát huy được vai trị của mình, khả năng phát hiện và xử lý việc quan liêu,
tham nhũng, tiêu cực chưa triệt để. Các cơ quan tư pháp thiếu tính độc lập,
khách quan và công bằng, chưa thực sự là cán cân công lý trong việc bảo vệ
pháp luật và bảo về quyền và lợi ích của nhân dân.
Từ thực trạng trên không chỉ làm suy yếu chức năng của các nhánh
quyền lực trong việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, mà nó
cịn trở thành lực cản rất lớn đối với quá trình thực thi dân chủ trong xã hội. Vì
vậy, đã đến lúc chúng ta nên nghiêm túc xem xét lại những giá trị tích cực của lý
thuyết phân quyền, phải phân biệt rõ tính chính trị (quyền lực nhà nước là của
ai, do giai cấp nào nắm giữ) và tính kỹ thuật (việc tổ chức, sắp xếp các cơ quan
nhà nước sao cho hoạt động có hiệu quả) của lý thuyết phân quyền, khắc phục
tình trạng q nhấn mạnh mặt chính trị mà xem nhẹ tính kỹ thuật của lý thuyết
21



này trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước. Có như thế, chúng ta mới thấy
được tính khách quan và đầy đủ ý nghĩa của lý thuyết này và vận dụng nó trong
q trình đổi mới hệ thống chính trị, cải cách bộ máy nhà nước theo hướng pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Do đó, việc vận dụng lý thuyết phân quyền trong tổ
chức và thực thi quyền lực nhà nước ở Việt Nam, cần phải tập trung vào các nội
dung cơ bản sau:
Trước hết, phải tiến hành sự phân công, phân lập rõ ràng về mặt chức
năng, thẩm quyền giữa các nhánh quyền lực và thể chế hóa cụ thể, cụ thể, rõ
ràng trong Hiến pháp nhằm tạo sự ổn định trong hoạt động của bộ máy nhà
nước. Bên cạnh đó, Quốc hội phải thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất, được bầu theo đúng ngun tắc tranh cử, phổ thơng, bình đẳng, trực tiếp và
bỏ phiếu kín.
Quốc hội phải hoạt động thường xuyên, liên tục, các thành viên của
Quốc hội không được kiêm nhiệm các chức vụ ở các nhánh quyền lực khác, có
như vậy mới nâng cao tính chun nghiệp trong việc làm luật và giám sát việc
thực thi pháp luật.
Chính phủ (với tư cách tập thể cũng như cá nhân) phải được cải cách
theo hướng xây dựng một ngành hành pháp mạnh, thực sự là cơ quan hành pháp
cao nhất, có nghĩa là được trang bị đủ thẩm quyền pháp lý để có thể độc lập giải
quyết những vấn đề do nhiệm vụ thực thi pháp luật đặt ra, đồng thời phải chịu
trách nhiệm về những quyết định của mình. Để nâng cao tính chuyên nghiệp
trong bộ máy hành pháp, Chính phủ cần phân biệt rõ hoạt động chính trị chuyên
nghiệp với hoạt động chuyên môn thuần túy để làm cơ sở cho q trình cải cách
bộ máy hành chính hiện nay.
Đối với cơ quan tư pháp, cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp hiện nay
phải tập trung vào việc nâng cao năng lực cho tổ chức hoạt động của tòa án trên
những nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp, trong đó ngun tắc tịa án xét xử độc
22



lập và chỉ tuân theo pháp luật là một nguyên tắc tối thượng. Có được như vậy thì
tổ chức hoạt động của tòa án phải theo hướng: thẩm phán tòa án tối cao (một số
lượng nhất định) phải do Quốc hội bầu. Tòa án tối cao chỉ quản lý về mặt hành
chính chứ khơng can thiệp về mặt chun mơn đối với hệ thống tịa án và có
quyền bổ nhiệm các thẩm phán cho tòa án cấp dưới. Điều này sẽ góp phần tạo ra
sự độc lập trong hoạt động của hệ thống tòa án cũng như quyết định của các
thẩm phán, khắc phục được tình trạng bị chi phối về mặt chính trị hay can thiệp
trong q trình xét xử, nhất là việc xét xử các quan chức cấp cao. Đồng thời, tòa
án tối cao cần được bổ sung thêm chức năng bảo vệ Hiến pháp, có thẩm quyền
giải thích Hiến pháp, bác bỏ các đạo luật vi phạm Hiến pháp cũng như xét xử tất
cả các hành vi vi phạm Hiến pháp.
Thứ hai, thực tiễn cho thấy quyền lực chịu sự kiểm sốt chặt chẽ thì các
cơ quan nhà nước và các quan chức mới thể hiện đầy đủ trách nhiệm của mình,
hết lịng hết sức vì dân, khắc phục lạm quyền trong thực thi nhiệm vụ. Chính vì
vậy, chúng ta cần cầu thị học tập cơ chế kiểm soát quyền lực mà lý thuyết phân
quyền nêu ra và vận dụng sáng tạo trong điều kiện một đảng lãnh đạo, nhằm
thiết lập các ràng buộc bên trong đối với quyền lực, đặc biệt là quyền lực của
Chính phủ. Cơ chế kiểm soát quyền lực này phải được tổ chức trên cơ sở dùng
luật để giới hạn phạm vi của quyền, và khi việc sử dụng quyền lực vượt q giới
hạn hợp pháp của nó thì sẽ tự động dẫn đến sự ngăn chặn và hạn chế của các
quyền lực tương ứng. Một cơ chế kiểm soát quyền lực như vậy địi hỏi phải
được thể chế hóa một cách cụ thể. Việc thể chế hóa càng cụ thể và càng chặt chẽ
bao nhiêu thì quyền lực càng bị kiểm soát tốt bấy nhiêu, nghĩa là cơ quan nào,
người nào làm việc gì, chịu trách nhiệm cá nhân đến đâu, phải rõ ràng và phải bị
giám sát.
Tuy nhiên, vấn đề cần quan tâm đó là các nội dung cơ bản trên phải gắn
liền với việc xác định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý,
điều hành của nhà nước. Từ đó nhằm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng,
để Đảng lãnh đạo nhưng không bao biện, làm thay hoặc can thiệp quá sâu vào

23


công việc của nhà nước. Nếu không làm được điều này thì mọi nỗ lực vận dụng
lý thuyết phân quyền sẽ bị biến dạng, làm cho việc tổ chức và thực thi quyền lực
nhà nước sẽ kém hiệu quả và khó kiểm sốt.
Nói đến nhà nước pháp quyền là nói đến sự ngự trị của pháp luật trong
đời sống xã hội và chính trị với tư cách là ý chí của nhân dân, có giá trị phổ
biến. Có thể hiểu nhà nước pháp quyền theo hai khía cạnh: về hình thức pháp lý,
nhà nước pháp quyền đồng nghĩa với sự ngự trị của pháp luật, sự ràng buộc bởi
pháp luật đối với nhà nước và tất cả các thành viên của xã hội. Đây chính là yêu
cầu pháp chế trong xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật. Về nội dung pháp
lý, trong nhà nước pháp quyền bản thân pháp luật bảo đảm yêu cầu khách quan,
thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Để đảm bảo cả hai khía cạnh trên, phải có hình thức tổ chức thích hợp
của quản lý Nhà nước và những cơ chế giám sát sự tuân thủ pháp luật một cách
khoa học và có hiệu quả, địi hỏi phải có một hệ thống tài phán hồn chỉnh. Mỗi
quan niệm đều có mặt mạnh, mặt yếu khác nhau ở mỗi thời kỳ. Nội dung của
từng quan niệm, quan điểm rất đa dạng nhưng hai yếu tố này ln ln xun
suốt đó là: nhà nước có tính pháp lý và pháp luật có tính pháp lý, cơng bằng.
Trong cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước hiện nay, địi hỏi chúng ta
phải cải cách hệ thống chính trị, trong đó đặc biệt chú trọng cải cách bộ máy nhà
nước. Trong Văn kiện Đại hội VI, quan điểm chủ trương đổi mới hoạt động của
Nhà nước đã khẳng định quản lý nhà nước bằng pháp luật, quyết tâm xây dựng
một hệ thống pháp luật mới phục vụ cho việc quản lý đất nước bằng pháp luật,
từng bước bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật để đảm bảo cho bộ máy
nhà nước được được tổ chức và hoạt động theo pháp luật. Văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VII đã chỉ rõ: “Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước theo
phương hướng: Nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân. Nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức và hoạt

động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện thống nhất quyền lực
24


nhưng phân công, phân cấp rành mạch”. Đến Đại hội IX khái niệm nhà nước
pháp quyền mới chính thức đưa vào, thể hiện sự quyết tâm chính trị cao trong
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Xây dựng nhà nước pháp quyền là khâu trọng yếu trong đổi mới hệ
thống chính trị, quan hệ khăng khít, đan xen và qua lại với đổi mới, xây dựng và
chỉnh đốn Đảng. Nâng cao năng lực và chất lượng lãnh đạo của Đảng, đổi mới
nội dung và phương thức lãnh đạo của đảng tạo điều kiện xây dựng và phát huy
vai trò của nhà nước pháp quyền. Ngược lại, xây dựng nhà nước pháp quyền
phát huy hiệu lực quản lý của nhà nước là nâng cao năng lực tổ chức của Đảng,
làm cho chủ trương, chính sách, cương lĩnh lãnh đạo của Đảng nhanh chóng đi
vào cuộc sống.
Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiển xác định rõ quan điểm cơ bản,
phương hướng, chủ trương của Đảng về nhà nước pháp quyền, khắc phục nhận
thức mơ hồ, quan điểm lệch lạc là đòi hỏi cấp thiết để thống nhất tư tưởng, định
hướng đúng đắn cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền trong sự nghiệp đổi
mới. Xây dựng nhà nước pháp quyền không phải là quay lưng lại với quá khứ vẻ
vang, không phải là xây dựng lại từ đầu một nhà nước theo một hướng khác.Vấn
đề là tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, phát huy
thành tựu và ưu điểm vốn có của nhà nước ta, khắc phục triệt để khuyết điểm,
sai lầm đã mắc. Quá trình này là sự kế thừa, vận dụng, phát huy học thuyết MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật trong những điều kiện
mới của đất nước, của thời đại, phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hố - hiện đại
hóa đất nước./.

C. KẾT LUẬN
Nhà nước và pháp luật của Môngtexkiơ là kho tàng phong phú với
những mặt mạnh, mặt yếu cần được tiếp tục nghiên cứu để đưa ra giải pháp thực

tế đúng đắn trong điều kiện hiện nay. Ở Việt Nam, học thuyết của Môngtexkiơ
25


×