Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người và bản chất con người. Liên hệ vấn đề này với việc xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.12 KB, 19 trang )

1

MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU
3
1.Tính cấp thiết của đề tài..................................................................3
2.Mục tiêu, nhiệm vụ của tiểu luận....................................................4
3.Kết cấu của tiểu luận........................................................................5
B. NỘI DUNG 6
CHƯƠNG 1: QUAN NIỆM CỦA TRIẾT HỌC MÁCLÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON
NGƯỜI.................................................................................................6
1.1. Quan niệm về bản chất con người của những nhà
triết học trước Mác..............................................................................7
1.2.Quan niêm của Mác về bản chất con người................................7
1.2.1.Con người là thực thể sinh học – xã hội...................................9
1.2.2.Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã
hội........................................................................................................11
1.2.3. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản
phẩm của lịch sử................................................................................11
CHƯƠNG 2: PHÁT HUY CON NGƯỜI VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC......................12
C. KẾT LUẬN 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO


2

A. PHẦN MỞ ĐẦU
Trong chiều dài của bánh xe lịch sử, con người dần khám
phá được hằng trăm nghìn những điều mới lạ trong và ngoài


Trái Đất. Con người say mê tìm hiểu cấu tạo của mọi vật
xung quanh, về những dải ngân hà, về những điều kì bí.
Nhưng khi nhìn lại, bản chất con người là một sinh vật kì bí
hơn cả. Chính vì thế, em lựa chọn nghiên cứu về đề tài “Bản
chất con người”. Vấn đề về con người đã được tiến hành
nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau, song những lĩnh
vực đó mới chỉ nghiên cứu những mặt riêng biệt, cụ thể về
con người ( ví dụ: sinh học nghiên cứu các quy luật sinh lý ,
toán học nghiên cứu tư duy logic …..). Riêng với triết học ,
vì có đặc trưng của tư duy triết học là sự phản ánh của tư
duy con người đối với chính bản thân mình , có đối tượng
nghiên cứu là những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã
hội nên vấn đề về “Bản chất con người” được nghiên cứu
một cách bao quát và đầy đủ nhất. Hơn nữa, với triết học
Mác – Lênin, lần đầu tiên, vấn đề con người được giải quyết
một cách đúng đắn trên quan điểm biên chứng duuy vật.

1. Tính thiết lập của đề tài
Nguồn lực con người ln có vai trị quan trọng với sự phát
triển của mỗi quốc gia. Đặc biệt là trong bối cảnh thế kỉ
XXI, khi thế giới đang dần chuyển sang nền kinh tế tri thức,


3

tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế, nguồn lực con người ngày
càng thể hiện vai trị quyết định của nó. Phát triển nguồn lực
con người là xu hướng phát triển của thế giới, đó cũng là
con đường phát triển tất yếu của Việt Nam để tiến tới hoàn
thành sự nghiệp cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.

Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng đã khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát
huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố
quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa- hiện
đại hóa”. Thực tế đã chứng tỏ rằng nếu khơng có nguồn
nhân lực chất lượng thì nền kinh tế của Việt Nam chưa thể
thoát khỏi sự nghèo nàn, lạc hậu.
Với những u cầu cấp thiết đó, trong cơng cuộc hiện đại
hóa đất nước, chúng ta cần phải xem xét, đánh giá nguồn
nhân lực hiện tại ở Việt Nam đang bộc lộ những ưu điểm gì,
tồn tại những hạn chế nào để xây dựng chính sách phát triển
bền vững, nâng cao chất lượng lao động, phát huy sức mạnh
của nhân tố con người để phục vụ tốt nhất cho mục tiêu
cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Và tư tưởng MácLênin là cơ sở, là nền tảng để xây dựng nên những chính
sách, tầm nhìn chiến về nguồn lực con người ở Việt Nam.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của tiểu luận
Mục tiêu của đề tài là đưa ra cái nhìn tổng quát về thực
trạng nguồn lực con người ở Việt Nam, từ đó đề xuất giải
pháp phát huy thế mạnh, khắc phục hạn chế nhân tố con
người Việt Nam.


4

Bài tiểu luận tập trung triển khai, phân tích 2 nội dung chủ
yếu:
-

Cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về con người


-

Đặc điểm nguồn lực con người tại Việt Nam.

3. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục, tiểu luận được kết cấu thành 2 chương, 4 tiết.
Chương 1: Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con
người và bản chất con người.
Chương 2: Liên hệ vấn đề này với việc xây dựng con người
mới ở Việt Nam hiện nay


5

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC
MÁC-LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT
CON NGƯỜI.

1.1.

Quan niệm về bản chất con người của những nhà
triết học trước Mác
Các nhà triết học cổ điển Đức trước kia nói chung, từ
Cartơ đến Heghen nói riêng đã phát triển quan điểm
triết học về con người theo hướng của chủ nghĩa duy
tâm. Heghen quan niệm con người là sản phẩm của ý
niệm, tức là con người do thần thánh hoặc thượng đế
sinh ra, cuộc sống con người do đấng tối cao sắp đặt.

Đối lập với Hêghen, Phơbách lại đưa ra quan điểm duy
vật, cho rằng con người không phải là nô lệ của thượng
đế hay tinh thần tuyệt đối, mà là sản phẩm của tự
nhiên, là kết quả của quá trình phát triển của tự nhiên,
là cái cao quý nhất mà giới tự nhiên có. Ơng đã sử
dụng thành tựu của khoa học tự nhiên để chứng minh
mối liên hệ không thể chia cắt của tư duy với những
quá trình vật chất diễn ra trong cơ thể con người, song
khi giải thích con người trong mối liên hệ cộng đồng
thì Phơbách lại rơi vào lập trường của chủ nghĩa duy
tâm.
Các quan niệm nói trên đều tuyệt đối hóa mặt tinh
thần hoặc thể xác con người, tuyệt đối hóa mặt sinh
học mà khơng thấy mặt xã hội của con người. Chủ
nghĩa Mác đã kế thừa và khắc phục những mặt hạn chế


6

đó, đồng thời phát triển những quan niệm về con người
đã có trong các học thuyết triết học trước đây để đưa ra
quan niệm về bản chất con người.
1.2.

Quan niêm của Mác về bản chất con người.
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người
trong lịch sử triết học. Với triết học Mác – Lênin, lần
đầu tiên vấn đề con người được giải quyết một
cách đúng đắn trên quan điểm biên chứng duy vật.
Theo C.Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở

trình độ cao nhất của giới tự nhiên và lịch sử xã hội, là
chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên tất cả thành tựu của
văn minh và văn hóa .

1.2.1. Con người là thực thể sinh học – xã hội.
Dựa trên kết quả của những thành tựu của khoa học tự
nhiên, triết học Mác khẳng định: Con người vừa là sản
phẩm phát triển lâu dài của giới tự nhiên,vừa là sản
phẩm hoạt động chính của bản thân con người. Con
người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học
và yếu tố xã hội. Là thực thể sinh học, con người là kết
quả của q trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên (theo
thuyết tiến hóa của ĐacUyn). Vì con người là sản
phẩm của q trình tiến hóa tự nhiên nên con người là
một bộ phận tất yếu, không tách rời của giới tự nhiên.
Ph.Angghen cho rằng : “Bản thân cái sự kiện là con
người từ loài động vật mà ra, cũng đã quyết định việc
con người khơng bao giờ hồn tồn thốt ly khỏi
những đặc tính vốn có của con vật” . Hay nói cách


7

khác, Tiền đề vật chất đầu tiên quyết định cho sự tồn
tại của con người là giới tự nhiên.
Con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng
thời giới tự nhiên cũng là “thân thể vô cơ của con
người”. Con người tồn tại được trước tiên phải có cơ
thể sống, trong khi đó, cơ thể sống là một bộ phận của
tự nhiên, là sản phẩm của sự tiến hóa lâu dài của giới

tự nhiên. Mặt khác, con người phải đấu tranh để sinh
tồn và chịu sự chi phối của các quy luật tự nhiên, các
quy luật sinh học (Ví dụ: quy luật sinh tử, quy luật về
quan hệ giữa cơ thể và môi trường, quy luật dinh
dưỡng, quy luật di truyền và biến dị, quy luật đồng
hóa, dị hóa…). Tuy nhiên, con người khơng chỉ sống
dựa vào tư nhiên mà còn cải biến tự nhiên dựa trên các
quy luật khách quan, đây cũng là một trong những
điểm đặc biệt để phân biệt con người với các loài vật
khác.
Tuy nhiên, chúng ta khơng được tuyệt đối hóa điều đó.
Các đặc tính sinh học, bản năng sinh học hay sự sinh
tồn thể xác không phải là những cái duy nhất quy định
bản chất con người, mà chúng ta còn phải nhắc đến
phương diện xã hội. Bởi lẽ, đặc trưng quy định sự khác
biệt giữa con người với thế giới loài vật là phương diện
xã hội của nó. Con người là một thực thể xã hội có các
hoạt động xã hội mà điển hình chính là hoạt động lao
động. Chính nhờ lao động mà con người có khả năng
vượt qua lồi động vật để tiến hóa và phát triển thành
người. Con người sống bằng lao động sản xuất, bằng
việc cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm để thỏa


8

mãn nhu cầu của mình. Vì vậy, ta hồn tồn có thể
khẳng định: Lao động là điều kiện kiên quyết, cần thiết
và chủ yếu quyết định sự hình thành và phát triển của
con người. Mặt khác, tính xã hội của con người chỉ có

trong “xã hội lồi người”, con người khơng thể tách
khỏi xã hội và đó là điểm cơ bản làm cho con người
khác với con vật. Hoạt động của con người gắn liền với
các quan hệ xã hội khơng chỉ phục vụ cho con người
mà cịn cho xã hội như ngôn ngữ giao tiếp, lương tâm,
ý thức con người,…… Xã hội biến đổi thì mỗi con
người cũng do đó mà cũng có sự thay đổi tương ứng và
ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân là tiền đề cho
sự phát triển của xã hội.
Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt tự
nhiên và mặt xã hội. Hai mặt này vừa đối lập nhau, vừa
quy định ràng buộc và làm tiền đề cho nhau, trong đó
mặt tự nhiên quyết định sự tồn tại của con người, còn
mặt xã hội quyết định bản chất con người
1.2.2. Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ
xã hội.
Có thể nói, con người vượt lên thế giới lồi vật trên cả
ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan
hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người.
Cả ba mối quan hệ đó đều mang tính xã hội, trong đó
quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản
chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt
động trong chừng mực liên quan đến con người. Bởi
vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người,
C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng trong tác phẩm


9

Luận cương về Phoiơbắc: "Bản chất con người không

phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hoà những quan hệ xã hội ”. Mác cho rằng xem
xét yếu tố cấu thành bản chất con người phải vạch ra
bản chất con người trong tính hiện thực của nó. Đây là
một luận đề hết sức khoa học, đầy đủ. Luận đề khẳng
định rằng, khơng có con người trừu tượng, thốt ly mọi
điều kiện, hồn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn
luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử
cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Khi nói con
người thì khơng phải là nói con người trong trạng thái
tự nhiên thuần tuý, mà là con người hoạt động thực
tiễn. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm
biến đổi đời sống xã hội đồng thời cũng biến đổi chính
bản thân mình. Chỉ trong tồn bộ các mối quan hệ xã
hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ
chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...),
con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của
mình. Tất cả các quan hệ đó đều góp phần vào việc
hình thành bản chất con người, tùy theo thời gian
cường độ tác động mà mức độ ảnh hưởng khác nhau,
nhưng suy cho cùng thì các quan hệ kinh tế hiện tại,
trực tiếp, ổn định sẽ giữ vai trò quyết định. Đây là phát
hiện có giá trị to lớn của Mác về bản chất con người.
Trong điều kiện đó sự tác động giữa con người và hoàn
cảnh cụ thể tạo nên những bản sắc riêng của con người
mỗi thời đại.


10


Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã
hội khơng có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời
sống con người. Song, ở con người, mặt tự nhiên tồn
tại trong sự thống nhất với mặt xã hội; ngay cả việc
thực hiện những nhu cầu sinh vật ở con người cũng đã
mang tính xã hội. Quan niệm bản chất con người là
tổng hoà những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta
nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về
mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người.
1.2.3. CON NGƯỜI VỪA LÀ CHỦ THỂ CỦA LỊCH
SỬ, VỪA LÀ SẢN PHẨM CỦA LỊCH SỬ.
Lịch sử là quá trình đan xen, nối tiếp nhau với tất cả
những bảo tồn và biến đổi xảy ra trong q trình ấy.
Lịch sử là hoạt động có ý thức của chính bản thân con
người. Con người tách khỏi động vật như thế nào thì
họ bước vào lịch sử như thế ấy. Lịch sử xã hội lồi
người hình thành khi con người biết chế tạo ra công cụ
lao động, từ đó khơng cịn lệ thuộc vào tự nhiên, tách
mình ra khỏi thế giới loài vật, chuyển sang thế giới loài
người và lịch sử xã hội bắt đầu. Để tồn tại và phát
triển, con người phải lao động, tạo ra của cải vật chất
để ni sống mình và xã hội. Sản xuất ra của cải vật
chất là đặc trưng riêng chỉ có ở con người. Đó là q
trình lao động có mục đích và khơng ngừng sáng tạo
của con người, tạo của cải vật chất đảm bảo cho sự tồn
tại của xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển. Hoạt động
lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của
con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời
sống và bộ mặt xã hội. Vì thế, con người là chủ thể



11

sáng tạo nên các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội
cũng như là động lực của các cuộc cách mạng xã hội.
Có thể nói, con người là chủ thể của lịch sử.
Con người làm ra lịch sử, nhưng khơng phải làm theo ý
muốn tùy tiện của mình mà phải dựa trên những điều
kiện có sẵn do quá khứ để lại. Khơng có thế giới tự
nhiên, khơng có lịch sử xã hội thì khơng tồn tại con
người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của
sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh. Con người tồn tại
và phát triển trong một hệ thống môi trường xác định,
là sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội. Con
người sống, hoạt động trong một xã hội nhất định, một
thời đại nhất định, trong những điều kiện lịch sử nhất
định, nghĩa là những con người cùng với xã hội mình
khai thác thiên nhiên, sinh hoạt xã hội, phát triển ý
thức. Trên thực tế, con người lại là những con người ở
những thời đại khác nhau, các dân tộc khác nhau, các
giai cấp, các nhóm xã hội khác nhau, nên trong họ, cái
tự nhiên tồn tại trong sự tác động của cái xã hội. Như
vậy, con người vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ
thể của lịch sử.
CHƯƠNG II: PHÁT HUY CON NGƯỜI VIỆT
NAM TRONG Q TRÌNH PHÁT TRIỂN ĐẤT
NƯỚC

Trải qua q trình hội nhập nền kinh tế nước nhà với

nền kinh tế quốc tế, Việt Nam được đánh giá là một
trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh


12

và triển vọng nhất. Thế nhưng, chỉ tăng trưởng kinh tế
nhanh thôi là chưa đủ. Một nền kinh tế phát triển bền
vững đòi hỏi phải tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Mà thực hiện các
chính sách xã hội chính là đầu tư vào nhân tố con
người. Hay nói cách khác, muốn đất nước có thể phát
triển bền vững thì phải tập trung vào phát triển nhân tố
con người.
Thực chất, khái niệm nhân tố con người là sự tiếp tục
triển khai quan điểm của triết học Mác - Lênin. Xuất
phát từ quan điểm của Mác cho thấy, khi là một thực
thể tự nhiên - xã hội, con người nói chung biểu hiện ra
trên nhiều phương diện. Chẳng hạn, con người tồn tại
với tư cách là một nguồn tài nguyên đặc biệt - tài
nguyên con người; con người tồn tại với tư cách là một
nguồn lực đặc biệt - nguồn lực con người, hoặc tồn tại
với tư cách là một nhân tố thúc đẩy đời sống kinh tế xã hội gọi là nhân tố con người…
Vậy, chúng ta nên khai thác, tìm hiểu, phát triển và
phát huy nhân tố con người như thế nào để phát triển
đất nước bền vững ?
Khi đi sâu vào khai thác nhân tố con người trong công
cuộc phát triển đất nước, ta phải đặt nó trong mối quan
hệ với cộng đồng và xã hội. Muốn duy trì cuộc sống
của mình, con người phải lao động và liên hệ với

những người khác. Đời sống con người về bản chất là
có tính xã hội. Theo C.Mác:“Trong tính hiện thực của
nó, bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ
xã hội” .Mối quan hệ giữa con người và xã hội rất chặt


13

chẽ, tác động qua lại với nhau. Vì vậy, muốn đất nướcxã hội phát triển bền vững thì cần phải phát triển nhân
tố con người.
Nói đến phát triển nhân tố con người là nói đến việc
rèn luyện bản chất của nó. Con người là sản phẩm của
lịch sử. Mỗi thời đại lịch sử cụ thể bao giờ cũng đặt ra
những chuẩn mực nhất định cho con người trong xã hội
đó. Mà bản chất con người được quy định bởi môi
trường và điều kiện xã hội. Do vậy, bản chất con người
trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn
luôn vận động biến đổi, cùng phải thay đổi cho phù
hợp. Vì thế, muốn phát triển bản chất con người theo
hướng tích cực thì phải hiểu rõ mơi trường, điều kiện
xã hội ở nơi mình đang sinh sống, ở thời đại mình đang
tồn tại u cầu địi hỏi con người cần những gì.
Thực tiễn cho thấy, việc giải quyết vấn đề phát triển
con người Việt Nam những năm qua được đánh giá có
nhiều chuyển biến tích cực và đạt kết quả quan trọng.
Quá trình cách mạng Việt Nam chứng tỏ rằng trong
những thời điểm lịch sử hiểm nghèo, những tình thế
hết sức khó khăn, con người Việt Nam đều rất sáng tạo,
năng động và ln tìm ra những lối thoát, những đường
hướng đi lên làm kinh ngạc cả bạn bè quốc tế. . Lịch sử

cũng chứng minh: thời kỳ nào cách mạng biết phát huy
mạnh mẽ nhân tố con người, tạo mọi điều kiện cho
hoạt động sáng tạo của con người thì con người Việt
Nam ln biết "chuyển bại thành thắng", chuyển từ
tình thế khó khăn thành lợi thế trong đó con người là
động lực trung tâm. Do đó, Báo cáo tổng kết một số


14

vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 2006), Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Con
người và sự phát triển con người được đặt vào vị trí
trung tâm của chiến lược kinh tế - xã hội, mở rộng cơ
hội, nâng cao điều kiện cho con người phát triển” .
Hiện nay, Việt Nam đang trong q trình đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố theo định hướng xã hội
chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hố và tích cực hội
nhập quốc tế. Q trình này đòi hỏi con người Việt
Nam cần phải biết xây dựng nhân cách với nội dung
tồn diện, từ đạo đức, trí tuệ , thể chất, tâm hồn và đặc
biệt là phải có khả năng chủ động, sáng tạo, linh hoạt,
và năng động. Quá trình hội nhập đưa tới cho Việt Nam
cơ hội để tiếp xúc với những nền kinh tế khác nhau,
những cộng đồng, xã hội, văn hóa khác nhau và cả
những con người khác nhau. Điều này đòi hỏi mỗi cá
nhân phải có thái độ chủ động và cầu tiến để học hỏi
những cái hay, cái đẹp từ nước bạn, đồng thời phải linh
hoạt trong việc phân loai, chọn lọc và tiếp thu thơng
tin.Từ đó, vận dụng óc sáng tạo để chuyển hóa thành
kiến thức mới, áp dụng vào cơng cuộc xây dựng, đổi

mới và phát triển đất nước bền vững.
Hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển nhân tố
con người, kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin trong tiến trình xây dựng xã hội mới, Đảng ta đã
khẳng định: nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết
định nhất là con người Việt Nam; nhân tố con người
chính là nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt
Nam. Đối với một nước chủ động lựa chọn và kiên trì


15

con đường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa
như Việt Nam, sự phát triển, tăng trưởng kinh tế, xét
đến cùng cũng là vì con người, hướng đến con người.
Trong bối cảnh tồn cầu hố và hội nhập quốc tế, Đảng
ta xác định một trong những yếu tố quyết định việc
chúng ta có tranh thủ tận dụng thành cơng những thuận
lợi, cơ hội và vượt qua thách thức, khó khăn mà q
trình đó đặt ra hay khơng phụ thuộc đáng kể vào con
người. Vì thế, Đại hội XI của Đảng đã đề ra chủ trương
phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài
hịa với phát triển kinh tế: Hồn thiện hệ thống chính
sách, kết hợp chính sách kinh tế với chính sách xã hội,
thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội trong từng bước,
từng chính sách phát triển phù hợp với điều kiện cụ
thể, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững. Đại hội XI
của Đảng cũng định hướng các chính sách về giáo dục,
đào tạo; về y tế; về lao động và việc làm; về nâng cao
thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân, hạn
chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống

giữa nông thôn và thành thị; về hệ thống an sinh xã
hội, về xóa đói, giảm nghèo;…… Đảng và Nhà nước
cũng đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 2020 xác định một trong ba khâu đột phá là phát triển
nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn
diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển
nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học,
cơng nghệ. Có thể nói, những chính sách của Đảng và
Nhà nước là những bước đi đúng đắn và mang tính đột


16

phá trong việc khai thác và phát huy nhân tố con
người.
Con người là một thành viên, là một tế bào của xã hội,
của đất nước. Con người sẽ phát triển tốt khi được ở
trong một môi trường điều kiện xã hội tốt, nhưng môi
trường điều kiện xã hội không tự nhiên xuất hiện mà
nó là kết quả hoạt động của con người. Vì thế, muốn
được phát triển bản thân một cách tồn diện, con người
trước hết cần phải có trách nhiệm bảo vệ và phát triển
xã hội bằng cách:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Có ý thức tập thể, đồn kết, phấn đấu vì lợi ích
chung, luôn biết đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá
nhân.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm,
trung thực, nhân nghĩa tôn trọng kỷ cương phép nước,

quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện
môi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ
thuật, sáng tạo, năng suất lao động cao vì lợi ích của
bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ
chun mơn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.


17

C. KẾT LUẬN

Trong tất cả những nghiên cứu về bản chất con
người cho đến thời điểm hiện tại thì quan điểm triết
học Mác-Lênin đã giải quyết vấn đề một cách đúng đắn
và đầy đủ nhất trên quan điểm biên chứng duy vật.
Theo ông, con người là thực thể sinh học-xã hội; là chủ
thể và là sản phẩm của lịch sử. Song trong đời sống xã
hội, khi xem xét con người phải đặt nó trong tổng thể
các quan hệ xã hội, bởi “ Trong tính hiện thực, bản chất
con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội.”
Quan điểm triết học Mác-Lênin về bản chất con
người mang lại ý nghĩa vô cùng to lớn trên nhiều
phương diện. Nghiên cứu về vấn đề này, con người sẽ
tiến gần hơn một bước trong việc khám phá về chính
mình, từ đó ứng dụng vào đời sống ở những lĩnh vực
khác nhau như: chính trị, kinh tế, xã hội,….. Hiểu rõ
hơn về bản chất của bản than và những mối quan hệ
liên quan , con người sẽ biết tự điều chỉnh hành vi sao

cho phù hợp với những mối quan hệ đó, từ đó có động
lực phát triển bản thân nói riêng cũng như cộng đồng,
xã hội nói chung bền vững đi lên.


18

TÀI LIỆU THAM KHỎA
1. Theo Giáo trình Triết học Mác- Lênin, GS.TS. Phạm
Văn Đức chủ biên.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Những ngun lí
cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.

3.

Văn Đình Tấn (21/11/2017), Nguồn nhân

lực trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta,
/>_Article_ID=212
4.

/>

19




×