Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Bản án phúc thẩm tranh chấp chia tài sản chung sau ly hôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.07 KB, 7 trang )

TỒ ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHỊNG

CỘNG HỒ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Bản án số: 23/2016/HNGĐ-PT
Ngày: 16 /11/2016
V/v tranh chấp chia tài sản chung
sau khi ly hơn

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HỒ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tịa: Bà Đồn Thị Huỳnh Hoa
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Hữu Chế
Ông Nguyễn Văn Dương
Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà: Bà Bùi Thị Thúy Hà- Cán bộ Toà án
nhân dân thành phố Hải Phòng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng: Bà Phạm Thị Hồng
Thúy - Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Ngày 16 tháng 11 năm 2016, tại trụ sở Tồ án nhân dân thành phố Hải
Phịng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số
34/2016/TLPT-HNGĐ ngày 12/10/2016 về việc: "Chia tài sản chung của vợ
chồng sau khi ly hôn".
Do Bản án hơn nhân gia đình sơ thẩm số 27/2015/HNGĐ-ST ngày 31 tháng
8 năm 2016 của Toà án nhân dân huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phịng có
kháng cáo.


Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1469/2016/QĐ-PT ngày 18 tháng 10
năm 2016 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Thoan; sinh năm 1981; địa chỉ: Thôn Phương
Đôi, xã Thụy Hương, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng; có mặt tại phiên tịa.
2. Bị đơn: Anh Ngơ Văn Duy; sinh năm 1981; địa chỉ: Thôn Quế Lâm, xã
Thụy Hương, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phịng; có mặt tại phiên tịa.
3. Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Ơng Ngơ Văn Đán; sinh năm 1953 và bà Ngô Thị Tại; sinh năm 1954; địa
chỉ: Thôn Quế Lâm, xã Thụy Hương, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phịng; có
mặt tại phiên tịa.
- Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam – Phịng giao dịch Ngân hàng
chính sách xã hội huyện Kiến Thụy; Vắng mặt.
1


4. Người kháng cáo: Anh Ngô Văn Duy.
NHẬN THẤY:
* Theo án sơ thẩm, nguyên đơn chị Phạm Thị Thoan trình bày:
Chị và anh Duy lấy nhau từ năm 2001, đến ngày 21/9/2015 đã được Tịa án
xử ly hơn nhưng chưa giải quyết về tài sản. Do không thống nhất được về phân
chia tài sản chung nên chị đề nghị Tòa án chia các tài sản bao gồm:
- Đồ dùng sinh hoạt: 01 xe máy Wave BKS 15B1 – 651.33 đỏ đen; 04 quạt
điện (02 quạt treo tường và 02 quạt cây khơng có cánh); 01 tủ lạnh Deawoo; 01
tủ kệ gỗ ô kan; 01 ti vi Sony 21 inch; 01 bộ bàn ghế sắt giả mây; 01 ổn áp Lioa
(5000VA); 01 bộ vòi tắm hoa sen; 01 chậu rửa mặt + gương; 01 bình nóng lạnh
Picenza; 01 máy giặt Toshiba; 01 bệt nhà WC; điện, ống nước nhà WC.
- 01 nhà ở cấp 4 xây dựng năm 2002, cơng trình phụ (nhà tắm, nhà vệ sinh)
xây dựng năm 2009 trên đất của ông Ngô Văn Đán và bà Ngô Thị Tại số thửa
1946 tờ bản đồ số 3 tại thôn Quế Lâm, xã Thụy Hương, huyện Kiến Thụy.
- Tiền chênh lệch do bán xe máy Vision và mua xe Wave là 5.000.000 đồng;

Tài sản chung chị Thoan yêu cầu chia đơi
- Về cơng nợ:
+ Nợ vay của Ngân hàng chính sách xã hội chi nhánh cả gốc và lãi
12.038.400 đồng. Sau khi ly hôn anh Duy đã trả cho Ngân hàng 1.056.000 đồng,
chị sẽ có trách nhiệm trả anh Duy ½ số tiền này là 528.000 đồng và trả ½ số nợ
cịn lại của Ngân hàng chính sách xã hội.
+ Nợ vay Ngân hàng Đông Á 20.000.000 đồng, sau khi ly hơn cịn nợ gốc
và lãi 9.120.000 đồng, anh Duy đã trả xong nên chị có trach nhiệm trả cho anh
Duy ½ là 4.560.000 đồng.
+ Đối với khoản vay 40.000.000 đồng của Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn chi nhánh huyện Kiến Thụy, anh chị đã dùng tiền vay của Ngân
hàng Đông Á và tiền tiết kiệm trả xong ngày 03/6/2015.
Chị Thoan yêu cầu chia đôi tài sản chung và chia đơi cơng nợ, giao tồn bộ
tài sản chung cho anh Duy sử dụng và trả cho chị ½ tài sản bằng giá trị. Thửa đất
là của bố mẹ chồng là ông Đán bà Tại nên chị không u cầu chia đất và cũng
khơng địi cơng sức tu tạo đất.
* Bị đơn anh Ngơ Văn Duy trình bày:
- Về tài sản chung: Anh thống nhất như chị Thoan nêu và nhất trí chia đơi tài
sản chung, ai sử dụng tài sản thì trả cho người kia bằng giá trị. Riêng chiếc xe máy
Wave anh đang sử dụng để đi lại làm ăn nuôi các con, anh không đồng ý chia.
Tiền chia chênh lệch do bán, mua xe máy là 7.000.000 đồng nhưng anh khơng
đồng ý chia vì anh đã chi tiêu trong gia đình và nộp tiền học cho các con hết.

2


Cơng trình phụ (nhà tắm, nhà vệ sinh) là do bố mẹ anh bỏ tiền ra xây, vợ
chồng anh chỉ đóng góp cơng sức và trả tiền cơng xây dựng là 6.000.000 đồng,
anh chỉ đồng ý xét công sức cho chị Thoan.
Về công nợ : Anh thống nhất số dư nợ cịn lại của Ngân hàng chính sách xã

hội, ngân hàng Đông Á và chia trách nhiệm trả nợ các ngân hàng này như chị
Thoan nêu.
Đối với khoản vay Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện
Kiến Thụy 40.000.000 đồng, anh và chị Thoan đã trả nợ xong ngày 03/6/2015
nhưng vẫn anh yêu cầu chia đôi nghĩa vụ trả khoản nợ này.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Ngô Văn Đán và bà Ngô Thị
Tại trình bày: Đối với cơng trình phụ nhà tắm, nhà vệ sinh vợ chồng anh Duy sử
dụng là do ông bà xây dựng từ khoảng năm 2008 – 2009, ông bà đưa cho anh
Duy khoảng 58.000.000 đồng, xây hết bao nhiêu ông bà không biết. Anh Duy và
chị Thoan chỉ có cơng sức và trả tiền cơng xây dựng, mua nội thất, thiết bị nhà
tắm. Do đó anh Duy, chị Thoan chỉ được chia giá trị các thiết bị nội thất cịn trả
cơng trình phụ cho ơng bà.
* Ngân hàng chính sách xã hội chi nhánh huyện Kiến Thụy trình bày: Ngân
hàng xác nhận anh Duy chị Thoan có vay theo chương trình nước sạch và mơi
trường, đến ngày 31/8/2016 còn nợ số tiền gốc 12.000.000 đồng, tiền lãi là 38.400
đồng. Nay Ngân hàng yêu cầu anh Duy chị Thoan phải trả số tiền nợ nêu trên.
Tại Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 27/2016/HNGĐ-ST ngày
31/8/2016 của Tịa án nhân dân huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng đã áp
dụng Điều 33, 59, 60, 61 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 219 Bộ luật Dân sự;
Khoản 1 Điều 28; Khoản 1 Điều 35; Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; Khoản
1 Điều 227 và Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Pháp lệnh án phí, lệ phí
Tịa án, xử:
Chấp nhận u cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Thoan về chia tài sản chung
của chị và anh Ngô Văn Duy:
- Về tài sản chung: Giao cho anh Duy sử dụng:
+ Một nhà cấp 4 diện tích 22,34m2 mái lợp prơ xi măng và 01 gian bán
mái, bịt tôn trước cửa nhà trị giá 43.043.000 đồng trên diện tích đất 365m 2 của
ơng Ngơ Văn Đán và bà Ngô Thị Tại số thửa 1946 tờ bản đồ số 3 thôn Quế Lâm,
xã Thụy Hương, huyện Kiến Thụy.
+ Tài sản gồm: 01 xe máy nhãn hiệu Wave BKS 15B1 – 651.33 đỏ đen trị

giá 12.000.000 đồng; 04 quạt điện (02 quạt treo tường và 02 quạt cây khơng có
cánh) trị giá 180.000 đồng; 01 tủ lạnh Deawoo trị giá 900.000 đồng; 01 tủ kệ gỗ ô
kan trị giá 300.000 đồng; 01 ti vi Sony 21 inch trị giá 500.000 đồng; 01 bộ bàn
ghế sắt giả mây ngồi uống nước trị giá 200.000 đồng; 01 ổn áp Lioa (5000VA) trị
giá 1.500.000 đồng; 01 bộ vòi tắm hoa sen trị giá 500.000 đồng; 01 chậu rửa mặt
+ gương trị giá 400.000 đồng; 01 bình nóng lạnh Picenza 300.000 đồng; 01 máy
giặt Toshiba trị giá 2.000.000 đồng; 01 bệt nhà WC trị giá 200.000 đồng; điện,
ống nước nhà WC trị giá 500.000 đồng.Tổng giá trị 19.480.000 đồng.
3


+ Cơng trình phụ (nhà tắm, nhà WC) trị giá 17.356.000 đồng.
Tổng giá trị tài sản chung giao anh Duy sử dụng có giá trị là 79.879.000 đồng.
- Về cơng nợ chung: Anh Duy có trách nhiệm trả nợ Ngân hàng chính sách
xã hội chi nhánh huyện Kiến Thụy là 12.038.400 đồng và tiền lãi kể từ ngày tiếp
theo của ngày tuyên án sơ thẩm. Anh Duy còn phải trả cho Ngân hàng số tiền lãi
trên nợ gốc chưa trả theo mức lãi suất mà các bên đã thỏa thuận cho đến khi trả
hết nợ gốc đã vay.
- Anh Duy phải có trách nhiệm thanh tốn trả tiền chênh lệch chia tài sản
cho chị Phạm Thị Thoan là 28.832.300 đồng.
Ngoài ra bản án cịn tun án phí và quyền kháng cáo theo quy định của
pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 12/9/2016 anh Duy kháng cáo bản án sơ thẩm.
* Tại phiên tịa, bị đơn anh Ngơ Văn Duy vẫn giữ nguyên kháng cáo với các
nội dung:
- Đất ở và cơng trình phụ là của bố mẹ anh (ơng Đán bà Tại) không phải là
tài sản chung vợ chồng nhưng Tòa án cấp sơ thẩm định giá và chia là khơng
được Cơng trình phụ gồm nhà tắm và nhà vệ sinh do bố mẹ anh bỏ tiền ra xây
dựng, anh và chị Thoan chỉ có tham gia cơng sức và mua sắm thiết bị nội thất.
- Tài sản chung vợ chồng chỉ có một nhà cấp 4 và các đồ dùng sinh hoạt

gia đình, nhưng giá như tịa án cấp sơ thẩm định giá là quá cao, theo anh căn nhà
đã xuống cấp chỉ có giá khoảng 3.000.000 đồng. Nhưng anh không kháng cáo
yêu cầu định giá lại tài sản.
- Về các khoản nợ chung: Anh xác định khoản vay 40.000.000 đồng của
Ngân hàng nông nghiệp Kiến Thụy đã trả xong khi vợ chồng còn chung sống
nhưng án sơ thẩm không chia đôi khoản nợ này.
* Nguyên đơn nêu: Khoản vay của Ngân hàng nông nghiệp được trả xong từ
lúc vợ chồng còn chung sống. Chị đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận như án sơ
thẩm đã giải quyết.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ơng Đán và bà Tại nêu: Ơng bà có
tiền tích góp được và giao cho anh Duy 58.000.000 đồng để xây dựng nên cơng
trình nhà tắm và nhà vệ sinh. Ơng bà vẫn đề nghị anh Duy chị Thoan ly hôn thì
trả lại cơng trình đó cho ơng bà.
* Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng tham gia
phiên tòa phát biểu ý kiến, xác định: Thẩm phán, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm
đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự đã
chấp hành đúng các quyền và nghĩa vụ, tham gia phiên tòa theo các quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về các nội dung kháng cáo của bị đơn anh Ngô Văn Duy là không phù hợp
với pháp luật và khơng có cơ sở chấp nhận, đề nghị Hi đồng xét xử giữ nguyên án
sơ thẩm.
4


Sau khi nghe các đương sự trình bày, căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ
sơ được xem xét, ý kiến tranh luận của các bên, ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên
tòa, xét kháng cáo của bị đơn anh Ngô Văn Duy, Hội đồng xét xử phúc thẩm,
XÉT THẤY:
+ Về đất ở và cơng trình phụ: Thửa đất chị Thoan anh Duy sử dụng là thuộc
quyền sử dụng của ông Đán bà Tại, chị Thoan không yêu cầu chia đất và cũng

không yêu cầu chia công sức duy trì đất, Tịa án sơ thẩm khơng định giá đất ở,
nên anh Duy kháng cáo nêu án sơ thẩm định giá đất để chia là không đúng.
Đối với cơng trình phụ gồm nhà tắm và nhà vệ sinh: Tại biên bản xác minh
tài sản chung của chị Thoan và anh Duy ngày 06/10/2015 anh chị đã thống nhất
tài sản chung có nhà ở, cơng trình phụ, tủ lạnh…Tại cấp sơ thẩm ông Đán bà Tại
khai về nguồn tiền xây dựng cơng trình phụ năm 2009 là tiền đền bù thu hồi đất
để làm đường của xã nhưng qua xác minh tại UBND xã thì đến năm 20102011ơng bà Đán mới nhận được tiền đền bù. Án sơ thẩm xác định khơng có căn
cứ chứng minh cơng trình phụ là tài sản thuộc quyền sở hữu của ông Đán bà Tại,
vì vậy án sơ thẩm xác định cơng trình phụ là tài sản chung của anh Duy chị
Thoan, định giá để chia là có cơ sở.
+ Về tài sản chung gồm nhà ở và các đồ dùng sinh hoạt: Tại cấp sơ thẩm,
sau khi nhận được thông báo kết quả định giá tài sản ngày 26/7/2016, anh Duy
khơng có yêu cầu định giá lại tài sản. Anh Duy kháng cáo cho rằng việc định giá
tài sản chung tại cấp sơ thẩm là q cao nhưng khơng có căn cứ chứng minh.
+ Về các khoản nợ vay Ngân hàng:
Nợ của Ngân hàng CSXH: Tiền nợ gốc là 12.000.000 đồng với lãi vay
0,8%/tháng. Sau khi ly hôn ngày 21/9/2015 đến ngày 20/8/2016 số tiền lãi là
1.056.000 đồng, anh Duy đã trả, số tiền này chị Thoan đồng ý trả cho anh
528.000 đồng. Tiền gốc và lãi tính đến ngày 31/8/2016 cịn nợ Ngân hàng là
12.038.400 đồng, anh Duy chị Thoan mỗi người có trách nhiệm trả 6.019.200
đồng.
Nợ của Ngân hàng Đơng Á, sau khi ly hơn cịn nợ gốc và lãi là 9.120.000
đồng đã được anh Duy thanh toán xong. Chị Thoan đồng ý trả lại cho anh Duy ½
số tiền 4.560.000 đồng.
Nợ của Ngân hàng NN và PTNT: Anh Duy và chị Thoan ly hôn ngày
21/9/2015 nhưng nợ vay ngân hàng nông nghiệp đã trả xong ngày 03/6/2015 khi
hai người còn chung sống. Án sơ thẩm xác định khoản vay Ngân hàng nơng
nghiệp khơng cịn là nợ chung là đúng. Anh Duy kháng cáo yêu cầu chia đôi
khoản nợ này là khơng có căn cứ chấp nhận.
Tồn bộ tài sản chung anh Duy được nhận có giá trị là 79.879.000 đồng. Do

anh Duy nhận toàn bộ tài sản chung nên anh Duy có trách nhiệm trả khoản nợ
12.038.400 đồng của Ngân hàng CSXH. Khoản nợ này sau khi trừ trong tổng giá trị
tài sản chung thì anh Duy chị Thoan mỗi người được nhận giá trị tài sản chung là:
(79.879.000 đồng – 12.038.400 đồng) : 2 = 33.920.300 đồng.
5


Về số tiền lãi 11 tháng của Ngân hàng CSXH và nợ của Ngân hàng Đông Á
do anh Duy đã trả, nên chị Thoan có trách nhiệm trả ½ cho anh Duy là 528.000
đồng (nợ lãi Ngân hàng CSXH do anh Duy đã trả) và 4.560.000 đồng ( nợ gốc
Ngân hàng Đông Á do anh Duy đã trả), tổng cộng 5.088.000 đồng.
Vì vậy, án sơ thẩm xác định anh Duy chỉ còn phải trả tiền tài sản cho chị
Thoan là: 33.920.300 đồng – 5.088.000 đồng = 28.832.300 đồng.
Như vậy về cơng nợ chung đã được Tịa án sơ thẩm xem xét và chia đôi
nghĩa vụ trả nợ cho anh Duy và chị Thoan.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của
anh Duy, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Về án phí: Anh Duy phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của
pháp luật.
Căn cứ Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự.
QUYẾT ĐỊNH
Không chấp nhận kháng cáo của anh Ngô Văn Duy. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Áp dụng Điều 33, 59, 60, 61 Luật Hơn nhân và Gia đình;
Áp dụng Điều 219 Bộ luật Dân sự; Khoản 1 Điều 28;
Áp dụng Khoản 1 Điều 35; Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; Điều 148;
Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 2 Điều 27, Khoản 1 Điều 30 Pháp lệnh án phí, lệ
phí Tịa án, xử:
1. Chấp nhận u cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Thoan về chia tài sản
chung của chị và anh Ngô Văn Duy:
- Về tài sản chung: Giao cho anh Duy sử dụng:

+ Một nhà cấp 4 diện tích 22,34m2 mái lợp prơ xi măng và 01 gian bán
mái, bịt tôn trước cửa nhà trị giá 43.043.000 đồng trên diện tích đất 365m 2 của
ông Ngô Văn Đán và bà Ngô Thị Tại số thửa 1946 tờ bản đồ số 3 thôn Quế Lâm,
xã Thụy Hương, huyện Kiến Thụy.
+ Tài sản gồm: 01 xe máy nhãn hiệu Wave BKS 15B1 – 651.33 đỏ đen trị
giá 12.000.000 đồng; 04 quạt điện (02 quạt treo tường và 02 quạt cây khơng có
cánh) trị giá 180.000 đồng; 01 tủ lạnh Deawoo trị giá 900.000 đồng; 01 tủ kệ gỗ ô
kan trị giá 300.000 đồng; 01 ti vi Sony 21 inch trị giá 500.000 đồng; 01 bộ bàn
ghế sắt giả mây ngồi uống nước trị giá 200.000 đồng; 01 ổn áp Lioa (5000VA) trị
giá 1.500.000 đồng; 01 bộ vòi tắm hoa sen trị giá 500.000 đồng; 01 chậu rửa mặt
+ gương trị giá 400.000 đồng; 01 bình nóng lạnh Picenza 300.000 đồng; 01 máy
giặt Toshiba trị giá 2.000.000 đồng; 01 bệt nhà WC trị giá 200.000 đồng; điện,
ống nước nhà WC trị giá 500.000 đồng.Tổng giá trị 19.480.000 đồng.
+ Cơng trình phụ (nhà tắm, nhà WC) trị giá 17.356.000 đồng.
Tổng giá trị tài sản chung giao anh Duy sử dụng có giá trị là 79.879.000 đồng.
6


- Về cơng nợ chung: Anh Duy có trách nhiệm trả nợ Ngân hàng chính sách
xã hội chi nhánh huyện Kiến Thụy là 12.038.400 đồng và tiền lãi kể từ ngày tiếp
theo của ngày tuyên án sơ thẩm. Anh Duy còn phải trả cho Ngân hàng số tiền lãi
trên nợ gốc chưa trả theo mức lãi suất mà các bên đã thỏa thuận cho đến khi trả
hết nợ gốc đã vay.
2. Anh Duy phải có trách nhiệm thanh tốn trả tiền chênh lệch chia tài sản
cho chị Phạm Thị Thoan là 28.832.300 đồng.
3. Về án phí:
Chị Phạm Thị Thoan phải chịu 1.996.975 đồng án phí dân sự sơ thẩm,
nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 3.250.000
đồng, theo Biên lai thu tiền số 0005770 ngày 25/01/2016 tại Chi Cục Thi hành án
dân sự huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng. Chị Thoan được trả lại số tiền

1.253.025 đồng.
Anh Ngô Văn Duy phải chịu 1.996.975 đồng án phí dân sự sơ thẩm và
200.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Anh Duy được trừ 200.000 đồng tiền tạm
ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp, theo Biên lai thu tiền số 0005906 ngày
28/9/2016 tại Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Kiến Thụy, thành phố Hải
Phòng. Anh Duy còn phải nộp 1.996.975 đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn
yêu cầu thi hành án, nếu người thi hành án không thanh tốn khoản tiền phải thi
hành thì phải chịu thêm tiền lãi đối với số tiền chậm thanh toán theo mức lãi suất
cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chưa thi hành án
tại thời điểm thanh toán.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền
yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo
quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi
hành án đươc quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
-VKS TP Hải Phịng ;
- Tồ sơ thẩm;
- Chi cục THADS Kiến Thụy;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, HCTP

T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM

THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TỒ

Đồn Thị Huỳnh Hoa


7



×