Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

LUẬN VĂN CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM NGHIÊN CỨU MỘT SỐ THAY ĐỔI CỦA THỊT HEO NẠC DƯỚI TÁC DỤNG CỦA CHẤT BẢO QUẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.47 MB, 74 trang )

Mở đầu GVHD: ThS. Vòng Bính Long





SVTH: Trần Thị Hiền Vâng Trang 1
CHƯƠNG 1. MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề
Hóa chất độc hại tồn tại trong thực phẩm đang được sự quan tâm của rất nhiều người vì
mỗi khi hay uống chúng ta đều lo sợ về vấn đề an toàn thực phẩm. Dù ăn một tô phở, gói mì
hay uống một ly nước ngọt hầu như tất cả đều có nguy cơ nhiễm vào người một số chất hóa
học ảnh hưởng đến sức khoẻ con người.
Bảo quản thực phẩm là một công đoạn bắt buộc và hết sức quan trọng trong quá trình sản
xuất, phân phối và tiêu thụ sản phẩm. Bảo quản thực phẩm có vai trò tiêu diệt hoặc ức chế các
vi sinh vật (vi khuẩn, nấm mốc, nấm men,…); chống lại các phản ứng oxy hóa; tăng giá trị,
chất lượng thực phẩm;… sao cho sau một thời gian lưu giữ xác định, sản phẩm tới tay người
tiêu dùng vẫn đảm bảo được các tiêu chí về an toàn thực phẩm do nhà nước quy định.
Hiện nay, có rất nhiều phương pháp bảo quản thực phẩm như bảo quản lạnh, chiếu xạ thực
phẩm, khí quyển điều chỉnh, dùng hoá chất,… trong số đó phương pháp dùng hoá chất bảo
quản thực phẩm là thông dụng nhất. Tuy nhiên hoá chất bảo quản được xem con dao hai lưỡi
nếu dùng quá liều lượng sẽ gây ra tác dụng phụ ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng [2 ,
61, 63, 64, 69].
Thế nhưng trên thực tế, do chạy đua theo lợi nhuận và cả kém hiểu biết nên rất nhiều nhà
sản xuất phân phối do không trang bị quy trình sản xuất chuẩn, nguyên liệu không tốt, sản
phẩm làm ra tiêu thụ chậm đã lạm dụng các chất bảo quản. Nhiều nhà sản xuất phân phối
đã dùng hóa chất công nghiệp thay vì hóa chất dùng trong thực phẩm với liều lượng vượt
ngưỡng cho phép rất nhiều lần… để kéo dài thời gian bảo quản chờ phân phối tiêu thụ trên thị
trường vì chạy theo lợi nhuận.
Qua điều tra 349 mẫu thực phẩm là các loại nước giải khát, nước tương, tương cà tương


ớt, thịt chế biến sẵn… Viện Vệ sinh Y tế công cộng đã phát hiện tới 20,3% số mẫu đã không
đạt chỉ tiêu an toàn do sử dụng quá mức sodium benzoat và potassium sorbate. Còn tại các
chợ thì công nghệ tẩy trắng mực và lòng bò bằng thuốc tẩy; làm tươi thịt, cá biển đã ươn tới
mức có dòi bên trong bằng hàn the, formol đang được áp dụng hằng ngày [ 28, 64].
Do thịt tươi là một loại thực phẩm giàu đạm rất dễ bị hư hỏng nên những người bán đã
dùng các hoá chất như hàn the, potassium nitrat,… để tẩm ướp nhằm kéo dài thời gian bảo
Mở đầu GVHD: ThS. Vòng Bính Long





SVTH: Trần Thị Hiền Vâng Trang 2
quản thịt tươi sau khi giết mổ để tăng lợi nhuận. Sau khi giết mổ đến giai đoạn thịt sắp ôi thiu
những người bán thường dùng hàn the và potassium để tẩm ướp thịt giữ cho tươi và bán tiếp
cho người tiêu dùng.
Hàn the là loại hoá chất không nằm trong danh mục phụ gia theo qui định, nó là loại phụ
gia thực phẩm đã bị cấm sử dụng trong thực phẩm với bất cứ hàm lượng nào và cách thức
nào. Nó là hoá chất được nói đến nhiều nhất trong bảo quản chế biến thực phẩm trước đây
thường được cho vào giò chả, nem chua, mì sợi, dưa chua để tăng độ dai, giòn của những món
ăn này. Nếu cơ thể con người tích lũy hàn the nhiều sẽ gây khó tiêu, chán ăn, mệt mỏi do ngộ
độc mãn tính; nếu nặng sẽ làm thoái hóa cơ quan sinh dục, gây suy yếu khả năng sinh sản và
tổn thương bào thai [24, 21, 23, 25, 37, 45].
Potassium nitrat là hoá chất thuộc nhóm muối nitrit, nitrat thường được gọi là muối diêm,
các muối này được dùng để sát khuẩn và giữ màu t
ự nhiên của thịt. Thịt được nhúng vào dung
dịch của potassium nitrat hòa tan với nước (hoặc dùng dung dịch này quét lên thịt), thịt sẽ giữ
được màu tươi, sợi thịt se, không có mùi. Loại hóa chất này có dạng bột màu trắng, có khả
năng gây ung thư này có tên gọi trên thị trường là spết hay săm-pết hoặc ngắn gọn hơn với tên
long là pết, thường được dùng cho trong công nghiệp như sản xuất thuốc súng, kíp nổ, pháo

hoa, diêm và sử dụ
ng trong luyện kim. Ngoài ra nó còn được sử dụng trong nông nghiệp như
một loại phân bón để cung cấp kali và nitơ cho cây trồng [39, 40, 41].
Chitosan là loại polymer sinh học có nguồn gốc tự nhiên, không độc hại được nhiều nhà
khoa học trên thế giới quan tâm vì có những tác động tốt trên bệnh nhân ung thư. Hai nước
nghiên cứu nhiều về chitosan hiện nay là Trung Quốc và Nhật Bản. Hàng năm các nhà máy
chế biến đã thải bỏ một lượng phế liệu giáp
xác
khá lớn khoảng 70.000 tấn/năm. Việc sản
xuất chitosan có nguồn gốc từ vỏ các loài giáp xác mang lại hiệu quả kinh tế cao vì chitosan
có ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như: y học, xử lý nước thải, công nghiệp nhuộm,
giấy, mỹ phẩm, thực phẩm Ở Việt Nam, chitosan được sản xuất từ vỏ tôm đã sử dụng làm
phụ gia thay thế hàn the trong sản xuất giò lụa, bánh cu
ốn, bánh su sê Và những nghiên cứu
gần đây đã thành công với việc ứng dụng chitosan làm màng bao để bảo quản thực phẩm như
bảo quản rau quả (xoài, chuối, bưởi, quýt đường,…,) và những thực phẩm giàu đạm như trứng
gà, cá tươi, cá khô,…) [19, 28, 20, 21,22, 32].
Từ tình hình bảo quản thực phẩm hiện nay nhất là bảo quản thịt tươi, trong bài báo cáo
này em thực hiện đề tài “Nghiên cứu một số thay đổi của thịt heo nạc dưới tác dụng của các
chất bảo quản” .
Mở đầu GVHD: ThS. Vòng Bính Long





SVTH: Trần Thị Hiền Vâng Trang 3
1.2. Mục đích
Nghiên cứu một
số thay đổi của thịt heo nạc tươi

qua sơ chế tối thiểu bao gồm chỉ tiêu
đạm tổng số, đạm formol, đạm amoniac, đạm amin và tổng số vi sinh vật hiếu khí
dưới tác
dụng của các chất
bảo quản ở nhiệt độ thường.
1.3. Yêu cầu đề tài
Nghiên cứu khảo sát chỉ tiêu đạm tổng số, đạm formol, đạm amoniac, đạm amin và tổng
số vi sinh vật hiếu khí
dưới tác dụng của các
chất bảo quản thịt heo nạc tươi trong thời
gian bảo quản ở điều kiện nhiệt độ thường.










Tổng quan tài liệu GVHD: ThS. Vòng Bính Long





SVTH: Trần Thị Hiền Vâng Trang 4
CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU


2.1. Tổng quan về tình hình bảo quản thực phẩm
Hiện nay tình hình mua bán các hoá chất độc hại chưa được quản lý chặt chẽ nên hoá
chất bảo quản không đảm bảo an toàn cho sức khoẻ người tiêu dùng được sử dụng hầu như
trong tất cả các loại thực phẩm bán trên thị trường. Các loại thực phẩm giàu đạm được nhuộm
màu tiết lợn và tẩm ướp urê. Các loại rau thì xanh mướt nhờ có thuốc bảo quản xuất xứ từ
Trung Quốc mà không rõ là hoá chất gì [35, 36, 26].
Trái cây thì được ngâm hoá chất bảo quản Trung Quốc để cả tháng không hư. Và các
loại thực phẩm mứt, bún, phở, đồ hải sản như mực để đẹp mắt và lâu hỏng thì được tẩm ướp
formol và những hoá chất tẩy trắng… Trong sản xuất kẹo thì trộn bột carbonat canxi (bột đá
vôi dùng trong công nghiệp) để kẹo được giòn. Trong sản xuất dấm ăn thì dùng nguyên liệu
acid acetic (có thể là phụ gia thực phẩm, hoặc chất dùng trong công nghiệp, chứa hàm lượng
kim loại nặng lớn, sử dụng trong chế biến cao su) [49, 50, 51].
Những người bán ếch thì thường có một bịch huyết heo để trộn cho tươi nhằm đánh
lừa khách hàng. Ếch được lột da sẵn mang từ miệt vườn Đồng Tháp lên, ướp đá trắng bệch
nhưng chỉ cần người bán trộn chút huyết là nhìn tươi roi rói thì thật khó mà phân biệt được
đâu là ếch tươi đâu là ếch được tẩm huyết [42, 43].
Những người bán cá thì mua cá về đem tẩm ướp phân urê, trộn muối diêm, trộn màu
vào cho dễ bán. Những người bán cá ở chợ Rạch Ông, quận 8, chỉ cần dùng một chút phẩm
màu đỏ bôi lên mang cá, hai bên mang cá lập tức từ tím tái chuyển sang đỏ hồng. Khách hàng
đi chợ có thói quen xem mang cá sẽ dễ nhầm l
ẫn đó là cá tươi [42, 43, 68, 36, 35].
Còn tại quầy thịt nhìn những miếng thịt lợn, bò còn đỏ tươi ai cũng nghĩ đó là loại thịt
mới, còn tươi nhưng những miếng thịt này khi sờ vào có lại hơi cứng, không có độ đàn hồi và
độ dẻo dính. Những miếng thịt đó là loại thịt cũ đã được tẩm ướp urê hoặc hàn the [42, 43, 68,
36, 35].
Tình trạng thực phẩm tẩm ướ
p hoá chất độc hại tràn lan, phổ biến khiến cho rất nhiều
người mua thực phẩm không hiểu vì lý do nào mà lúc mua thực phẩm tươi sống tại chợ thì
tươi ngon nhưng khi về đến nhà thì thịt heo rửa xong lại có mùi lạ; cá biển rửa xong thì thịt cá
bị mềm, nhũn và bở không ăn được; mực, ếch rửa xong thì thịt trắng bệch.

Tổng quan tài liệu GVHD: ThS. Vòng Bính Long





SVTH: Trần Thị Hiền Vâng Trang 5
2.1.1. Thực phẩm tẩm ướp hàn the [7, 8, 9]
Trưởng Ban Quản lý chợ Phạm Văn Hai cho biết lợn được giết mổ từ khuya để đến
chiều còn tươi là do người bán đã tẩm ướp thịt. Cách mà những người bán thịt thường sử
dụng là sử dụng muối diêm tẩm ướp vào thịt sẽ giúp thịt không bị sậm màu và khi cắt ra sẽ có
màu đỏ tươi như thịt mới giết mổ nhưng ăn vào sẽ có vị chát rất khó chịu. Vào những thời
điểm thịt bị rớt giá đột ngột, một số người bán đầu cơ mua với số lượng lớn và mang về xử lý
tẩm ướp để bảo quản hôm sau bán tiếp.
Chi cục Thú y Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, qua kiểm tra dư lượng hàn the có
trong các loại thịt heo, thịt bò, thịt xay bày bán tại các chợ tự phát trong năm 2004 cho thấy có
gần 50% người bán vi phạm. Đầu năm 2005, các trạm thú y quận, huyện, thành phố Hồ Chí
Minh đã tiến hành kiểm tra nhanh dư lượng hàn the trên thịt gia súc bày bán tại các chợ đều
phát hiện nhiều trường hợp thịt tẩm ướp hàn the.
Vào khoảng từ 10 giờ sang, thời điểm mà thịt, cá bắt đầu ngả màu và có biểu hiện bị
ôi thiu, tiểu thương bắt đầu dùng hàn the để ướp, tình trạng này rất phổ biến ở các chợ nằm
gần khu vực các khu công nghiệp và khu chế xuất. Các tiểu thương tẩm ướp công khai ngay
tại sạp hàng, nhiều người bán cá sau khi ướp hàn the còn ngụy trang vài cục nước đá nhỏ trên
mâm cá cho người mua yên tâm. Hàn the còn được tiếp tục tẩm ướp vào buổi chiều và tối
với liều lượng càng lúc càng tăng. Chợ Nhị Thiên Đường, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh nổi
tiếng là nơi buôn bán hàng tồn của tiểu thương các chợ.
Tại khu vự
c xung quanh chợ Phạm Văn Hai, quận Tân Bình, khoảng từ 12 giờ đến
chiều thường xuất hiện nhiều người chuyên bán thịt xay bằng xe đẩy với giá bán chỉ 15.000
đồng đến 20.000 đồng/kg. Đầu tháng 2 năm 2005, trạm thú y quận Tân Bình đã bắt một xe

đẩy bán thịt xay phía sau chợ Phạm Văn Hai với số lượng 7 kg, khi kiểm tra nhanh cho thấy
lượng hàn the trong thịt có liều lượng rất cao. Trước đó trạm thú y quận Tân Bình cũ
ng kiểm
tra, xử lý một trường hợp chế biến gần 300 kg thịt xay có tẩm hàn the. Tại hiện trường còn có
nhiều thùng, thau đựng hóa chất, trong đó có cả hàn the chưa sử dụng.
Ngoài thịt, cá hàn the cũng đang được sử dụng lan tràn trong chế biến các loại dưa
chua khác như dưa kiệu, dưa cải và các loại bánh xèo, bánh bột lọc, rau câu, sương sa,
sương sáo để tăng thêm độ giòn, độ dai. Chả lụa bỏ thêm hàn the để làm cho thịt có màu
hồng tươi, giòn, dai và đẹp mắt hơn [45].
Tổng quan tài liệu GVHD: ThS. Vòng Bính Long





SVTH: Trần Thị Hiền Vâng Trang 6
Trừ một số cửa hàng kinh doanh thực phẩm có thương hiệu, thực phẩm ở bất cứ điểm
buôn bán thực phẩm nào tại thành phố Hồ Chí Minh khi tiến hành kiểm tra nhanh dư lượng
hàn the thì kết quả đều cho thấy lượng hàn the đậm đặc. Khi tiến hành thử nhanh hai mẫu
bánh giò và một mẫu lạp xưởng, một mẫu rau câu, một mẫu bánh pía, một mẫu nem chua,
một mẫu bánh mì mua tại cửa hàng thực phẩm đều cho thấy lượng hàn the trên mức 3 g/kg
[24, 21, 23, 25, 37, 45].
Mỗi lần Sở Y tế đi kiểm tra tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm đều phát hiện ra sai
phạm liên quan đến sử dụng hàn the. Theo kết quả kiểm tra ngẫu nhiên đối với 2.500 mẫu giò
chả, giò sống, mì sợi tại các cơ sở sản xuất, nơi kinh doanh, hàng rong trên địa bàn được
Trung tâm Y tế Dự phòng, thành phố Hồ Chí Minh thì chả lụa là loại thực phẩm có tỷ lệ sử
dụng hàn the lớn nhất với tỷ lệ gần 70%, kế đến là mì sợi với tỷ lệ 60%, giò sống với tỷ lệ
45% và bánh giò với tỷ lệ 25%. Theo trung tâm nhận xét thì kết quả những mẫu thử hàn the
cho thấy năm 2004 lượng hàn the cho vào thực phẩm trung bình khoảng 1.000 - 2.000 mg/kg
nhưng năm 2006 con số này lên đến hơn 3.000 mg/kg [24, 21, 23, 25, 37, 45].

2.1.2. Trái cây ngâm tẩm chất bảo quản độc hại của Trung Quốc
Nhiều loại trái cây, rau củ tươi nhập từ Trung Quốc có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật
cao hơn nhiều lần so với tiêu chuẩn và có sử dụng chất bảo quản, chất làm ngọt nhưng do
dùng chất bảo quản nên trái cây ngoại luôn thối từ trong ra ngoài và người mua rất khó phát
hiện. Nhất là trái cây nhập ngoại lưu thông trên thị trường nhiều ngày do tốn thời gian vận
chuyển nên hầ
u hết đều được giới kinh doanh trái cây phun lên một lớp hóa chất bảo quản giữ
trái cây tươi lâu. Ngoài ra Trung Quốc còn bán sang Việt Nam rất nhiều loại thuốc bảo quản
hoa quả mỗi gói này giá chỉ 10.000 đồng, phun được hàng tạ trái cây để giữ cho đẹp và bảo
quản được lâu. Tại khu vực chợ Kim Biên Thành phố Hồ Chí Minh, hầu hết các sạp kinh
doanh hóa chất đều có bán các loại hóa chất dùng để bảo quản trái cây, rau củ; những ng
ười
kinh doanh trái cây, rau củ đều ra đây lấy hàng, mỗi lần lấy cả chục ký [ 49, 50, 51].
Các loại trái cây này có thể bảo quản trong thời gian một tháng nên khi mua về để sau
15-20 ngày thì màu sắc của nó vẫn không thay đổi nhưng bên trong ruột đã bị hư. Theo thanh
tra Chi cục Bảo vệ Thực vật Thành phố Hồ Chí Minh, qua các kiểm tra nhanh thì cho thấy các
loại táo, lê, cam của Trung Quốc có gốc lân và carbamat, nhưng khi đem về kiểm tra lại
không xác định được đ
ó là hoá chất gì và dư lượng là bao nhiêu. Gần đây, các nhà nghiên cứu
đã phát hiện được những loại hóa chất bảo quản trái cây và rau củ tươi màu trắng có gốc clo,
peroxit rất độc hại cho người sử dụng nhưng vì nó không mùi, không vị, không màu nên rất
Tổng quan tài liệu GVHD: ThS. Vòng Bính Long





SVTH: Trần Thị Hiền Vâng Trang 7
khó phát hiện. Những loại hóa chất này thẩm thấu rất mạnh vào bên trong củ quả. Theo tiến sĩ
Phạm Thành Quân, Phó Khoa Công nghệ Hóa học Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí

Minh thì tác dụng của các chất này đối với bảo quản củ quả ngoài tính chất diệt côn trùng còn
diệt tất cả vi khuẩn nên ngăn chặn được quá trình chuyển hóa các tế bào, các vitamin bị chậm
chuyển hóa cũng như chống ôxy hóa làm củ quả tươi lâu [24, 21, 23, 25, 37, 45].
Theo thông tin từ Cục An toàn Vệ sinh Thực phẩm cho thấy tại một số địa phương ở
các tỉnh phía Bắc, nhất là vùng giáp biên giới, người ta còn sử dụng cả chất 2,4D là một loại
thuốc diệt cỏ tẩm ướp trái cây và rau, củ, quả nhằm mục đích bảo quản được lâu. Theo tiến sĩ
Lê Quang Hưng, Trưởng Bộ môn Cây công nghiệp Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí
Minh, chất 2,4D nếu sử dụng liều lượng cao sẽ có công dụng diệt cỏ. Sử dụng nồng độ thấp sẽ
trở thành chất kích thích cực mạnh làm cho củ quả tăng kích thước nhanh bất thường. Ngoài
ra, hoá chất này còn có công dụng diệt côn trùng, vi khuẩn và làm chậm quá trình lão hóa nên
giúp trái cây, rau, củ, quả được tươi lâu [24, 21, 23, 25, 37, 45].
2.1.3. Bánh phở ướp formol [12]
Formol là một chất độc hại cấm dùng trong thực phẩm nhưng qua kiểm tra tại Thành
phố Hồ Chí Minh có 45% mẫu bánh phở, tại Hà Nội có 20% mẫu bánh phở, mì chứa chất độc
hại này. Nếu vào năm 2003, gần như 100% mẫu bánh phở được kiểm tra có chứa formol thì
đến năm 2004 tình trạng này có chiều hướng giảm nhưng đến năm 2005 trong các mẫu bánh
phở được kiểm tra lại tăng lên đến 45% mẫu có chứa formol. Năm 2007 vào những tháng cuối
năm loại hoá chất này lại được tẩm ướp trong bánh phở, hủ tiếu và cả trong một vài mẫu cá
nhưng trong bánh phở là chủ yếu và có xu hướng gia tăng [24, 21, 23, 25, 37, 45].
Theo bà Phạm Kim Phương - Giám đốc Trung tâm Dịch vụ Phân tích thí nghiệm
thành phố Hồ Chí Minh trong số ba mươi lăm mẫu được phân tích thì kết quả có 11 mẫu phát
hiện có formol (chiếm 31,4%) trong khi kết quả phân tích 24 mẫu bánh phở, hủ tiếu trong
quí 1-2006 thì chỉ
phát hiện có một mẫu chứa formol [23].
2.1.4. Thực phẩm khô tẩm ướp hoá chất độc hại

Những con cá khô, những bịch tôm khô đỏ au trông thật rất ấn tượng về mặt chất
lượng cảm quan nhưng nhiều loại thực phẩm khô này lại được tẩm ướp các chất bảo quản độc
hại. Những loại thực phẩm khô này thường được để lâu và đem đi xa nên phải tẩm ướp rất kỹ,
nếu không chỉ vài ngày là hỏng, không bán được. Do các loại cá khô như cá lù đù, cá h

ồng, cá
chỉ vàng, cá mối rất dễ bị kiến đục nên phải xịt thuốc chống kiến. Sau 3 ngày, thuốc bay hơi
Tổng quan tài liệu GVHD: ThS. Vòng Bính Long





SVTH: Trần Thị Hiền Vâng Trang 8
hết nên khi đưa hàng ra chợ, người ta vẫn phải tiếp tục xịt thuốc diệt kiến, nếu hàng càng để
lâu càng phải xịt nhiều thuốc. Mặt hàng tôm khô cũng được tẩm ướp hóa chất khá nhiều, tôm
nguyên liệu mua về được phân loại, loại ngon chế biến riêng, phần còn lại được luộc sơ, lột
vỏ, tẩm ướp gia vị, hóa chất và phẩm màu để tôm săn cứng và màu sắc đẹp mắt [55, 56, 54].
Những loại thủy hải sản trước khi đem đi chế biến đều được xử lý bằng hóa chất nhằm
mục đích khử trùng, tẩy trắng, người ta thường sử dụng clorin, chất này nếu sử dụng nhiều sẽ
để lại mùi hôi khó chịu, dính vào quần áo có thể gây rách. Nếu tôm cá nguyên liệu càng
không bảo đảm chất lượng thì càng bị nhà sản xuất sử dụng nhiều hóa chất, có khi nhà sản
xuất dùng những sản phẩm hóa chất chỉ có tên thương mại nên các ngành chức năng khó kiểm
soát. Để cá khô có lớp da bên ngoài tươi như vừa phơi xong, người ta phun rửa bằng sorbitol
(chất tạo độ ngọt, độ bóng ). Nồng độ sorbitol cho phép là khoảng 3,5 g/kg cá khô [55, 56,
54].
Đối với những cơ sở sản xuất chế biến thủy sản công nghiệp, liều lượng sử dụng được
kiểm soát rất chặt chẽ nên sản phẩm bảo đảm an toàn. Nhưng ở những cơ sở nhỏ, chế biến thủ
công thì việc sử dụng hóa chất rất tùy tiện, không theo đúng quy định, nhiều cơ sở sử dụng
cồn, oxy già, thậm chí cả nước tẩy nền nhà P3 để tẩy cá khô bị nấm mốc, nhất là vào mùa
mưa [55, 56, 54].
2.1.5. Thực phẩm tẩm ướp săm-pết
Nhiều sinh viên, viên chức và những người có thu nhập thấp ăn cơm tại những quán
cơm bình dân, bếp ăn tập thể phải rùng mình, lạnh người khi biết mình đã từng ăn những thức
ăn thơm ngon nhưng trước đó đã nặng mùi ở chợ. Những loại thịt ôi, ế mua từ chợ thịt ế được

những người bán dùng nước muối loãng hoặc một loạ
i hoá chất có màu trắng, hạt mịn như hạt
đường tên là săm-pết (hay còn được gọi là thịt ôi thần dược) giá 10.000 đồng/lạng được biết
là có nguồn gốc từ nước ngoài. Những khách hàng của các chợ thịt ế này tiêu thụ thịt ôi, thịt ế
với số lượng không nhỏ, trung bình khoảng 7-10kg thịt, xương các loại. Sau đó loại thịt này
sẽ được các chủ quán cơm bụi làm cho thịt hế
t mùi hôi bằng cách dùng nước nóng để trần qua
thịt hoặc rửa bằng nước lã pha với muối ăn rồi luộc sơ rồi sử dụng những gia vị ướp thì sau
khi chế biến thịt sẽ có mùi vị thơm ngon như thịt tươi bình thường [39, 40, 41].
Ngoài thịt ôi thì trên thị trường hiện nay nhiều người bán thịt còn sử dụng loại hóa
chất có tên là Săm-pết để giữ thịt tươi lâu, không b
ị mất màu. Để trữ hàng cho cả tuần, những
người bán không có tủ đá hoặc không muốn dùng tủ đá sợ thịt bị biến màu đã sử dụng săm-
Tổng quan tài liệu GVHD: ThS. Vòng Bính Long





SVTH: Trần Thị Hiền Vâng Trang 9
pết. Những người bán này dùng vài thìa canh săm-pết pha với nước lã, phết lên mặt ngoài của
thịt, để trong kho thoáng mát, đảm bảo giữ màu, không ôi, không bốc mùi lạ.
Không chỉ thịt bò, lợn, gà, hàng tươi sống như tôm, cá, mực cũng được các bà hàng
ngâm săm-pết để chống thối qua đêm. Nhất là những ngày đầu năm sau dịp tết, khi mà nhà
nhà đã ăn nhiều thịt đến mức ngấy ngán thịt nên thay đổi món bằng các loại thuỷ hải sản [39,
40, 41]. Loại hoá chất dạng bột, màu trắng được gọi là săm-pết này potassium nitrat, tên của
loại hóa chất này trên thị trường là do đọc chệch đi của từ salpêtre (tiếng Pháp) hay sanpet
(hoặc saltpetre, salt peter theo tiếng Anh), trong dân gian hóa chất này thường được nói đến
với tên gọi là diêm tiêu hay diêm sinh trắng. Nó là hoá chất tan trong nước và có khả năng hút
ẩm, thường được dùng cho các mục đích công nghiệp như sản xuất thuốc súng, kíp nổ, pháo

hoa, diêm và sử dụng trong luyện kim. Ngoài ra nó còn được sử dụng phân bón trong nông
nghiệp [39, 40, 41].
2.2. Phụ gia bảo quản thực phẩm
Phụ gia thực phẩm là những chất không được coi là thực phẩm hoặc một thành phần của
thực phẩm. Phụ gia thực phẩm ít hoặc không có giá trị dinh dưỡng, được chủ động cho vào
với mục đích đáp ứng yêu cầu công nghệ trong quá trình sản xuất, chế biến, xử lý, bao gói,
vận chuyển, bảo quản thực phẩm. Phụ gia thực phẩm không bao gồm các chất ô nhiễm hoặc
các chất bổ sung vào thực phẩm [15].
Chất phụ gia cũng có thể là các vitamin, khoáng chất, acid amin, acid béo không thay thế
được người ta thêm vào thực phẩm để cải thiện tính chất dinh dưỡng của thực phẩm. Chất phụ
gia có thể có nguồn gốc thiên nhiên, hay được tổng hợp hoặc bán tổng hợp hóa học
như bicarbonate de sodium , đôi khi chúng c
ũng được tổng hợp từ vi sinh vật , chẳng hạn như
các loại enzymes dùng để sản xuất yogurt (sữa chua lên men) [62].
Phụ gia thực phẩm được sử dụng với một lượng nhỏ trong giới hạn an toàn cho sức khoẻ
theo một giới hạn tối đa cho phép đã được quy định và tồn tại trong thực phẩm. Phụ gia thực
phẩm có vai trò công nghệ là cải thiện quy trình; tăng chất lượng sản phẩm thực phẩm, tăng
giá trị cảm quan, đa dạng hoá sản phẩm, tăng thời gian bảo quản sản phẩm [4].
Do phụ gia thực phẩm có tác dụng kéo dài thời gian bảo quản nên giúp tăng hiệu quả kinh
tế rất lớn vì vậy phụ gia rất cần thiết cho sản xuất công nghiệp. Khi cho phụ gia trong quá
trình sản xuất chế biến thực phẩm, sản phẩm làm ra sẽ
đạt yêu cầu về cấu trúc, độ dai, độ dòn
và màu sắc, mùi vị để hấp dẫn người tiêu thụ. Nhờ tác dụng của các phụ gia thực phẩm mà
Tổng quan tài liệu GVHD: ThS. Vòng Bính Long





SVTH: Trần Thị Hiền Vâng Trang 10

trong thời gian bảo quản bánh mì không bị lên mốc, bánh bích qui, khoai tây chiên,… vẫn giữ
được độ dòn; củ kiệu được trắng, bóng đẹp và dòn; nem, lạp xưởng, thịt muối, xúc xích, thịt
xông khói, dăm bông,…có màu đỏ hồng tươi thật hấp dẫn, dầu ăn và bơ không bị ôi do quá
trình oxi hoá [62].
2.2.1. Các loại phụ gia sử dụng trong thực phẩm
Phụ gia thực phẩm được phân loại theo nguồn gốc hoặc tính năng kĩ thuật. Nếu theo
nguồn gốc thì phụ gia được phân loại thành bốn loại gồm phụ gia tự nhiên, phụ gia biến đổi từ
hợp chất tự nhiên, phụ gia giống tự nhiên, phụ gia tổng hợp. Còn nếu theo tính năng kĩ thuật
thì phụ gia được chia thành ba loại gồm phụ gia bảo quản, phụ gia làm cải thiện tính chất cảm
quan, phụ gia cải thiện tính chất dinh dưỡng [1].
2.2.1.1. Các loại phụ gia theo nguồn gốc
Phụ gia tự nhiên là các chất phụ gia có nguồn gốc tự nhiên, được chiết xuất từ những
thành phần nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên, chủ yếu là từ thực vật như màu beta-caroten
được khai thác từ trái gấc và hạt điều. Phụ gia tự nhiên là nhóm phụ gia có tính an toàn như
thực phẩm do được chiết xuất từ thực phẩm nên được người tiêu dùng ưa chuộng, tuy nhiên
nhược điểm của loại phụ gia này là đắt tiền và có hoạt tính không cao nên ít được dùng trong
sản xuất công nghiệp [1].
Phụ gia được biến đổi từ hợp chất tự nhiên như màu caramen là phụ gia tạo màu được tạo
thành từ đường saccharose nấu cháy có bổ sung hoá chất. Nhóm phụ gia này lại có nhược
điểm là độ an toàn thấp do có xảy ra các biến đổi hoá học khi sản xuất.
Phụ gia giống tự nhiên là loại phụ gia có cấu tạo giống với các hợp chất có trong tự nhiên
nhưng không phải được khai thác từ nguồn nguyên liệu tự nhiên mà được tổng hợp bằng
phương pháp hoá học hoặc sinh học. Vitamin C và acid amin là hai phụ gia thực phẩm thuộc
nhóm phụ gia giống tự nhiên, vitamin C không trích ly từ cam hoặc bưởi mà được tổng hợp
hoá học, acid amin được tổng hợp sinh học để bổ sung vào thực phẩm chứ không lấy trực tiếp
từ thực phẩm. Nhóm phụ gia này có nguy cơ gây độc do trong quá trình tổng hợp sẽ sinh ra
các sản phẩm phụ từ các phản ứng sinh hoá nhưng chúng lại không được tách hết ra .
Phụ gia tổng hợp là nhóm phụ gia do các phản ứng tổng hợp hoá học tạo thành và có cấu
tạo hoá học không giống với các hợp chất có sẵn trong tự nhiên nhưng tính năng kỹ thuật lại
có thể giống. Sunset yellow là loại màu tổng hợp có màu giống với màu beta caroten được

tổng hợp từ phản ứng hoá học dùng để tạo màu vàng cam cho kẹo. Nhóm phụ gia này có tính
Tổng quan tài liệu GVHD: ThS. Vòng Bính Long





SVTH: Trần Thị Hiền Vâng Trang 11
nguy hiểm cao do không có nguồn gốc tự nhiên và cần được kiểm chứng về mức độ an toàn
khi sử dụng cho thực phẩm [1].
2.2.1.2. Các loại phụ gia theo tính năng
Nhóm phụ gia bảo quản có vai trò đảm bảo chất lượng dinh dưỡng, an toàn vệ sinh và tính
chất cảm quan của thực phẩm. Nhóm phụ gia bảo quản rất cần thiết cho quá trình sản xuất,
nhóm phụ gia bảo quản bao gồm các loại phụ gia bảo quản chống vi sinh vật, chống oxi hoá,
chống sẫm màu [4].
Phụ gia bảo quản chống vi sinh vật có tác dụng ngăn ngừa sự phát triển của các vi sinh vật
gồm nấm men, nấm mốc và vi khuẩn. Phụ gia bảo quản chống vi sinh vật giúp kéo dài thời
gian bảo quản của các loại thực phẩm. Phụ gia bảo quản chống oxi hoá có tác dụng ngăn chặn
quá trình oxi hoá các thành phần của sản phẩm thực phẩm bao gồm chất béo, vitamin, các
hoạt chất sinh học [4].
Phụ gia bảo quản chống sẫm màu có tác dụng ngăn chặn phản ứng sinh màu bởi tác dụng
xúc tác của các enzyme polyphenoloxidase. Đồng thời phụ gia chống sẫm màu có tác dụng
ngăn chặn phản ứng sinh màu bởi tác nhân không phải enzyme như phản ứng Maillard cũng
có thể gây sẫm màu thực phẩm. Nhóm phụ gia làm cải thiện tính chất cảm quan thực phẩm
bao gồm phụ gia tạo cấu trúc như lecithin, sorbitol, muối polyphosphate, tinh bột biến tính,…;
phụ gia tạo mùi, tạo vị và phụ gia tạo màu. Nhóm phụ gia tạo cấu trúc được chia thành các
loại khác nhau theo chức năng bao gồm phụ gia tạo nhũ, tạo gel, tạo bọt, tạo xốp, làm đặc
[1,4].
Phụ gia tạo mùi vị gồm ba nhóm phụ gia tạo vị ngọt, chất tăng vị, mùi tự nhiên và mùi
nhân tạo. Các phụ gia tạo vị ngọt được sử dụng phổ biến nhất là saccharose, glucose, frutose

và lactose. Những chất tạo vị này được xếp loại là thực phẩm hơn là phụ gia có tác dụng tạo
độ ngọt và là chất không tạo năng lượng hoặc tạo ít năng lượng như saccharin và aspatame.
Có hơn 1700 hợp chất tự nhiên và tổng hợp được sử dụng làm phụ gia để tạo hương vị cho
các loại thực phẩm. Hầu hết phụ gia được sử dụng trong sản xuất chế biến thực phẩm đều là
hỗn hợp của nhiều hoá chất và được dùng thay thế cho các hương vị tự nhiên. Chất tạo hương
vị cũng là hỗn hợp các chất cung cấp hương vị một cách tự nhiên. Phụ gia tăng vị hay còn gọi
là chất điều vị là các chất làm tăng vị hay bổ sung thêm vị của thực phẩm mà chính phụ gia
này không đóng góp một vị nào. Nhóm phụ gia tăng vị này bao gồm những chất như acid
citric, acid tartric, acid lactic, bột ngọt và các nucleotide khác nhau thường được sử dụng
Tổng quan tài liệu GVHD: ThS. Vòng Bính Long





SVTH: Trần Thị Hiền Vâng Trang 12
trong thực phẩm có định hướng hay trong súp để làm tăng sự nhận biết về các vị khác nhau
[4].
Nhóm phụ gia tạo gel, làm đặc cho sản phẩm thực phẩm nằm trong nhóm hydrocolloid là
các polymer có nguồn gốc thực vật và động vật gồm gum arabic, gum karaya, gum ghatti,
gum tragacanth, tinh bột, pectin, guar gum, locust bean gum, tara gum, tamarind gum, konjac
mannan, agar, carrageenan, alginate, gelatin, xanthan gum, curdlan, dextran, gellan gum,
Hydrocolloid là các polymer tan trong nước như polysaccharide và protein hiện đang được sử
dụng rộng rãi trong công nghiệp với rất nhiều chức năng như tạo đặc hay tạo gel hệ lỏng, ổn
định hệ bọt, nhũ tương và huyền phù, ngăn cản sự hình thành tinh thể đá và đường,…. [53].
Nhóm phụ gia tạo nhũ gồm các chất tạo nhũ tự nhiên như lecithin; các mono, diglyceride
và các dẫn xuất tổng hợp. Các phụ gia này có tác dụng tạo sự phân tán đều gia vị và các chất
béo trong thực phẩm [4].
Nhóm phụ gia tạo bọt và tạo xốp được sử dụng trong sản xuất các loại bánh nướng. Nhóm
phụ gia này có tác dụng cải thiện tính chất công nghệ của bột làm bánh và tạo độ xốp cho sản

phẩm nhờ khả năng tạo thành khí CO
2
[1]
Nhóm phụ gia tạo màu cho thực phẩm được sử dụng để cải thiện tính chất cảm quan của
thực phẩm. Một lượng lớn các chất phụ gia tự nhiên và tổng hợp được sử dụng trong quá trình
chế biến thục phẩm. Sodium nitrit cũng là một loại phụ gia tạo màu có tác dụng giữ màu đỏ
đặc trưng của thịt ngoài tác dụng chống vi sinh vật [4].
2.2.2. Một số phụ gia th
ường sử dụng trong bảo quản thực phẩm
2.2.2.1. Nhóm sulfit

Nhóm sulfit gồm sulfit (SO
2
)và các muối sodium hay potassium sulfit, bisulfit,
metabisulfit như sodium sulfit (Na
2
SO
3
), sodium metabisulfit (Na
2
S
2
O
5
), sodium bisulfit
(NaHSO
3
), được sử dụng trong công nghệ chế biến trái cây, rượu, nước chanh, mật rỉ đường
[4, 64].
Nhóm sulfit được dùng làm chất chống vi sinh vật nhất là trong môi trường axid do rất

dễ tan trong nước, có tác dụng chống vi khuẩn, nấm men và nấm mốc rất hiệu quả. Nhóm này
có khả năng gây ức chế Clostridium botulium và ức chế Samonella, Enterobacteriaceae với
liều lượng 15-109 ppm ở pH 7,0. Ở Mỹ các hoá chất này được cho phép sử dụng trong bảo
quản cá, thịt nhưng ở các nước khác lại không cho phép [4, 37, 38].
Tổng quan tài liệu GVHD: ThS. Vòng Bính Long





SVTH: Trần Thị Hiền Vâng Trang 13
SO
2
có khả năng kết hợp với hemoglobin cho màu đỏ bền vững. Trong cơ thể sulfit
oxy hóa thành sulfat, bisulfit tác dụng với nhóm aldehyd và cetôn của đường, phản ứng có
tính thuận nghịch. Chính vì vậy nó có tác dụng che giấu sự hư hỏng của thịt [37, 38, 61].
Sulfit có khả năng giữ cho trái cây tươi sau khi cắt và ngăn chặn sự biến màu của quả
mơ, nho khô, và một số loại quả khô khác. Nó còn có tác dụng ngăn chặn hiện tượng hình
thành đốm đen trên tôm sau khi đánh bắt [4, 62, 63].
Nhóm này theo khuyến cáo không được sử dụng để bảo quản thịt, cá do chúng có khả
năng phá huỷ vitamin B
1
, gây bệnh hen suyễn hoặc dị ứng nghiêm trọng đối với cơ thể người
với liều lượng từ 100ppm SO
2
trở lên [64, 62, 4] .
2.2.2.2. Nhóm muối nitrit, nitrat
* Tác dụng của nitrit, nitrat
Nhóm muối nitrit, nitrat bao gồm các muối nitrit là KNO
2

(nitrit potassium) và NaNO
2
(nitrit sodium) các

muối nitrat là KNO
3
(nitrat potassium) và NaNO
3
(nitrat sodium) còn được
gọi muối diêm hay diêm tiêu. Potassium nitrit dùng trong thực phẩm chứa 85% KNO
2
còn lại
là KNO
3
[62, 64, 61, 4].
Các muối này rất dễ tan trong nước được dùng làm chất sát khuẩn và giữ màu đỏ hồng
đặc trưng của thịt tươi. Nitrit có hoạt tính diệt khuẩn mạnh trong điều kiện yếm khí hoặc trong
môi trường acid. Nhóm nitrit, nitrat này có tác dụng ức chế rất mạnh đối với vi khuẩn đường
ruột. Nhóm có tác dụng ức chế Clostridium botulium và sự tạo thành độc tố [4, 64, 62].
Trong quá trình bảo quản thịt, nitrit làm chậm quá trình hình thành của botulinal toxin
một độc tố làm hư hỏng thịt, làm gia tăng màu sắc và hương vị của thịt ướp, làm chậm quá
trình ôi, trở mùi, mất mùi của sản phẩm thịt. Thường thì ngoài nitrit, người ta còn ướp thêm
muối, và sau đó là đường để làm dịu đi vị mặn của muối và nitrit [64, 62, 38, 37, 35].
Trong lĩnh vực thực phẩm, các muối này được dùng để bảo quản và chế biến thịt. Các
muối nitrit sodium, potassium hay nitrat sodium, potassium thường được sử dụng để xử lý,
ướp thịt làm dăm bông, xúc xích, lạp xưởng, nem, thịt xông khói, thịt muối, Theo quy định
danh mục các chất phụ gia được phép sử dụng trong thực phẩm của Bộ Y tế Việt Nam, nitrat
sodiumvà nitrat potassium được xếp vào nhóm chất bảo quản có chức năng ổn định màu,
được dùng trong pho mát, nước giải khát, các loại thịt, thịt gia cầm, thủy sản chế biến [62,
64, 65, 66].

Tổng quan tài liệu GVHD: ThS. Vòng Bính Long





SVTH: Trần Thị Hiền Vâng Trang 14
Myoglobin là loại huyết sắc tố của thịt có chứa ion Fe
2+
, loại huyết sắc tố này khi kết
hợp với oxy không khí sẽ tạo thành hợp chất oxymyoglobin làm cho thịt có màu đỏ hồng tự
nhiên như lúc mới giết mổ. Màu đỏ tự nhiên này của thịt sẽ bị mất đi nếu thịt để lâu ngoài
không khí hay khi thịt được gia nhiệt do myoglobin lúc này đã bị biến đổi thành hợp chất
metmyoglobin có màu nâu đỏ. Do quá trình oxy hoá ion Fe
2+
(màu đỏ tươi) thành ion Fe
3+
(màu đỏ nâu) rất dễ xảy ra nên thịt tươi rất dễ bị mất màu sau khi giết mổ nếu không sử dụng
phụ gia [8, 10, 4].
Trong sản xuất xúc xích để tạo màu cho sản phẩm các muối nitrat sẽ qua một chuỗi
phản ứng xảy ra dưới tác dụng của các vi khuẩn chuyển hoá nitrat thành nitrit. Sau đó muối
nitrit được chuyển hoá thành NO kết hợp với myoglobin tạo thành hợp chất nitroso-
myoglobin rất bền vững ngăn cản được quá trình oxy hoá, lúc này thịt có màu đỏ sậm như
màu của lạp xưởng. Màu đỏ sậm này sẽ biến thành màu hồng nhạt đặc trưng khi gia nhiệt
trong quá trình chế biến thịt [10, 35, 37, 66, 65].
• Độc tính của nitrit, nitrat
Theo một nghiên cứu cho FDA (Cơ quan Thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ) năm 1972
của Phòng thí nghiệm Battele-Columbus, liều lượng potassium nitrat gây tử vong đối với
người lớn là 30 - 35 g, của sodium nitrit là 22 - 23 mg/kg thể trọng. Liều lượng thấp hơn có
thể gây chứng methemoglobinemia cấp tính làm tím tái [62, 64, 65, 66, 35].

Độc tính của nitrit, nitrat là do các hemoglobin của người liên kết với NO tạo thành
hợp chất metmyoglobin bền hơn liên kết với oxy nên dẫn đến việc hemoglobin mất khả năng
vận chuyển oxy làm cho tế bào thiếu oxy, 1g sodium nitrit có thể chuyển 1855g hemoglobin
thành metmyoglobin. Nếu ngộ độc thực phẩm sử dụng nitrat, nitrit với liều lượng cao có thể
dẫn đến tử vong tương tự như khi bị ngạt thở [66, 65, 35].
Lượng nitrat nitrit theo nghiên cứu khoảng 1 - 2 g/lần có thể gây độc chết người. Khi
thâm nhập vào cơ thể theo đường tiêu hóa, nitrit có thể làm viêm tấy miệng, thực quản, dạ
dày. Lượng nitrat nitrit dư thừa không được đào thải có thể làm ảnh hưởng đến máu và mạch
máu. Dấu hiệu ngộ độc nitrit gồm: tím tái, buồn nôn, choáng, ói mửa, ngất, đau bụng co thắt,
tim đập nhanh, nhịp thở bất bình thường, hôn mê, co giật và chết vì tuần hoàn máu bị suy sụp.
Liều lượng sử dụng tùy vào từng loại sản phẩm có thể từ 50 - 150 mg/kg sản phẩm.
Lượng phụ gia nitrit, nitrat được sử dụng không được quá 200 ppm (nồng độ phần triệ
u), tính
theo sodium nitrit trong thành phẩm [4, 66,65, 10, 15].
Tổng quan tài liệu GVHD: ThS. Vòng Bính Long





SVTH: Trần Thị Hiền Vâng Trang 15
Ngày 15/6/1978, USDA thay đổi quy trình chế biến thịt nhồi và cấm dùng nitrat
sodium và nitrat potassium; hàm lượng sodium nitrit dùng là 120 ppm hoặc 148 ppm
potassium nitrit có bổ sung thêm acid ascorbic để ngăn quá trình tạo thành chất nitrosamin
Trong danh mục cho phép sử dụng trong thực phẩm của Việt Nam hiện nay vẫn còn có nitrat
potassium [35, 37, 66].
Sử dụng nitrat nitrit trong thực phẩm có khả năng gây ung thư do nitrit kết hợp với các
acid amin tạo thành hợp chất nitrosamin là một chất gây ung thư. Theo quy định của EU năm
2004 thì nitrat nitrit được cho phép sử dụng trong các sản phẩm thịt chế biến không qua xử lý
nhiệt đồng thời liều lượng sử dụng không được vượt quá 50ppm đối với thịt chế biến và thịt

sấy khô [4].
2.2.2.3. Hàn the và phân đạm
* Phân đạm:
Ure là một loại phân đạm, còn gọi là phân lạnh vì khi pha trong nước sẽ làm nước trở
nên rất lạnh như nước đá . Khả năng làm lạnh của ure được những người buôn bán áp dụng để
ướp thịt và cá cho tươi lâu. Ure để ướp được bán chung trong một hỗn hợp gồm có ure trộn
chung với hàn the , bột và muối . Người dân đánh cá mang ure theo dùng để thay thế nước đá,
vừa tiện và vừa rẻ. Các loại cá tôm mực đánh bắt được sau khi mang về bãi, trước khi giao
cho thương buôn lại được ướp ure thêm và thêm nhiều lần nữa cho đến khi tới tay người tiêu
thụ. Do đó, ure ngấm vào thịt tôm cá rất nhiều. Trong sản xuất nước mắm hoá chất ure còn
được cho thêm vào nước mắm để tăng độ đạm sau đó cho thêm muối và nước rồi pha loãng
thêm để đạt lợi nhuận cao [70, 68, 66, 41, 35].
Khi thâm nhập vào cơ thể con người, thành phần amoni trong loại phân đạ
m này sẽ
ngăn cản quá trình vận chuyển oxy trong máu, gây ra hiện tượng da và niêm mạc của người bị
ngộ độc trở nên thâm tím, gần như đen bầm. Hiện tượng này biểu hiện rõ nhất ở môi, mũi, tai
cùng các đầu ngón tay và ngón chân [70, 68, 66, 41, 35] .
*Hàn the

Hàn the hay borac là tên thương mại của hóa chất sodium tetra borate decahydrate, có
công thức là Na2B
4
O
7
.10H
2
O, nó là một loại bột trắng dễ hòa tan trong nước. Ngoài tính chất
dễ tan trong nước, hàn the còn có khả năng ngậm nước để được bảo hòa với 12 phân tử nước
nên hàn the có tính hút ẩm. Hàn the là hoá chất được nói đến nhiều nhất trong bảo quản chế
biến thực phẩm. Những loại thực phẩm như thịt nguội, nem chua, chả lụa, bánh tráng, bánh

Tổng quan tài liệu GVHD: ThS. Vòng Bính Long





SVTH: Trần Thị Hiền Vâng Trang 16
xèo, bánh phở… phải bổ sung thêm hàn the mới ngon, dòn, dai, thịt thì trông tươi hơn [21,23,
24, 25, 26, 27, 35] .
Hàn the là hoá chất có tính sát trùng, thường được dùng để pha thuốc súc miệng, thuốc
đánh răng, thuốc mỡ chống nấm trên da Trong sản xuất bột giặt, borax được dùng như một
chất phụ gia để chống ẩm và giúp bột giặt không bị đóng cục do bị ẩm. Để thay thế hàn the
theo các nghiên cứu có thể sử dụng những chất phụ gia an toàn hơn có khả năng thay thế hàn
the như các muối polyphosphate , chitosan, [21,23, 24, 25, 26, 27, 35] .
Trong những năm 80 hàn the được sử dụng như một chất phụ gia bảo quản các loại
thực phẩm như thịt, xúc xích, tôm cua, cá… Với tính chất háo nước làm cứng và dẻo dai các
mắc xích peptid, polymer trong thực phẩm, nó còn làm tăng tính cảm quan: dòn, dai, giữ độ
tươi lâu cho thực phẩm [21,23, 24, 25, 26, 27, 35].
Theo danh mục tiêu chuẩn vệ sinh đối với lương thực thực phẩm của Bộ Y tế Việt
Nam ban hành kèm theo quyết định số 867/1998/QĐ.BYT ngày 4/4/1998 thì hàn the là chất
phụ gia thuộc nhóm tạo cấu trúc cho thực phẩm. Nhưng hiện nay, hàn the là loại phụ gia thực
phẩm đã bị cấm sử dụng trong thực phẩm với bất cứ hàm lượng nào và cách thức nào. Những
nghiên cứu về sau đã chỉ ra hàn the là một chất độc có tính chất tích luỹ từ từ lâu dài và tính
ức chế dần dần nhiều quá trình trong sự phát triển và hoạt động bình thường của các men và
các dịch tiêu hoá của cơ thể động vật và con người từ đó làm giảm khả năng hấp thụ chất dinh
dưỡng của thành ruột non và dạ dầy [21,23, 24, 25, 26, 27, 35].
Nếu dùng thực phẩm có hàn the lâu ngày, thì tác hại này sẽ tăng dần và cuối cùng dẫn
đến sự phát triển chậm của trẻ em trong tuổi trưởng thành. Do tính tích luỹ gây tổn thương
gan, thận của hàn the nên t
ừ sau thập niên 80 nhiều nước đã loại hàn the ra khỏi danh mục

phụ gia thực phẩm. Khi tiếp xúc nếu hàn the xâm nhập vào cơ thể theo đường tiêu hoá, cơ thể
sẽ cảm thấy khó chịu như bị dị ứng và có thể đưa đến tử vong với một liều lượng lớn. Nếu
hàn the xâm nhập vào cơ thể qua đường hô hấp, qua da hoặc mắt thì cơ thể cũng có phản ứng
tương tự như qua đường tiêu hoá nhưng ở mức độ nhẹ hơn [21,23, 24, 25, 26, 27, 35].
Tùy theo liều lượng hàn the xâm nhập vào người mà các triệu chứng phản ứng cấp
tính của cơ thể sẽ diễn biến từ nhẹ đến nặng từ nhức đầu, cơ thể bải hoải đến mạch tim đập
nhanh, áp suất máu giảm và có thể bị phong giựt dẫn đến bất tỉnh. Nếu cơ thể con người bị
nhiễm độc hàn the trong thời gian dài thì người sẽ có cảm giác bị trầm cảm và đối với phụ nữ
Tổng quan tài liệu GVHD: ThS. Vòng Bính Long





SVTH: Trần Thị Hiền Vâng Trang 17
có thể gây hiếm muộn vì hóa chất này làm giảm thiểu thời kỳ rụng trứng [21,23, 24, 25, 26,
27, 35].
2.2.2.4. Chitosan
* Tính chất và đặc điểm của chitosan
Chitosan là một polysaccarid có chứa đạm và có nguồn gốc từ thiên nhiên dùng an
toàn cho con người trong lĩnh vực thực phẩm và dược phẩm. Chitosan có tính hoà hợp sinh
học cao với cơ thể, có khả năng tự phân huỷ sinh học. Chitosan được tách chiết và biến tính từ
vỏ của các loài giáp xác như tôm, cua, hến, trai, sò, mai mực, đỉa biển,…; màng tế bao nấm
thuộc họ zygenmyctes, các sinh khối nấm mốc và một số loài tảo [6, 30, 32, 20, 21, 22, 29].
Chitosan là một chất rắn, xốp, nhẹ, hình vảy, có thể xay nhỏ thành các kích cỡ khác
nhau, có màu trắng hoặc màu vàng nhạt nhưng không có mùi vị. Chitosan không tan được
trong nước, dung dịch kiềm và acid đậm đặc nhưng tan được trong dung dịch acid loãng, tạo
thành dung dịch keo trong [6, 30, 32, 20, 21, 22, 29].
Chitosan có khả năng hút nước, giữ ẩm, tạo cấu trúc, tạo màng tốt, có nhiệt độ nóng
chảy từ 309

o
C – 311
o
C. Chitosan có khả năng tích điện dương nên nó có khả năng kết hợp
với những chất tích điện âm như chất béo, lipid và acid mật. Ở pH trong khoảng từ 6-6,5
chitosan bắt đầu bị kết tủa và chính nhờ đặc điểm này mà chitosan được ứng dụng trong
những sản phẩm thực phẩm chức năng [6, 30, 32, 20, 21, 22, 29].
Chitosan có tính kháng khuẩn và kháng nấm. Chitosan có khả năng ức chế hoạt động
củ
a một số loại vi khuẩn như E.Coli, Staphilococus aureus, Listeria monocytogenes
Chitosan diệt được một số loại nấm hại dâu tây, cà rốt, đậu và có tác dụng tốt trong bảo quản
những loại rau quả có lớp vỏ cứng bên ngoài [6, 19, 30, 32, 20, 21, 22, 29, 34] .
Chitosan là một dạng của chitin bị khử acetyl (là sản phẩm deacetyl hóa của chitin).
Quá trình deacetyl hóa bao gồm quá trình loại nhóm acetyl khỏi chuỗi phân tử chitin và hình
thành phân tử chitosan. Mức độ acetyl hóa là một đặc tính quan trọng của quá trình sản xuất
chitosan bởi vì nó ảnh hưởng đến tính chất hóa lý và khả năng ứng dụng của chitosan. Mức độ
acetyl hóa của chitosan vào khoảng 56%-99% phụ thuộc vào loài giáp xác và phương pháp
sử dụng [6, 19, 30, 32, 20, 21, 22, 29].
Trong các loài nhuyễn thể, giáp xác và côn trùng thì chitin nó là thành phần cấu tạo
chính của lớp vỏ ngoài nên hàm lượng chitin chiếm khá cao trong vỏ của chúng. Hàm lượng
Tổng quan tài liệu GVHD: ThS. Vòng Bính Long





SVTH: Trần Thị Hiền Vâng Trang 18
của chitin trong vỏ của các loài giáp xác như tôm, cua và ghẹ dao động từ 14% - 35% tính
theo trọng lượng khô. Vì vậy lớp vỏ ngoài của các giáp xác này là nguồn nguyên liệu chính để
thu nhận chitin và chitosan. [6, 19, 30, 32, 20, 21, 22, 29].






Hình 2.1. Thu nhận chitin-chitosan từ thuỷ sản.
Khi chế biến những loại thuỷ sản giáp xác, lượng chất thải chiếm tới 50% tính trên
khối lượng nguyên liệu đầu vào và con số này tính trên toàn thế giới là 5,ll triệu tấn/năm. Vì
chitin phân hủy sinh học rất chậm nên việc xử lý một lượng chất thải lớn như thế là một vấn
đề gặp nhiều khó khăn. Còn ở nước ta trong những năm gần đây xuất khẩu thủy sản đóng vai
trò quan trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhưng lượng phế liệu thải ra từ các nhà máy
chế biến thủy sản lên tới 2.257 tấn/năm. Lượng phế thải này nếu không có biện pháp xử lý
thích hợp sẽ gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Khi tận dụng lượng phế thải này để thu
nhận chitin và chitosan không những nâng cao được hiệu quả chế biến thuỷ sản mà còn giải
quyết được vấn đề ô nhiễm môi trường [6, 19, 30, 32, 20, 21, 22, 29].
* Một số ứng dụng của chitosan
Chitosan có ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như: y học, xử lý nước thải, công
nghiệp nhuộm, giấy, mỹ phẩm, thực phẩm Trong công nghệ chế biến thịt, cá chitosan là một
loại phụ gia tạo cấu trúc bên cạnh các muối polyphosphate, sorbitol, gluten, tinh bột biến
tính,… Chitosan sử dụng trong các sản phẩm từ thịt như giò, chả, thịt hộp, nem chua,…để tạo
độ dai dòn. Chitosan còn được sử dụng trong các loại bánh như bánh mì, bánh quy, bánh gatô
kem,…; trong các thực phẩm từ bột như bún, bánh cuốn, bánh phở, bánh đa nem,…; trong
nước giải khát, kem, sữa chua. Chitosan còn được dùng làm vỏ bọc thay thế trong các sản
phẩm thịt nguội như xúc xích, lạp xưởng, [6, 12, 19, 30, 32, 20, 21, 22, 29]
Màng chitosan được ứng dụng nhiều trong bảo quản thực phẩm đặc biệt là rau quả sau
thu hoạch. Màng chitosan có tính chất dai, khó xé rách và có độ bền tương đương với một số
chất dẻo vẫn đượ
c dùng làm bao gói. Màng chitosan có tác dụng làm chậm quá trình bị thâm
Tổng quan tài liệu GVHD: ThS. Vòng Bính Long






SVTH: Trần Thị Hiền Vâng Trang 19
của rau quả. Rau quả sau khi thu hoạch sẽ dần dần bị thâm do quá trình lên men tạo ra các sản
phẩm polymer hóa của oquinon. Khi rau quả được bao gói bằng màng chitosan mà ức chế
được hoạt tính oxy hóa của các polyphenol, làm thành phần của anthocyanin, flavonoid và
tổng lượng các hợp chất phenol ít bị biến đổi, giữ cho rau quả được tươi lâu hơn. Màng
chitosan có ưu điểm là có thể dễ dàng điều chỉnh độ ẩm, độ thoáng không khí cho thực phẩm
bảo quản so với màng PE. Trong thực tế người ta đã dùng loại màng bao từ chitosan để đựng
và bảo quản các loại rau quả như đào, dưa chuột, táo, chuối, xoài, quả kiwi v.v [30, 32, 12].
Màng chitosan được tạo thành theo phương pháp nghiền nhỏ chitosan bằng máy nhằm
gia tăng bề mặt tiếp xúc để pha dung dịch chitosan nồng độ 3% trong dung dịch acid acetid
nồng độ 1,5%, sau đó bổ sung các chất phụ gia etylen glycol (EG) và polyetylen glycol (PEG)
10% theo tỷ lệ PEG:EG là1:1 vào trộn đều, để yên một lúc để loại bọt khí. Dung dịch
chitosan 3% sau khi bổ sung phụ gia và loại bọt khí sẽ được đem quét đều lên bề mặt của một
ống inox, ống inox này đã được nung nóng ở nhiệt độ 64-65
0
C bằng hơi nước. Sau khi quét
dung dịch lên ống inox sẽ để khô màng trong vòng 35 phút rồi tách màng. Màng chitosan thu
được là một lớp vỏ bóng có màu trắng ngà, không mùi vị trên bề mặt ống inox đó chính là lớp
màng chitosan có những tính năng mới ưu việt [19, 30, 32, 20, 21, 22, 29].
+Ứng dụng của chitosan trong thực phẩm
 Ứng dụng của chitosan trong sản xuất giò lụa và bánh cuốn:
Nhóm nghiên cứu Đào Tố Quyên, Nguyễn Thị Lâm, Hà Thị Anh Đào và các cộng sự
Viện Dinh dưỡng đã nghiên cứu thử nghiệm dùng chitosan làm phụ gia thay thế hàn the trong
sản xuất giò lụa . Đề tài nghiên cứu này đã khẳng định là có thể sử dụng chitosan để thay thế
cho hàn the trong sản xuất các loại giò chả, bánh susê, bánh cuốn [57, 53].







Hình 2.2. Sản phẩm giò lụa.
Tổng quan tài liệu GVHD: ThS. Vòng Bính Long





SVTH: Trần Thị Hiền Vâng Trang 20
Từ kết quả thu được nhóm thực hiện đề tài trên đi đến kết luận chitosan là chất phụ
gia bảo quản tốt cho sản phẩm giò lụa và bánh cuốn ở nhiệt độ phòng và bảo quản tốt đến
thời gian 26 ngày ở nhiệt độ T= 8
o
C. Lượng chitosan được dùng tốt nhất cho sản xuất giò
lụa là 2,5g/kg thịt và được đưa vào ở giai đoạn xay nhuyễn cùng với muối và gia vị trước khi
cho nước mắm của quy trình sản xuất giò truyền thống. Đối với bánh cuốn thì lượng chitosan
được dùng tốt nhất là 24g dung dịch 3,5% cho 1kg bột nước và được đưa vào ở giai đoạn
trước khi tráng bánh. Sản phẩm giò và bánh cuốn có phụ gia chitosan được nhà sản xuất chấp
nhận sự ổn định với thịt lợn ở 1-2 giờ sau khi mổ và giá thành phù hợp với an toàn sức khoẻ.
Sản phẩm giò có phụ gia chitosan được người tiêu dùng chấp nhận về tính cảm quan và vì an
toàn sức khoẻ họ vẫn chấp nhận giá thành cao hơn giò có hàn the 1.000-5.000 đồng [57, 53] .
 Ứng dụng của chitosan trong công nghệ sản xuất xúc xích:
Những sản phẩm vỏ bọc xúc xích từ chitosan đầu tiên do các nhà khoa học trường Đại
học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh tạo ra có chiều dài 460mm, đường kính 25mm. Hỗn
hợp nguyên liệu xúc xích vào những vỏ bọc này bằng thiết bị máy nhồi quay tay. Sau khi nhồi
hỗn hợp nguyên liệu vào vỏ bọc sẽ được buộc hai đầu lại để tạo hình cho xúc xích. Những vỏ

bọc làm từ màng chitosan này không bị nứt khi nhồi mà bám sát vào nguyên liệu bên trong
tạo thành sản phẩm xúc xích đạt yêu cầu về cảm quan. Lớp vỏ bọc từ màng chitosan còn có
tác dụng không làm mất màu và mùi đặc trưng của sản phẩm xúc xích [19, 20, 21, 22].
 Ứng dụng của chitosan trong bảo quản thuỷ sản:
Ngoài ứng dụng làm vỏ bọc xúc xích chitosan còn được ứng dụng để bảo quản cá. Cá
được lấy ruột và mang sau đó đem rửa để làm sạch được để nguyên con hoặc filê. Sau đó
nhúng cá đã xử lý vào dung dịch chitosan được pha sẵn trong dung dịch acid acetic 1% ở các
nồng độ 0,5%, 1%, 1,5%, 2%, 2,5% tuỳ theo độ lớn của từng loại cá [31, 33, 12, 34].





Hình 2.3. Cá tươi sau khi đánh bắt.
Tổng quan tài liệu GVHD: ThS. Vòng Bính Long





SVTH: Trần Thị Hiền Vâng Trang 21
Cuối cùng cá sau khi đã qua các bước làm sạch và xử lý được đem để ráo trong tủ mát
khoảng 10 phút để giúp màng chitosan được định hình rồi cho vào tủ cấp đông sau 18 tiếng
đồng hồ tiến hành rã đông và đem kiểm tra lại sau khi bảo quản. Kết quả kiểm tra cho thấy sử
dụng màng bao chitosan bao phủ bề mặt cá rất hiệu quả giúp khắc phục được hiện tượng bay
hơi nước làm hao hụt khối lượng và khi cho cá vào nước và nấu chín, mùi vị của sản phẩm
không thay đổi [31, 33, 12].
Chitosan còn ứng dụng trong bảo quản cá khô và mực khô. Cá và mực được nhúng
vào dung dịch chitosan 2% pha trong dung dịch axit acetic 1,5% rồi sấy ở nhiệt độ 30ºC có
quạt gió để làm khô. Sản phẩm cá khô và mực khô sau khi xử lý có thể bảo quản tốt ở nhiệt

độ bình thường [31, 33].
Tuỳ theo độ ẩm mà sản phẩm cá khô và mực khô có thời gian bảo quản khác nhau, độ
ẩm càng thấp thời gian bảo quản càng dài. Với độ ẩm 26-30%, cá khô bảo quản được 83 ngày,
mực khô giữ được 85 ngày còn ở độ ẩm 41-45% thì cá khô giữ được 17 ngày, mực khô được
19 ngày [31, 33].
 Ứng dụng của chitosan trong sản xuất nước quả:
Trong sản xuất nước quả, việc làm trong là rất cần thiết vì nó ảnh hưởng nhiều đến
chất lượng sản phẩm tạo thành. Hiện nay để sản xuất người ta sử dụng những chất làm trong
như : gelatin, bentonite, kali caseinat, tannin, polyvinyl pirovinyl…
Chitosan là một tác nhân tốt loại bỏ đi đục, giúp điều chỉnh acid trong nước quả. Đối
với dịch quả táo, nho, chanh, cam không cần qua xử lý pectin chỉ sử dụng chitosan
để làm
trong dịch quả. Đối với dịch ép táo, độ đục có thể giảm tối thiểu chỉ ở mức xử lý với 0,8 kg/
m
3
nhưng không gây ảnh hưởng xấu tới chỉ tiêu chất lượng sản phẩm [19, 53].
 Ứng dụng của chitosan trong bảo quản xoài:







Hình 2.4. Xoài cát Hoà Lộc
Tổng quan tài liệu GVHD: ThS. Vòng Bính Long






SVTH: Trần Thị Hiền Vâng Trang 22
Viện Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ Sinh học và Bộ môn Công nghệ Thực
phẩm, Trường Đại học Cần Thơ cùng Viện Nghiên cứu Cây ăn quả Miền Nam nghiên cứu
thành công qui trình bảo quản xoài sau thu hoạch bằng chitosan. Xoài được xử lý bằng cách
chần nhanh xoài qua nước nóng để ngăn bệnh thán thư và ruồi đục trái. Sau đó, nhúng xoài
vào dung dịch chitosan, tạo nên một lớp màng bao phủ mỏng có tác dụng chống mất ẩm, giảm
hao hụt trọng lượng và kéo dài thời gian tồn trữ. Qua các thí nghiệm của nghiên cứu thì kết
quả cho thấy xoài cát Hoà Lộc được tồn trữ ở nhiệt độ thấp từ 10-12
0
C là tốt nhất. Nghiên cứu
đã kết luận rằng qua quá trình xử lý và tồn trữ, trái xoài được bảo quản tốt nhất trong thời gian
là 4 tuần đồng thời có khả năng kéo dài đến 6 tuần, có thể vận chuyển và phân phối đi xa [58].
 Ứng dụng của chitosan trong bảo quản quýt:




Hình 2.5. Trái quýt đường và quýt hồng
Qua nhiều nghiên cứu các nhà khoa học đã đưa ra qui trình bảo quản trái quýt đường
với thời gian tồn trữ đến 8 tuần khi sử dụng chitosan và bao Polyethylene (PE) để bảo quản.
Sau khi thu hoạch trái quýt đường được bao màng chitosan ở nồng độ 0,25% kết hợp với bao
PE đục 5 lỗ với đường kính mỗi lỗ là 1mm và ghép mí lại bằng máy ép sau đó bảo quản ở
nhiệt độ thấ
p là 12
0
C. Với phương pháp bảo quản này, hàm lượng đường, hàm lượng vitamin
C của trái quýt khi bảo quản luôn ổn định, tỷ lệ hao hụt trọng lượng thấp, màu sắc vỏ trái
đồng đều và bóng đẹp [58, 11].
 Ứng dụng của chitosan trong bảo quản bưởi:







Hình 2.6. Trái bưởi chưa thu hoạch và sau khi bảo quản.
Tổng quan tài liệu GVHD: ThS. Vòng Bính Long





SVTH: Trần Thị Hiền Vâng Trang 23
Trong một năm, từ tháng 3/2004 - 3/2005, nhóm nghiên cứu trường Đại học Nông lâm
thành phố Hồ Chí Minh đã sử dụng 6 loại chitosan khác nhau ở hai nồng độ khác nhau để tạo
màng bảo quản bưởi. Sau khi nhúng bưởi vào dung dịch chitosan, cứ hai tuần nhóm tiến hành
kiểm tra bưởi một lần. Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu còn tiến hành đối chứng với các loại
màng bao khác như nhựa PE [52, 29, 19].
Kết quả nghiên cứu cho thấy sau thời gian 3 tháng bảo quản bưởi vẫn còn tươi, không
bị úng vỏ. Đồng thời kết quả nghiên cứu đối chứng so sánh giữa màng bao từ chitosan với
màng bao nhựa PE cho thấy trong thời gian 3 tháng màng bao chitosan có khả năng bảo quản
bưởi tốt hơn màng bao nhựa PE. Với màng chitosan, màu sắc của vỏ bưởi chỉ thay đổi chút ít
so với lúc mới hái, nhưng vỏ bưởi vẫn có màu đều nhau, và có thể ăn được sau 3 tháng. So
sánh với bao nhựa PE, màng chitosan cho chất lượng tốt hơn trong 3 tháng bảo quản. Tuy bao
nhựa PE bảo quản bưởi được trong 3 tháng nhưng màu sắc vỏ bưởi không đều, có hiện tượng
bị úng vỏ [52, 29, 19] .
 Ứng dụng của chitosan trong bảo quản chuối:





Hình 2.7. Quả chuối chín và quả chuối bị mốc khi để lâu.
Qua gần bốn tháng nghiên cứu một sinh viên của khoa công nghệ sinh học trường Đại
học quốc tế (Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) và giáo viên hướng dẫn đã nghiên
cứu thành công quy trình ứng dụng chitosan bảo quản quả chuối. Dung dịch chitosan dùng để
bảo quản chuối được tạo thành bằng cách hòa tan 1g chitosan trong dung dịch axcid acetic
loãng nồng độ 1%. Sau đó, dùng phương pháp phun sương để phun chitosan lên bề mặt quả
chuối. Phương pháp này là kéo dài thời gian bảo quản độ tươi của chuối gấp 3 lần so với mẫu
đối chứng không bảo quản bằng chitosan [19, 59].
 Ứng dụng của chitosan trong bảo quản trứng:
Một giảng viên của khoa Cơ khí và Công nghệ, trường Đại học Nông lâm Huế, đã
nghiên cứu ứng dụng chitosan thành công trong công nghệ bảo quản trứng gà tươi. Cách bảo
quản trứng gà bằng chitosan là sau khi được lựa chọn, phân loại sẽ tiến hành làm sạch nhẹ
Tổng quan tài liệu GVHD: ThS. Vòng Bính Long





SVTH: Trần Thị Hiền Vâng Trang 24
nhàng bề mặt trứng bằng khăn mềm và ẩm với mục đích là loại bỏ những bụi bẩn bám trên bề
mặt vỏ trứng rồi sau đó tiến hành tạo màng bao chitosan. Bột chitosan được hòa tan với nồng
độ 1,5% trong dung dịch acid acetic 1% có bổ sung 0,05% SB (sorbitol dạng lỏng tinh khiết
dùng cho thực phẩm) hoặc 1% SOR (sodium benzoate dạng bột tinh khiết dùng cho thực
phẩm). Và dung dịch này được tiến hành lọc sạch để loại bỏ các phần không tan có trong bột
chitosan. Phương thức tạo màng là dùng miếng xốp sạch nhúng vào dung dịch chitosan đã
pha sẵn và quét lên bề mặt trứng sao cho dung dịch bọc màng phủ đều lên vỏ trứng. Sau khi
bọc màng, trứng được làm khô tự nhiên trên giá đựng trứng. Sau đó bảo quản ở nhiệt độ
thường ở những nơi khô ráo, thoáng mát [60, 9] .

Ở nhiệt độ thường, trứng gà tươi bọc màng chitosan nồng độ 1,5% có bổ sung 0,05%
sodium benzoate hoặc 1% sorbitol có khả năng duy trì hạng chất lượng ở mức A đến 15-20
ngày sau khi đẻ ki bảo quản ở nhiệt độ thường. Trong khi đó, trứng gà tươi không qua bọc
màng chỉ duy trì hạng chất lượng ở mức A không quá 5 ngày. Đồng thời các những chỉ tiêu
chất lượng khác gồm hao hụt khối lượng và chỉ số màu lòng đỏ trứng đều có biến đổi lớn hơn
so với trứng có xử lý màng bọc chitosan. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy màng bọc không
tạo cảm giác khác lạ cho người sử dụng so với trứng tươi thương phẩm cùng loại về chất
lượng cảm quan bề mặt. Tác dụng của phương pháp bảo quản bằng cách tạo màng bao
chitosan này ứng dụng tốt nhất đối với loại trứng gà tươi thương phẩm trong khoảng thời gian
trước 24 giờ sau khi đẻ [60, 9].
 Ứng d
ụng của chitosan trong thu hồi whey protein:
Whey được coi là chất thải của trong công nghiệp sản xuất sản phẩm pho mát, thành
phần của nó có chứa lượng lớn lactose và protein ở dạng hòa tan. Nếu thải trực tiếp ra ngoài
môi trường sẽ dẫn đến ô nhiễm môi trường nhưng nếu xử lý nước thải thì tốn kém trong vận
hành hệ thống mà hiệu quả kinh tế không cao. Whey protein sau khi thu hồi được bổ xung vào
đồ uống, thịt băm, và các loại thực phẩm khác [19].
Trong các phương pháp thu hồi protein hoà tan thì phương pháp sử dụng chitosan
được đánh giá là mang lại hiệu suất tách whey protein cao nhất. Nghiên cứu về protein thu
được bằng phương pháp này cho thấy không hề có sự khác biệt về giá trị giữa protein có chứa
chitosan và protein thu được bằng đông tụ casein hoặc whey protein. Ngoài thu hồi protein từ
whey, người ta sử dụng chitosan trong thu hồi các acid- amin trong nước của sản xuất đồ hộp,
thịt, cá [19].
Tổng quan tài liệu GVHD: ThS. Vòng Bính Long





SVTH: Trần Thị Hiền Vâng Trang 25

+Ứng dụng của chitosan trong y học
Chitosan có tác dụng làm giảm bớt hàm lượng cholesterol trong máu. Nếu sử dụng
thực phẩm chức năng có bổ sung 4% chitosan thì lượng cholesterol trong máu giảm đi đáng
kể sau thời gian khoảng 2 tuần. Ngoài ra chitosan còn được xem là một chất chống đông tụ
máu. Nguyên nhân của việc giảm cholesterol và chống đông tụ máu theo như nghiên cứu đó
là không cho tạo thành các mixen. Mà khi ở pH trong khoảng từ 6- 6,5 thì chitosan sẽ bắt đầu
bị kết tủa, toàn bộ chuỗi polysacchride bị kết lắng và lúc này toàn bộ lượng mixen được giữ
lại trong chuỗi polysaccharite kết lắng [19, 20, 21, 22, 32] .
2.3. Tổng quan về thịt
2.3.1. Thành phần và cấu trúc của thịt
Giá trị dinh dưỡng của thịt chủ yếu là ở nguồn protein có trong thịt. Các chất liên quan
đến protein (không phải là protein thực sự) như purines, pyrimidines, và nucleopeptide đóng
vai trò tạo màu và mùi đặc trưng của thịt.
Bảng 2.1. Hàm lượng acid amin trong thịt lợn, thịt bò và thịt gia cầm [6].

Acid amin
Hàm lượng các acid amin (% protein)
Thịt lợn Thịt bò Thịt gia cầm
Lysine
7,8 8,1 8,4
Methionine
2,5 2,3 3,4
Tryptophan
1,4 1,1 1,3
Phenylalanin
4,1 4 3,8
Threonine
5,1 4 4,7
Valine
5 5,7 -

Leusine
7,5 8,4 -
Isoleusine
4,9 5,1 -
Arginine
6,4 6,6 6,9
Histidine
3,2 2,9 2,3

×