Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

(TIỂU LUẬN) môn học hợp ĐỒNG và bồi THƯỜNG THIỆT hại NGOÀI hợp ĐỒNG BUỔI THẢO LUẬN THỨ NHẤT vấn đề CHUNG của hợp ĐỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.17 KB, 11 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH KHOA QUẢN TRỊ
----------------------------------

MƠN HỌC: HỢP ĐỒNG VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGỒI
HỢP ĐỒNG
BUỔI THẢO LUẬN THỨ NHẤT: VẤN ĐỀ CHUNG
CỦA HỢP ĐỒNG
GIẢNG VIÊN: ĐẶNG THÁI BÌNH
DANH SÁCH NHĨM 4
STT

1

H

1

Phạm Min

2

Tạ Thị Th

3

Trần Thị H

4

Đinh Ngọ



5

Khiếu Thị


Mục lục
Vấn đề 1: Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.................................................. 1
1.1. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án đối với 3 vấn đề trên. . 1

Vấn đề 2: Sự ưng thuận trong quá trình giao kết hợp đồng................................2
2.1. Điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 và Bộ luật Dân sự 2005 về vai trò của im
lặng trong giao kết hợp đồng.................................................................................. 3
2.2. Quy định về vai trò của im lặng trong giao kết hợp đồng trong một hệ thống
pháp luật nước ngoài.............................................................................................. 3
2.3. Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để cơng nhận hợp đồng chuyển
nhượng trong tình huống trên có thuyết phục khơng? Vì sao?............................... 3
Vấn đề 3: Đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được............................. 5
3.1. Những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi giữa Bộ luật Dân
sự 2015 và Bộ luật Dân sự 2005 về chủ đề đang được nghiên cứu........................5
3.2. Thời hiệu u cầu Tịa án tun bố vơ hiệu hợp đồng do đối tượng không thể
thực hiện được được xác định như thế nào? Vì sao?.............................................. 6
Vấn đề 4: Xác lập hợp đồng giả tạo nhằm tẩu tán tài sản.................................... 6
4.1. Vụ việc thứ nhất:............................................................................................. 6
4.1.1. Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch?............................................... 6
4.1.2. Đoạn nào của Quyết định cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp
đồng? Các bên xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích gì?.............................7
4.1.3. Hướng giải quyết của Tòa án đối với hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che
giấu là gì?........................................................................................................... 8
4.1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả tạo và

hợp đồng bị che giấu........................................................................................... 8
4.2. Vụ việc thứ hai:............................................................................................... 8
4.2.1. Vì sao Tịa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng
ông Vượng là giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu?..............9
4.2.2. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án (giả tạo để trốn
tránh nghĩa vụ).................................................................................................... 9
4.2.3. Cho biết hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch
nhằm trốn tránh nghĩa vụ.................................................................................... 9

2


Vấn đề 1: Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
Tóm tắt tình huống:
Chủ thể: Pháp nhân A, cá nhân B, cá nhân C và D
Tranh chấp về vấn đề: Sự tồn tại của Hợp đồng
Lý do tranh chấp: Tháng 1/2018, A, B và C gửi cho D một đề nghị giao kết hợp
đồng. Tháng 1/2020 và tháng 2/2020, D đã gửi cho A và B chấp nhận đề nghị giao
kết hợp đồng của mình nhưng D khơng chứng minh được đã gửi chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng cho C. Vì vậy C khơng thừa nhận đã nhận được chấp nhận đề
nghị giao kết của D. Sau đó, các bên có tranh chấp về sự tồn tại của Hợp đồng
Quyết định của Tòa án: (1) Bên đề nghị chưa nhận được chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng theo quy định của Điều 400 Bộ luật Dân sự 2015; (2) Chấp nhận chưa được
thực hiện trong thời hạn hợp lý theo quy định của Điều 394 Bộ luật Dân sự 2015 và
(3) Chấp nhận trên của D là đề nghị giao kết mới.

1.1. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án đối với 3 vấn đề trên.
Vấn đề 1:
Theo nhóm, Tịa án quyết định “Bên đề nghị chưa nhận được chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng theo quy định của Điều 400 Bộ luật Dân sự 2015” là hợp lý.

Vì:
Căn cứ theo Khoản 1 Điều 400 Bộ luật Dân sự 2015: “Hợp đồng được giao
kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết.”
D chưa gửi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng cho C. Đồng thời D không

chứng minh được rằng mình đã gửi và C cũng khơng thừa nhận mình đã nhận được
chấp nhận đề nghị giao kết của D. Vì vậy, hợp đồng giữa C và D chưa được giao kết.

Vấn đề 2:
Theo nhóm, Tịa án quyết định “Chấp nhận chưa được thực hiện trong thời
hạn hợp lý theo quy định của Điều 394 Bộ luật Dân sự 2015” là chưa hợp lý. Vì:
Theo Khoản 1 Điều 394 BLDS 2015: “Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn
trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn
đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết thời hạn trả lời
thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời.”
Trong đề nghị giao kết này, cả A, B và C không quy định thời hạn trả lời và
cũng không nêu rõ về khoảng thời gian hợp lý. Nên việc trả lời của D đến A, B vẫn
có hiệu lực và D có thể gửi đến C sau đó.
Vấn đề 3:
Theo nhóm, Tịa án quyết định: “Chấp nhận trên của D là đề nghị giao kết
mới.” là chưa hợp lý. Vì:
1


Theo Khoản 1 Điều 394 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Khi bên đề nghị có
ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện
trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời khi đã hết
thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời.”
Vậy nên, chấp nhận trên của D không phải là đề nghị giao kết mới vì giữa 2
bên khơng có ấn định thời hạn trả lời.


Vấn đề 2: Sự ưng thuận trong q trình giao kết hợp đồng
Tóm tắt: Án lệ số 04/2016/AL
Chủ thể: - Nguyên đơn: bà Kiều Thị Tý, ông Chu Văn Tiến
- Bị đơn: ông Lê Văn Ngự
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: bà Lê Thị Quý, bà Trần Thị
Phấn, anh Lê Văn Tám, chị Lê Thị Tường, anh Lê Đức Lợi, chị Lê Thị Đường, anh
Lê Mạnh Hải, chị Lê Thị Nhâm.

Tranh chấp vấn đề: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Lý do tranh chấp: Năm 1996, gia đình ơng Ngự, bà Phấn thỏa thuận chuyển giao quyền
sử dụng đất cho vợ chồng bà Tý, ông Tiến. Từ 1996 – 2006, vợ chồng bà Tý, ông Tiến
chưa đăng ký hộ khẩu ở Hà Nội nên người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất vẫn là gia đình ơng Ngự. Quyền sử dụng và quản lý trong thời gian này đã
được giao cho vợ chồng bà Tý. Năm 2006, vợ chồng bà Tý chuyển hộ khẩu về Hà Nội,
bắt đầu thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất cho
mảnh đất đã giao dịch này. Tuy nhiên, vợ chồng ông Ngự cho rằng bà Tý còn thiếu hơn
ba cây vàng và vợ chồng ơng Ngự chỉ bán nhà, đất phía trong, cịn nhà, đất giáp mặt
đường vẫn là của gia đình ơng. Gia đình ơng Ngự đã chiếm hữu và sử dụng một phần
mảnh đất giáp mặt đường, trở thành khu tranh chấp.

Quyết định của Tồ án: Buộc gia đình ơng Ngự phải trả lại tồn bộ diện tích nhà, đất
23,4m2 tại số 39 đường Xuân La, phường Xuân La, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội
cho vợ chồng bà Kiều Thị Tý và ơng Chu Văn Tiến.
Tóm tắt tình huống:
Chủ thể: - Nguyên đơn: Các con của ông Bùi bà Chu.
- Bị đơn: ơng Văn.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: ông Bùi bà Chu.

Tranh chấp vấn đề: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.


Lý do tranh chấp: Năm 2001, ông Bùi và bà Chu chuyển nhượng quyền sử dụng đất
của hộ (gồm 7 nhân khẩu) cho ông Văn. Năm 2004, ông Văn đã xây dựng chuồng
trại trên đất chuyển nhượng, các bên làm thủ tục chuyển nhượng để ông Văn được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và gia đình bà ơng Bùi bà Chu khơng ai có
ý kiến gì. Tuy nhiên, nay các con ông Bùi và bà Chu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao
dịch chuyển nhượng vơ hiệu vì chưa có sự đồng ý của họ.
2


Quyết định của Toà án: Áp dụng Án lệ số 04/2016/AL.
2.1. Điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 và Bộ luật Dân sự 2005 về vai trò của
im lặng trong giao kết hợp đồng.
Trong q trình giao kết, đơi khi một bên khơng nói rõ quan điểm của mình.
Nói cách khác, họ đã im lặng trong thời điểm này. Như vậy, im lặng có được xem là
giao kết trong hợp đồng hay không? Vấn đề này đã tồn tại trong Bộ luật Dân sự
2005, tuy nhiên đến năm 2015 mới được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp hơn.
Bộ luật Dân sự 2005 về vấn đề im lặng trong giao kết hợp đồng chỉ được quy
định tại Khoản 2, Điều 404: “Hợp đồng dân sự cũng được xem như được giao kết
khi hết hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im
lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết.” Có thể thấy Bộ luật Dân sự 2005 quy định
chưa được cụ thể, rõ ràng về vấn đề này.
Bộ luật Dân sự 2015 đã bổ sung chế định về im lặng trong quá trình giao kết
hợp đồng tại quy định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng (Khoản 2, Điều 393,
Bộ luật Dân sự 2015). Bộ luật Dân sự 2015 xem sự im lặng của bên được đề nghị
không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc
theo thói quen đã được xác lập giữa các bên.
Vì vậy, Bộ luật Dân sự 2015 đã làm rõ hơn về vai trò của im lặng trong giao
kết hợp đồng so với Bộ luật Dân sự 2005.
2.2. Quy định về vai trò của im lặng trong giao kết hợp đồng trong một hệ

thống pháp luật nước ngồi.
Bản thân im lặng khơng là sự chấp nhận nhưng im lặng cộng thêm yếu tố nào
đó thì được coi là chấp nhận giao kết trong hợp đồng thì do lời đề nghị hồn tồn vì
lợi ích của người được đề nghị.
2.3. Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để cơng nhận hợp đồng chuyển
nhượng trong tình huống trên có thuyết phục khơng? Vì sao?
Việc tịa án áp dụng án lệ số 04/2016/AL để công nhận chuyển nhượng trong
tình huống trên là hợp lý. Vì:
Theo Khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP, Toà án nhân dân tối
cao “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để giải quyết
các vụ việc tương tự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống
nhau phải được giải quyết như nhau.”
So sánh giữa án lệ số 04/2016/AL với tình huống trên, ta nhận thấy giữa hai
vụ việc có các điều kiện, tình tiết giống nhau như:
1. Tài sản tranh chấp là tài sản chung.
-

Trong Án lệ, tài sản tranh chấp là tài sản chung của vợ chồng còn tài sản
tranh chấp trong tình huống là tài sản chung của hộ gia đình (tức là quyền sử
dụng đất là tài sản chung của bà Chu, ông Bùi và bảy người con).

2. Dù khơng ký tên nhưng có căn cứ cho rằng đồng chủ sở hữu biết và không phản
đối. Bên nhận chuyển nhượng đã nhận và quản lý, sử dụng đất công khai.

3


-

-


Theo án lệ, ông Tiến, bà Tý đã trả đủ tiền, nhận nhà đất , tôn nền đất, sửa lại
nhà và cho các con cháu đến ở. Theo lời khai của các người con ông Ngự, bà
Phấn đã phân chia vàng cho các người con. Như vậy, có cơ sở xác định bà
Phấn biết có việc chuyển nhượng nhà, đất giữa ông Ngự với vợ chồng ông
Tiến và bà Tý, bà Phấn đã đồng ý, cùng thực hiện nên việc bà Phấn khiếu nại
cho rằng ông Ngự chuyển nhượng đất cho vợ chồng bà Tý bà khơng biết là
khơng có căn cứ.
Trong tình huống trên, năm 2001, ơng Bùi và bà Chu chuyển nhượng quyền sử
dụng đất của hộ (gồm 7 nhân khẩu) cho ông Văn. Đến năm 2004, ông Văn đã
xây dựng chuồng trại trên đất chuyển nhượng nên có căn cứ cho rằng các con bà
Chu, ơng Bùi đã biết. Sau đó các bên làm thủ tục chuyển nhượng để ông Văn
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và gia đình bà Chu, ơng
Bùi khơng ai có ý kiến gì. Việc “gia đình ơng Bùi bà Chu khơng ai có ý kiến
gì” cho thấy rằng các con ông bà biết mà không phản đối dù không ký tên
trong hợp đồng. Theo đó có thể hiểu rằng các con của ông Bùi bà Chu đã
đồng ý việc chuyển nhượng nhà đất.

Ngồi ra, do đề bài khơng nêu rõ thông tin về năng lực hành vi dân sự của
các con bà Chu, ơng Bùi nên nhóm chia thành hai trường hợp như sau:
-

-

Các con của bà Bùi , ông Chu đều là người thành niên và không thuộc các
trường hợp tại Điều 22, 23, 24 Bộ luật Dân sự 2015 thì hướng giải quyết như
đã trình bày.
Giả sử trong các con ơng bà có người chưa thành niên thì theo Điều 21 Bộ
luật Dân sự 2015 quy định:
“1. Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi.

2. Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo
pháp luật của người đó xác lập, thực hiện.
3. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao
dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
4. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản,
động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải
được người đại diện theo pháp luật đồng ý.”

=> Theo đó, những đối tượng thuộc các khoản trên khi tham gia giao dịch
dân sự cần người đại diện theo pháp luật đồng ý. Theo Điều 136 Bộ luật Dân sự
2015 thì trong tình huống này người đại diện theo pháp luật đối với các người con
chưa thành niên của ông Bùi bà Chu là ơng bà. Khi có sự đồng ý của ơng bà thì tình
huống trên vẫn được giải quyết theo hướng chúng tơi đã trình bày trên.

4


Vấn đề 3: Đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được
3.1. Những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi giữa Bộ luật
Dân sự 2015 và Bộ luật Dân sự 2005 về chủ đề đang được nghiên cứu
Xét Điều 441 Bộ luật Dân sự 2005 và Điều 408 Bộ luật Dân sự 2015:
Điều 441 Bộ luật Dân sự 2005
Khoản 1: Trong trường hợp này từ khi
kí kết, hợp đồng có đối tượng khơng thể
thực hiện được vì lí do khách quan thì
hợp đồng này bị vơ hiệu.
 Theo đó, Bộ luật Dân sự 2005 nêu ra hợp đồng vơ hiệu khi có đối tượng khơng


thể thực hiện được từ thời điểm ký kết, Bộ luật Dân sự 2015 đã thay

đổi thành giao kết. Bên cạnh đó, Bộ luật Dân sự 2005 cịn nêu thêm điều
kiện đối với hợp đồng có đối tượng khơng thể thực hiện được vì lí do khách
quan thì mới vơ hiệu và Bộ luật Dân sự 2015 đã bỏ đi phần quy định này.
Khoản 3: Quy định tại Khoản 2 điều này
cũng được áp dụng đối với trường hợp
có đồng một hoặc nhiều phần đối tượng
không thể thực hiện được, nhưng phần
cịn lại của hợp đồng vẫn chưa có gía trị
pháp lý.
 Theo đó, Bộ luật Dân sự 2005 quy định chỉ trường hợp tại Khoản 2, Điều

441 “một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể
thực hiện được, nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao
kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại chobên kia, trừ trường hợp bên kia
biết hoặc phải biết về hợp đồng có đối tượng khơng thể thực hiện được” thì
những phần mà có đối tượng thực hiện vẫn có giá trị pháp lí. Bộ luật Dân sự
2015 đã mở rộng hơn về quy định này, cụ thể là bổ sung thêm một trường hợp
nữa (Khoản 1, Điều 408) đối với các hợp đồng mà ngay từ khi giao kết mà có
một hoặc nhiều phần vơ hiệu thì phần cịn lại vẫn có giá trị pháp lý.

Sự thay đổi trên giữa Bộ luật Dân sự 2005 với Bộ luật Dân sự 2015 đối với
chế định hợp đồng vơ hiệu do có đối tượng khơng thể thực hiện được là phù hợp với
thực tiễn xét xử ở Việt Nam.
Khi áp dụng quy định tại Điều 441, Bộ luật Dân sự 2005 thì phát sinh một số
nhược điểm:
-

-


Tại Khoản 1, Điều 441, Bộ luật Dân sự 2005 quy định trường hợp hợp đồng vô
hiệu do không thể thực hiện được nhưng chỉ khoanh vùng ở trường hợp “vì lý
do khách quan” nhưng trong thực tiễn vận dụng điều luật này cho trường hợp
không thể thực hiện được vì lý do chủ quan. Thực ra, việc khoanh vùng như
hiện nay khơng thuyết phục vì nếu áp dụng đúng luật thì việc khơng thể thực
hiện vì lí do chủ quan không làm cho hợp đồng vô hiệu nhưng nếu hợp
đồng khơng vơ hiệu thì hợp đồng cũng khơng thể thực hiện được.
Cũng tại Khoản 1, Điều 441, Bộ luật Dân sự 2005 nói về ký kết hợp đồng và
thuật ngữ này khơng có tính bao qt vì ký kết chỉ đúng cho hợp đồng bằng
5


văn bản có chữ ký trong khi đó hợp đồng có thể được hình thành mà khơng
có chữ ký. Do vậy, tại Khoản 1, Điều 441, Bộ luật Dân sự 2005 thay từ “kí
kết” bằng từ “giao kết” là phù hợp và có tính bao qt hơn.
3.2. Thời hiệu u cầu Tịa án tun bố vơ hiệu hợp đồng do đối tượng không
thể thực hiện được được xác định như thế nào? Vì sao?
Thời hiệu để tuyên bố hợp đồng vơ hiệu nghĩa là hết thời gian đó mà khơng
thực hiện tun bố vơ hiệu thì hợp đồng mặc nhiên sẽ có hiệu lực. Tuy nhiên, xét lại
hợp đồng có đối tượng không thực hiện được, bản chất là việc thực hiện hợp đồng
không thể xảy ra, nên thời hiệu áp dụng cho việc tuyên bố hợp đồng là vô hiệu là vô
thời hạn. Trên thực tế, không cần đến tịa án để tun bố vơ hiệu, vì bản chất là
khơng thể thực hiện được.
Việc cần đến Tịa án tun bố hợp đồng vô hiệu là do đảm bảo quyền lợi của các
bên, cũng như bảo vệ được quyền lợi của phía yếu thế trong trường hợp hợp đồng đó có
dấu hiệu khơng thiện chí từ một phía, và cần tòa án là phái thứ ba đứng ra bảo vệ quyền
lợi. Cịn trường hợp có đối tượng khơng thể thực hiện được nếu rơi vào tình huống do
có sự gian dối thì áp dụng điều luật của giao kết hợp đồng do giả tạo.


Vấn đề 4: Xác lập hợp đồng giả tạo nhằm tẩu tán tài sản
4.1. Vụ việc thứ nhất:
Tóm tắt: Bản án số 06/2017/DS-ST ngày 17/01/2017 của Tịa án nhân dân TP.Thủ
Dầu Một, tỉnh Bình Dương
Chủ thể: - Nguyên đơn: bà Trần Thị Diệp Thúy
- Bị đơn: bà Nguyễn Thị Thanh Trang
Tranh chấp về vấn đề: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Lý do tranh chấp: Ngày 23/11/2013, bà Thúy và bà Trang cùng thiết lập hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất với giá chuyển nhượng là 200.000.000 VNĐ.
Thực tế đây là giao dịch giả tạo để che giấu cho việc bà Thúy cho bà Trang vay số
tiền là 100.000.000 VNĐ. Bà Trang đã hứa là sẽ trả hết số tiền cho bà Thúy trong
vòng 6 tháng nhưng đến hạn trả nợ bà Trang chỉ trả 5.000.000 VNĐ. Vì vậy, bà
Thúy khởi kiện yêu cầu bà Trang phải có hồn trả số tiền 95.000.000 VNĐ (bà Thúy
khơng u cầu tính lãi).
Quyết định của Tồ án: Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác
lập giữa bà Thúy và bà Trang là vô hiệu. Bà Trang phải trả lại cho bà Thúy số tiền là
95.000.000 VNĐ.
4.1.1. Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch?
Theo Điều 124 Bộ luật Dân sự 20215 quy định về Giao dịch dân sự vô hiệu
do giả tạo, nhưng không nên rõ thuật ngữ “giả tạo” phải hiểu như thế nào.

6


Theo một số nhà bình luận Bộ luật Dân sự: “Giao dịch giả tạo là giao dịch
mà trong đó việc thể hiện ý chí ra bên ngồi khác với ý chí nội tâm và kết quả thực
hiện của các bên tham gia giao dịch1”.
Theo nhóm, có thể hiểu “giả tạo trong xác lập giao dịch” là khi hai hay
nhiều bên cùng xác lập một giao dịch nhưng mục đích được nêu trong giao dịch
khác với mục đích thật, nhằm che giấu việc thực hiện một hợp đồng khác mà các

bên thật sự mong muốn. Ví dụ:
-

A bán cho B một căn nhà với giá 2 tỷ. Nhưng khi xác lập hợp đồng chỉ ghi
giá trị ngôi nhà là 1 tỷ để giảm thuế trước bạ sang tên.
X phạm tội tham nhũng bị phát hiện. Nhằm tẩu tán tài sản, X thỏa thuận với
Y ký hợp đồng giả bán ngôi nhà của X cho Y để tránh bị kê biên tài sản và
tịch thu.

4.1.2. Đoạn nào của Quyết định cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp
đồng? Các bên xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích gì?
Đoạn sau đây trong Quyết định đã có thấy các bên có giả tạo trong giao kết
hợp đồng:
“Xét theo quy định tại Điều 124 Bộ luật Dân sự 2015 thì “Khi các bên xác
lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấy một giao dịch khác thì giao
dịch giả tạo vơ hiệu, cịn giao dịch bị che giấy vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao
dịch đó cũng vơ hiệu theo quy định của Bộ luật này.” Đối chiếu quy định trên với
trường hợp giữa nguyên đơn với bà Trang thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất được xác lập ngày 23/11/2013 giữa nguyên đơn và bà Trang là vô hiệu do
giả tạo giao dịch văn tài sản số tiền 100.000.000 VNĐ có hiệu lực.”
Bà Thúy và bà Trang xác lập giao dịch giả tạo với mục đích nhằm che giấu
cho giao dịch vay tài sản, che giấu cho việc nguyên đơn cho bị đơn vay số tiền
100.000.000 VNĐ.
Lý do các bên phải làm hợp đồng giả cách để che giấu giao dịch vay tài sản
mà không phải hợp đồng khác (cụ thể là hợp đồng thế chấp tài sản) là vì tại thời
điểm các bên giao kết hợp đồng, Nhà nước chưa hướng dẫn rõ ràng cho cá nhân
nhận thế chấp nhà đất.
Cụ thể, tại thời điểm này, một số luật vẫn cho cá nhân nhận thế chấp (Điều
342 Bộ luật Dân sự 2005, Khoản 7 Điều 113 Luật Đất đai 2003, Khoản 3 điều 21
Luật Nhà ở 2005).

Tuy nhiên, một số điều luật khác lại chỉ cho phép cá nhân thế chấp nhà tại tổ
chức tín dụng:
o

Điều 114 Luật Nhà ở 2005 quy định về điều kiện thế chấp nhà ở “Chủ
sở hữu nhà ở được thế chấp nhà ở để bảo đảm thực hiện một hoặc
nhiều nghĩa vụ nếu giá trị của nhà ở đó lớn hơn tổng giá trị các nghĩa
vụ nhưng chỉ được thế chấp tại một tổ chức tín dụng.”.

1 (5) Hồng Thế Liên (Cb), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2002, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
năm 2013, tr.321
7


o

Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm (Bộ Tư pháp) có Cơng văn
số 339 ngày 12-9-2013 xác định với Sở Tư pháp TP.HCM là “cá nhân
chỉ được thế chấp nhà tại tổ chức tín dụng chứ khơng được thế chấp
nhà tại tổ chức, cá nhân khác”

Từ đó dẫn đến khơng rõ ràng trong quy trình cho cá nhân nhận thế chấp,
khiến đa số phịng cơng chứng khơng tiếp nhận làm thủ tục này.
Sau này, Nhà nước đã đưa ra Nghị định 21/2021/NĐ-CP quy định tại Khoản
1 Điều 35 rằng: “Bên nhận thế chấp là tổ chức kinh tế theo quy định của Luật Đất
đai, cá nhân là công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”.
4.1.3. Hướng giải quyết của Tòa án đối với hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che
giấu là gì?
Tịa án tun bố:
-


Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất xác lập giữa bà Trang và bà
Thúy ngày 23/11/2013 là vơ hiệu.
Bà Trang phải có nghĩa vụ trả lại cho bà Thúy số tiền là 95.000.000 VNĐ.

4.1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả tạo và
hợp đồng bị che giấu.
Theo nhóm, hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che
giấu là phù hợp.
Vì các bên đều công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là giả
tạo để che giấu giao dịch vay tiền. Mà Điều 124 Bộ luật Dân sự 2015 quy định giao
dịch dân sự giả tạo nhằm che giấu một giao dịch nào khác thì giao dịch giả tạo sẽ vơ
hiệu. Như vậy, Tịa án đã tun bố giao dịch chuyển nhượng đất này vơ hiệu là hợp
lý. Từ đó, Tòa án yêu cầu các bên vẫn tiếp tục thực hiện hợp đồng bị che giấu.
4.2. Vụ việc thứ hai:
Tóm tắt: Quyết định số 259/2014/DS-GĐT ngày 16/6/2014 của Tòa án dân sự, Tòa
án nhân dân tối cao
Chủ thể: - Nguyên đơn: bà Võ Thị Thu
- Bị đơn: bà Đặng Thị Kim Anh
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: ông Học (chồng bà Anh), vợ

chồng ông Vượng (anh trai bà Anh)
Tranh chấp về vấn đề: Giả tạo trong giao kết hợp đồng.
Lý do tranh chấp: Bà Anh nợ bà Thu 3,1 tỷ đồng, đồng thời cam kết chuyển nhượng
nhà đất để trả nợ. Nhưng vợ chồng bà Anh khơng thực hiện cam kết, thay vào đó, vợ
chồng bà Anh chuyển nhượng nhà đất cho anh trai là vợ chồng ông Vượng với giá
680 triệu đồng. Tuy nhiên, thỏa thuận này không phù hợp với thực tế (giá trị căn
nhà là 5,6 tỷ đồng) và hai bên chưa hoàn tất thủ tục chuyển nhượng. Bà Thu kiện bà
Anh, yêu cầu bà Anh trả đúng số nợ và lãi đã thỏa thuận trước đó.


Quyết định của Tịa án: Tịa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng giữa vợ chồng bà
Anh với vợ chồng ông Vượng là vô hiệu và yêu cầu bà Anh phải trả cả gốc lẫn lãi
8


cho bà Thu. Đồng thời phong tỏa nhà đất của vợ chồng bà Anh để đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ với bà Thu.
4.2.1. Vì sao Tịa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông
Vượng là giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu?
Thứ nhất, bà Anh đang còn nợ bà Thu 3,1 tỷ đồng và cam kết chuyển nhượng
nhà đất cho bà Thu nhưng vợ chồng bà Anh lại chuyển cho vợ chồng ông Vượng (là
anh trai của bà Anh) nhằm tẩu tán tài sản, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho
bà Thu.
Thứ hai, giá thực tế của nhà đất trên là 5,6 tỷ đồng nhưng vợ chồng bà Anh
lại chuyển nhượng cho ông Vượng với giá 680 triệu đồng - không phù hợp với thực
tế. Chuyển nhượng với giá thấp nhằm trốn tránh nghĩa vụ đóng thuế đúng theo giá
trị văn nhà, là cơ sở giúp cho việc tẩu tán tài sản, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ trả
nợ cho bà Thu diễn ra thuận lợi hơn.
Vì vậy, Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông
Vượng là giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu.
4.2.2. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án (giả tạo để trốn
tránh nghĩa vụ)
Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng là
giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu là hợp lý theo đúng Khoản 2
Điều 124 Bộ luật Dân sự 2015. Vì:
Thứ nhất, thỏa thuận chuyển nhượng đất giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng
ơng Vượng khơng phù hợp với thực tế vì giá đất thực tế là 5,6 tỷ đồng nhưng hai
bên chỉ thỏa thuận chuyển nhượng với giá 680 triệu đồng và trên thực tế cũng chưa
hoàn tất thủ tục chuyển nhượng.
Thứ hai, bà Anh có nghĩa vụ phải trả nợ cho bà Thu thông qua thỏa thuận

chuyển nhượng đất. Nhưng sau đó, vợ chồng bà Anh khơng thực hiện cam kết mà
lại thỏa thuận chuyển nhượng cho vợ chồng ông Vượng. Đây là hành vi làm giả tạo
hợp đồng nhằm tẩu tán tài sản để trì hỗn hoặc trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ trả
nợ cho bà Thu.
4.2.3. Cho biết hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch
nhằm trốn tránh nghĩa vụ.
Với việc xác định hợp đồng giữa vợ chồng bà Anh và vợ chồng ông Vượng
là giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ thì hậu quả sẽ là hợp đồng bị vô hiệu
(Khoản 2 Điều 124 Bộ luật Dân sự 2015). Theo đó, Tịa án buộc bà Anh trả nợ cả
gốc lẫn lãi cho bà Thu, đồng thời phong tỏa nhà đất của vợ chồng bà Anh để đảm
bảo nghĩa vụ của vợ chồng bà Anh đối với bà Thu.

9



×