Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Top 15 bài Phân tích Vợ nhặt hay nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.21 KB, 71 trang )

Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Phân tích truyện Vợ nhặt - Ngữ văn 12
Khái quát về tác giả, tác phẩm
I. Tác giả Kim Lân
Kim Lân (1920 - 2007) tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã
Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hồn cảnh khó khăn, ông chỉ được
học hết tiểu học, rồi vừa làm thợ sơn guốc, khắc tranh bình phong vừa viết văn.
Năm 1944, Kim Lân tham gia Hội Văn hóa cứu quốc, sau đó liên tục hoạt động
văn nghệ phục vụ kháng chiến và cách mạng (viết văn, làm báo, diễn kịch, đóng
phim).
Kim Lân là cây bút chun viết truyện ngắn. Ơng thường viết về nơng thơn và
người nơng dân. Ơng có những trang viết đặc sắc về phong tục và đời sống làng
quê - những thú chơi và sinh hoạt văn hóa cổ truyền của người nơng dân vùng
đồng bằng Bắc Bộ, được gọi là “những thú đồng quê”, “phong lưu đồng ruộng
như: chơi núi non bộ, thả chim, đánh vật, chọi gà,… Ông viết chân thật, xúc động
về cuộc sống và người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ những con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng. Dù viết về phong
tục hay con người, trong tác phẩm của Kim Lân ta vẫn thấy thấp thoáng cuộc sống
và con người của làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời; thật
hà, chất phác mà thông minh, hóm hỉnh, tài hoa. Năm 2001, Kim Lân được Nhà
nước tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn năm 1955), Con chó xấu xí
(tập truyện ngắn năm 1962).
Truyện ngắn Vợ nhặt được rút từ tập truyện Con chó xấu xí.
II. Hồn cảnh sáng tác truyện ngắn Vợ nhặt
Truyện "Vợ nhặt" có tiền thân từ tiểu thuyết "Xóm ngụ cư". Tác phẩm được viết
ngay sau cách mạng tháng Tám nhưng cịn dang dở và mất bản thảo. Sau hồ bình
lập lại (1954) Kim Lân dựa vào phần cốt truyện cũ và viết lại thành truyện "Vợ
nhặt". Tác phẩm được in trong tập truyện "Con chó xấu xí". Truyện tái hiện lại bức
tranh nạn đói năm 1945. Qua đó, thể hiện tấm lịng cảm thơng sâu sắc của nhà văn
đối với con người trong nạn đói.



Dàn ý Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài mẫu 1
1. Mở bài
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Giới thiệu nhà văn Kim Lân và Vợ nhặt. (Kim Lân là nhà văn vô cùng thành công
khi viết về đề tài người nông dân nghèo. Một trong những tác phẩm nổi bật của
ơng chính là truyện ngắn Vợ nhặt).
2. Thân bài
a. Nhân vật anh Tràng
• Lai lịch, ngoại hình
Tràng là một gã trai nghèo khổ, dân cư ngụ, làm nghề đẩy xe bị th, ni mẹ già.
Tràng bị coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh
ta đi làm về.
Ngoại hình xấu xí, thơ kệch, hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên
quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng
nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn… Đầu cạo trọc nhẵn, cái lưng to
rộng như lưng gấu, ngay cả cái cười cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệch.
• Tính cách
Tràng là người hầu như khơng biết tính tốn, khơng ý thức hết hồn cảnh của
mình. Anh ta thích chơi với trẻ con và chẳng khác chúng là mấy.
Tràng là người đàn ơng nhân hậu, phóng khống: ban đầu khơng chủ tâm tìm vợ.
Thấy người đàn bà đói, anh cho ăn. Khi thấy thị quyết theo mình thì Tràng vui vẻ
chấp nhận. Hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài
thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê… Anh còn mua 2 hào dầu thắp sáng
trong đêm đầu có vợ.
Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm: Anh ngoan ngỗn

với mẹ, tránh gợi niềm tủi hờn ở người khác. Từ một anh phu xe cục mịch, chỉ biết
việc trước mắt, sống vô tư, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã
hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngồi đình vang lên vội vã,
dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ đến cảnh những người nghèo đói ầm ầm keo
nhau đi trên đê Sốp để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ to lắm.
• Tổng kết
Cuộc đời của Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng
tháng Tám.
Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật Tràng là anh phu xe cục mịch nhưng có một đời
sống tâm lý sống động với đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động bằng ngòi bút
sắc sảo.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Qua nhận vật Tràng, nhà văn phản ánh mặt đen tối trong hiện thực xã hội trước
năm 1945 cùng số phận của người dân nghèo với vẻ đẹp tâm hồn của họ.
b. Nhân vật cơ thị
• Hồn cảnh, ngoại hình:
Một người đàn bà khơng tên, khơng tuổi, khơng q qn, gốc gác, khơng gia đình.
Khơng có một nhan sắc xinh đẹp, và cái đói khổ nó lại càng làm cho cái nhan sắc
xấu xí ấy thêm phần thảm hại: “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người ngợm “gầy xọp”,
“trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ cịn thấy hai con mắt”, “cái ngực gầy lép nhơ
lên” và “hai con mắt trũng hốy”.
• Tính cách thị khi mới gặp Tràng:
- Cách nói năng, hành động đanh đá chua ngoa:
Cong cớn, sưng sỉa, chỏng lỏn vì miếng ăn.
Khi nghe thấy anh Tràng đãi ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên”, điệu
dáng đon đả, đổi hẳn thái độ.

Cúi đầu ăn một chặp 4 bát bánh đúc khơng thèm chuyện trị gì, ăn xong thì lấy đơi
đũa quệt ngang miệng, thở “hà”. → Vô duyên, hành động táo bạo và bất chấp vì
miếng ăn.
→ Mọi hành động của Thị đều chỉ vì muốn được sống, khao khát được hạnh phúc,
được có một mái ấm, một tấm chồng để nương tựa những lúc khó khăn như này
dẫn đến hành động theo không Tràng về làm vợ.
→ Một hiện thực đau xót của xã hội lúc bấy giờ: giá trị con người dường như đã
xuống đến mức âm, thậm chí cịn khơng bằng cọng rơm cọng rác, để đến nỗi
những người làng trông thấy Tràng dẫn vợ về họ cịn cho đó là “của nợ”.
• Sau khi trở thành vợ Tràng:
- Trên đường trở về nhà với Tràng:
Thị bỗng trở nên “e thẹn, rón rén”, đầu cúi xuống, cái nón tà nghiêng nghiêng che
nửa đi khn mặt đang ngại ngùng, đúng với dáng vẻ của một cô dâu khi bước về
nhà chồng.
Gặp phải cảnh trêu chọc của đám trẻ con, ánh nhìn ái ngại của những người làng,
thị thấy khó chịu, tủi cho phận mình là một người vợ theo không.
- Khi đến nhà Tràng khung cảnh xác xơ, tiêu điều của một căn nhà tạm, khiến thị
thất vọng, nhưng thị không hề phàn nàn với Tràng.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Khi ra mắt mẹ chồng, thị đã rất phải phép mà chào bà cụ Tứ, dáng điệu khép nép,
ngại ngùng, thị đã lột xác trở thành một nàng dâu hiền lành, e ấp, khác hẳn với
dáng bộ của người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở chợ tỉnh.
Sau đêm tân hôn, thị trở thành một người phụ nữ của gia đình, đảm đang tháo vát,
gánh lấy cái trách nhiệm thu xếp nhà cửa, đem đống quần áo rách ra sân hong,
gánh nước, quét sân, gom rác đem vứt, rồi dọn cơm,...
Khi đối diện với nồi cháo cám “đôi mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và vào

miệng” → Cách cư xử tinh tế, bộc lộ sự thấu hiểu và cảm thông.
Kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta khơng chịu đóng thuế mà đi phá kho
thóc của Nhật. → Bộc lộ những suy nghĩ và hướng nhìn mới của thị, người đàn bà
bà này khơng cam chịu cuộc đời đói kém và tìm kiếm một tương lai tươi sáng hơn.
c. Nhân vật bà cụ Tứ
• Sự ngạc nhiên của cụ khi a Tràng dắt vợ về
Khi làm về, thấy một người phụ nữ ngồi trong nhà mà cịn thưa u. Bà cụ ngạc
nhiên vì con mình xấu xí, nghèo mà vẫn có vợ trong thời khó khăn.
Bà cụ vẫn khơng tin vào những gì con trai mình nói “Kìa nhà tơi nó chào u”…
“Nhà tơi nó mới về làm bạn với tơi đấy u ạ”
Bà vẫn khơng hiểu chuyện gì đang xảy ra
• Tâm trạng vừa mừng vừa tủi của bà cụ
Khi biết rằng con bà “ nhặt” được vợ: bà vui vì con đã an bề gia thất, buồn phận
làm mẹ mà không cưới nổi vợ cho con và bà nghĩ đến chồng, đến con gái lại càng
trở nên buồn hơn.
Cái tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo cùng quẫn: Bà khơng biết
lấy gì để cúng tổ tiên, để trình làng con đã có vợ. Bà khóc vì thương con khơng
biết làm sao vượt qua nổi khó khăn này.
• Nỗi lo của bà cụ Tứ
Bà lo cho con trai, con dâu, cái gia đình nhỏ của mình khơng biết phải qua những
ngày khó khăn này như thế nào. → Khuyên con, khuyên dâu thương nhau, cố gắng
vươn lên.
→ Nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời.
• Niềm tin vào tương lai, vào cuộc sống của cụ Tứ
Bà suy nghĩ vui trong những điều tốt đẹp tương lai “Rồi ra may mà ông giời cho
khá…”
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí


Vui trong cơng việc sửa sang vườn tược, nhà cửa.
Vui trong bữa cơm đạm bạc đầu tiên có con dâu.
Bà vẫn ln tạo một khơng khí ấm cúng cho bữa ăn để con dâu đỡ tủi.
→ Người mẹ nghèo từng trải đời, hết mực yêu thương con, ln lạc quan trong
hồn cảnh khó khăn.
→ Là đại diện cho người mẹ Việt Nam cần mẫn, mộc mạc, giản dị, giàu tình yêu
thương và đức hi sinh
d. Tình huống truyện
Bối cảnh xây dựng tình huống truyện: Nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà kết quả
là hơn hai triệu người chết. Cái chết hiện hình trong tác phẩm tạo nên một khơng
khí ảm đạm, thê lương. Những người sống ln bị cái chết đe dọa.
Ngoại hình và gia cảnh của Tràng khiến anh khó lấy vợ: xấu xí, thơ kệch, ăn nói
cọc cằn, thơ lỗ. Nhà nghèo, đi làm th ni mình và mẹ già. →Tràng lấy vợ là lấy
cho mình thêm một tai họa.
- Tràng lấy vợ theo kiểu "nhặt" được: vài câu nói đùa, 4 bát bánh đúc là nên dun
vợ chồng mà khơng cần tìm hiểu, u đương và cưới hỏi. Việc Tràng lấy vợ là một
tình huống bất ngờ khiến cả xóm ngụ cư và bà cụ Tứ hết sức ngạc nhiên. Bản thân
Tràng có vợ rồi vẫn cịn " ngờ ngợ".
→ Tình huống truyện bất ngờ nhưng rất hợp lí vì nếu khơng phải năm đói khủng
khiếp thì người ta khơng thèm lấy một người như Tràng.
• Giá trị hiện thực: tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói
+ Cái đói dồn đuổi con người: người chết như ngả rạ…
+ Cái đói bóp méo cả nhân cách: theo không người ta về làm vợ.
+ Cái đói khiến cho hạnh phúc thật mỏng manh, tội nghiệp.
→ Vợ nhặt có sức tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân, phát xít.
• Giá trị nhân đạo:
Tình người cao đẹp thể hiện qua cách đối xử với nhau của các nhân vật: anh Tràng
đối với cô thị, bà cụ Tứ với người con dâu và giữa 3 người họ với nhau.
Tràng rất trân trọng người "vợ nhặt" của mình.

Thiên chức, bổn phận làm vợ, làm dâu được đánh thức nơi người "vợ nhặt": khơng
cịn đanh đá, chỏng lỏn mà thay vào đó là cơ vợ đảm đang, biết lo toan, vun vén
việc nhà.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Tình u thương con của bà cụ Tứ: Bà ln miệng nói về ngày mai với những dự
định thiết thực tạo niềm tin cho dâu con vào một cuộc sống tốt đẹp.
→ Dù cho cuộc sống có nghèo khổ, khắc nghiệt thế nào thì ở họ vẫn tràn ngập tình
yêu thương và hi vọng về một tương lai tốt đẹp, tươi sáng hơn. Cái đói có thể làm
họ nghèo nàn, xơ xác về thể chất nhưng tình cảm và tấm lịng nhân hậu, tình u
thương dành cho nhau thì khơng cái đói nào có thể làm lu mờ.
3. Kết bài
Vợ nhặt là một trong những tác phẩm vô cùng thành công của Kim Lân. Với những
giá trị, ý nghĩa, thơng điệp sâu sắc của mình, tác phẩm đã gây nhiều dấu ấn quan
trọng trong lòng bạn đọc.

Dàn ý Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài mẫu 2
I. Mở bài
- Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chun nghiệp, ơng tập trung viết về cảnh
nơng thơn, hình tượng người nông dân lao động.
- Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí, là truyện ngắn đặc sắc viết về người nơng dân,
miêu tả tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói năm 1945, nhưng cũng ngợi ca
bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ.
II. Thân bài
1. Ý nghĩa nhan đề
“Vợ nhặt”: nhặt được vợ, thể hiện sự rẻ rúng của thân phận con người và phản ánh
tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói.

2. Tình huống truyện
- Tình huống: Tràng - một người dân ngụ cư xấu xí bỗng dưng lại có vợ mà lại là
nhặt được, theo về khơng.
- Đây là một tình huống độc đáo, bất ngờ: với chính Tràng (hồn cảnh của Tràng
khó mà lấy được vợ nhưng nghiễm nhiên có vợ theo khơng về, tự ngờ ngờ mình đã
có vợ ư), với những người xung quanh (thắc mắc bàn tán), với bà cụ Tứ.
- Tình huống éo le: hồn cảnh gia đình và xã hội (khung cảnh nạn đói) khơng cho
phép Tràng lấy vợ, cả hai vợ chồng đều là những người cùng cực, khó có thể trở
thành chỗ dựa cho nhau.
3. Nhân vật Tràng

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

- Hồn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở tồi tàn,
cuộc sống bấp bênh, ..., bản thân: xấu xí, thơ kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên
quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về, ...
a. Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ
- Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ khơng có
tình ý gì với cơ gái đẩy xe cùng mình.
- Lần gặp 2:
+ Khi bị cơ gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù khơng dư dả
gì. Đó là hành động của người nơng dân hiền lành tốt bụng.
+ Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng
thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của kẻ
bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc,
thương yêu người cùng cảnh ngộ.
+ Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng

trước quyết định lấy vợ.
b. Trên đường về
+ Vẻ mặt “có cái gì phơn phởn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy
vênh vênh tự đắc”, ... Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diện.
+ Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.
c. Khi về đến nhà
+ Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay
của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
+ Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì
gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
+ Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải
nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.
+ Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là
“phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng
thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
d. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy
+ Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngơi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo, ...),
Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình
trưởng thành hơn.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

+ Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay
phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.
- Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt
đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái
đói.
4. Nhân vật người vợ nhặt

a. Lai lịch
- Khơng có q hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao
con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.
- Tên tuổi cũng khơng có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của con
người trong cảnh đói.
b. Chân dung
- Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ
còn hai con mắt.
- Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính là
sự hồn nhiên vơ tư của người lao động nghèo.
- Lần thứ hai:
+ Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi
được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.
+ Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ ... cùng về”, thị đã theo về thật bởi
trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.
- Nhận xét: Cái đói khổ khơng chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con
người. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với thị vì đó khơng phải là bản chất mà
do cái đói xơ đẩy.
c. Phẩm chất
- Có khát vọng sống mãnh liệt:
+ Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo không
về khơng cần sính lễ vì thị sẽ khơng phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
+ Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, thị
“nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.
- Thị là người ý tứ và nết na:

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí


+ Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị ngại
ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.
+ Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở
mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được
vị trí trong gia đình.
+ Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách
bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.
+ Sáng hôm sau, thị dậy sớm qt tước nhà cửa, khơng cịn cái vẻ “chao chát,
chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
+ Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng
thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không làm bà buồn.
- Nhận xét: Cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ khơng
vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.
- Thị cịn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái
Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hi vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.
- Nêu cả nhận chung về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích.
5. Nhân vật bà cụ Tứ
- Giới thiệu nhân vật: dáng đi lọm khọm, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng
hắng, lẩm nhẩm tính tốn theo thói quen người già.
- Bà ngạc nhiên trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch, ngạc nhiên trước sự
xuất hiện của người đàn bà lạ.
- Bà hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhoà đi”: thương cho con trai phải lấy
vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ, thương cho người đàn bà khốn
khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà.
- Bà đối xử tốt với nàng dâu mới: “Con ngồi đây ... đỡ mỏi chân”, nói về tương lai
với niềm lạc quan, bảo ban các con làm ăn, ...
- Nhận xét: bà cụ Tứ là người mẹ hiền từ, chất phác, nhân hậu.
III. Kết bài
- Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống éo le,

độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí nhân vật, ngơn ngữ
bình dị, gần gũi.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

- Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh
người nơng dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức
sống mãnh liệt của họ.

Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài số 1
Nhà văn Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920, quê ở làng Phù Lưu,
xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hồn cảnh gia đình khó khăn, ông
chỉ được học hết bậc Tiểu học rồi phải đi làm. u thích văn chương, ơng bắt đầu
sáng tác từ năm 1941. Một số truyện ngắn của ông lấy đề tài ở cuộc sống lam lũ
của người nông dân hoặc các sinh hoạt văn hóa truyền thống ở thơn q.
Sau Cách mạng tháng Tám, ông chuyên viết truyện ngắn về làng quê, mảng hiện
thực mà ông hiểu biết sâu sắc. Theo Ngun Hồng thì Kim Lân là nhà văn một
lịng đi về với đất, với người, với những gì thuần hậu ngun thủy của cuộc sống
nơng thơn. Tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó
xấu xí (tập truyện ngắn, 1962). Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân,
được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 bùng nổ nhưng đến sau hịa
bình lập lại 1954 mới cho ra mắt bạn đọc trong tập Con chó xấu xí.
Truyện Vợ nhặt kể về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của nhân dân ta trong thời gian
xảy ra nạn đói khủng khiếp đã làm chết hơn hai triệu người. Đấy là hậu quả chính
sách cai trị dã man của thực dân Pháp trong mấy mươi năm và chủ trương tàn bạo
“nhổ lúa trồng đay” của phát xít Nhật. Cũng như một số tác phẩm khác viết về nạn
đói, ngịi bút Kim Lân chứa chan thương cảm trước những số phận bất hạnh.

Thông qua truyện, tác giả tố cáo tội ác dã man của thực dân Pháp, phát xít Nhật;
đồng thời phản ánh khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và niềm tin vào tương lai
tươi sáng của người dân lao động.
Tóm tắt nội dung như sau: Anh Tràng nghèo khổ, xấu xí, chỉ với vài câu bông đùa
và mấy bát bánh đúc mà nhặt được cơ vợ đang sống dỡ chết dở vì đói. Họ thành vợ
thành chồng giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hơn diễn ra âm thầm
trong bóng tối lạnh lẽo, điểm những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người
chết đói theo gió vẳng lại. Bữa cơm cưới
chỉ có rau chuối, cháo lỗng và muối Mẹ chồng đãi nàng dâu và con trai món chè
nấu bằng cám. Câu chuyện của ba mẹ con xoay sang việc Việt Minh tổ chức phá
kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo. Trong óc Tràng hiện lên hình ảnh của đám
người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…
Nhan đề Vợ nhặt đã thu hút sự chú ý của người đọc ngay từ đầu. Vợ nhặt là vợ
theo khơng, chẳng cưới xin gì. Tựa đề khá lạ của truyện đã nói lên đầy đủ về cảnh
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

ngộ, số phận của nhân vật. Chuyện anh Tràng bỗng dưng nhặt được vợ phản ánh
tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói
khủng khiếp xảy ra vào mùa xuân năm 1945.
Thành công trước tiên của truyện Vợ nhặt là ở chỗ tác giả đã tạo ra một tình huống
độc đáo: Một anh chàng ngụ cư xấu xí, nghèo khổ, ế vợ, vậy mà đã nhặt được vợ
chỉ bằng vài bát bánh đúc. Giá trị của con người rẻ rúng đến thế là cùng! Tác giả
diễn tả tình huống đặc biệt này qua thái độ ngạc nhiên của dân xóm ngụ cư khi
thấy Tràng dẫn về nhà một người đàn bà lạ. Họ ngạc nhiên bởi thời buổi đói khát
này, đến ni thân cịn chẳng nổi vậy mà Tràng còn dám lấy vợ. Bà mẹ của Tràng
cũng sửng sốt vì khơng ngờ con trai mình đã có vợ. Thậm chí chính Tràng cũng
chẳng hiểu tại sao mình lại có vợ dễ dàng đến thế.

Nguyên nhân sâu xa là do nạn đói khủng khiếp đang xơ đẩy cịn người vào chỗ
chết nên người đàn bà kia mới phải chấp nhận làm vợ Tràng. Ý nghĩa tố cáo của
tác phẩm tuy kín đáo nhưng sâu sắc. Tác giả khơng trực tiếp nói đến tội ác của bọn
đế quốc, phong kiến, vậy mà tội ác của chúng cứ phơi bày ra một cách đáng ghê
tởm và tình cảnh cớ cực, đói khát của dân nghèo quả là thê thảm.
Tình huống lạ lùng nói trên là đầu mối cho sự phát triển của nội dung truyện, tác
động đến diễn biến tâm trạng và hành động của các nhân vật. Bối cảnh lớn của
truyện là nạn đói năm 1945, bối cảnh nhỏ là cái xóm ngụ cư tồi tàn ven chợ. Mở
đầu tác phẩm, tác giả đã vẽ nên bức tranh hiện thực với màu sắc ảm đạm và hình
ảnh thê lương.
Cách đây khơng lâu, mỗi chiều Tràng đi làm về, đám trẻ con lại bu theo anh, đứa
túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi…
Cái xóm ngụ cư tồi tàn ấy mỗi chiều lại xơn xao lên được một lúc. Nhưng bây giờ
thì niềm vui nhỏ nhoi ấy khơng cịn nữa: trẻ con khơng đứa nào buồn ra đón
Tràng… Chúng nó ngồi ủ rũ dưới những xó đường, khơng buồn nhúc nhích… Nụ
cười dễ dãi mọi ngày của Tràng cũng tắt: Trong bóng chiều nhá nhem, Tràng đi
từng bước mệt mỏi, chiếc áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn
chúi về phía trước. Hình như những lo lắng chật vật trong một ngày đè xuống cái
lưng to rộng như lưng gấu của hắn… Đâu đâu cũng thấy cảnh: Những gia đình từ
những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh
xám như những bóng ma, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ.
Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái
thây nằm cịng queo bên đường. Khơng khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và
mùi gây của xác người.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí


Quả là một cảnh tượng khủng khiếp! Thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn
đói chưa từng thấy từ trước đến nay, khiến hàng triệu người chết đói. Khắp nơi,
đâu đâu cũng bao phủ bởi một màu địa ngục.
Tràng, nhân vật chính của câu chuyện là một thanh niên ngụ cư nghèo khổ, xấu xí,
sống hiu quạnh với mẹ già trong túp lều tồi tàn ở mé sông. Ngày xưa, kiếp ngụ cư
tủi nhục trăm bề. Họ bị dân làng khinh rẻ và phải làm những công việc bị coi là
hèn hạ như đầy tớ, thằng mõ… Dân địa phương dù nghèo đến mấy cũng khơng
chịu gả con gái cho đám ngụ cư vì cho rằng như thế là vô phúc. Đã thế Tràng lại
cịn xấu xí: …hai con mắt nhỏ tí… quai hàm bạnh ra… bộ mặt thô kệch của hắn
lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lí thú vừa dữ tợn… cái đầu trọc nhẵn
chúi về đằng trước… cái lưng to rộng như lưng gấu… Vì thế nên anh đã đứng tuổi
mà vẫn không sao lấy được vợ.
Tràng gặp người đàn bà ấy tất cả chỉ có hai lần vào những dịp chở thóc lên tỉnh.
Lần thứ nhất, hai bên chỉ đùa bỡn dông dài vài câu rồi thôi. Lần sau gặp tại, Tràng
khơng nhận ra vì chị ta thay đổi nhiều quá. Chị ta nhắc mãi anh mới nhớ ra và toét
miệng cười xin lỗi rồi mời ăn trầu. Chị ta sỗ sàng gợi ý: Có ăn gì thì ăn, chả ăn
giầu. Anh vui vẻ đãi chị một bữa bánh đúc (thứ quà của người nghèo) no nê. Thấy
chị cắm cúi ăn như chưa bao giờ được ăn, Tràng động lịng thương, liền bảo: Này
nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
Câu nói của Tràng nửa đùa nửa thật. Đùa ở chỗ bỡn cợt cho vui, nhưng thật ở chỗ
trong thâm tâm, Tràng cũng đang muốn có vợ. Khốn nỗi vì anh nghèo quá nên
không ai chịu lấy. Thời ấy, đứng tuổi như Tràng mà chưa có vợ là khơng bình
thường, là bất hạnh. Câu nói của anh vừa tếu táo vừa đượm vẻ chua chát: Làm
đếch gì có vợ…
Đã từ lâu, anh ao ước có được một người vợ, nhưng chí ít cũng phải là người bình
thường, khỏe mạnh chứ đâu phải là loại chết đói chết khát, dở người dở ma kia?
Tràng nói đùa khơng ngờ chị ta theo về thật khiến anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này
đến cái thân mình cũng chả biết có ni nổi khơng, lại còn đèo bòng. Nghĩ rồi lo,
nhưng anh tặc lưỡi: Chậc, kệ! Có lẽ anh cho rằng mình đang mạnh chân khỏe tay,
lại có cơng ăn việc làm, nên dẫu đèo bịng thì cũng chưa đến nỗi chết đói ngay đâu

mà sợ. Vả lại, anh nỡ lòng nào bỏ người đàn bà kia chết đói cho đành?
Chẳng cịn là chuyện đùa bỡn nữa. Không chỉ đơn giản là cứu người mà cịn may
mắn tự nhiên có được vợ nên Tràng phải nghiêm túc và có trách nhiệm. Anh đưa
chị ta vào chợ tỉnh, đãi thêm một bữa thật no, sắm cho cái thúng đựng mấy thứ lặt
vặt rồi dẫn về nhà. Trong lịng Tràng giờ đây khơng chỉ có tình thương mà cịn có
niềm vui sướng, háo hức.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Mấy lần Tràng định nói với thị một vài câu cho tình tứ mà chẳng biết nói thế nào.
Cái phút ban đầu bao giờ chả thế. Đùa thì tự nhiên. Nửa đùa nửa thật đã khó. Nay
đã là thật rồi, khó biết mấy! Mà mọi chuyện có bình thường, êm đẹp cả đâu? Tràng
lúng túng là phải.
Tuy vậy, từ trong sâu thẳm lòng anh, niềm vui bất ngờ cứ dâng lên mãi: Trong một
lúc, Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói
khát ghê gớm đang đe dọa… Trong lịng hắn bấy giờ chỉ cịn tình nghĩa với người
đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo
khổ ấy… Đúng là thế. Đó là niềm vui to lớn nhất đời: anh đã có vợ. Tình cảm của
anh đối với người đàn bà xa lạ kia không chỉ là thương hại, cưu mang mà còn là
lòng biết ơn bởi chị ta đã chịu làm vợ anh mà khơng địi hỏi một điều kiện nào.
Nhờ thế anh mới có được vợ và cuộc đời anh mới đổi khác. Từ nay, anh không cịn
phải sống thui thủi một mình một bóng nữa.
Tràng dẫn người đàn bà về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Họ đi vào cái ngã tư xóm
chợ… xác xơ, heo bút., Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh
đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại
lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên
từng hồi thê thiết…
Bức tranh ngập tràn tử khí. Ảm đạm cảnh, ảm đạm người, nhà cửa, xác xơ, heo

hút, úp súp, tối om… chẳng khác chi những nấm mồ hoang lạnh. Sự sống chỉ cịn
thoi thóp. Cái chết đã đến, đang đến. Lại thêm tiếng quạ cứ gào lên từng hồi bởi
chúng đã đánh hơi thấy mùi xác chết. Tất cả cảnh vật đểu đang lâm vào thế lụi tàn,
tan rữa. Giọng văn của Kim Lân ở đoạn này rất tỉnh táo, khách quan nhưng dồn
nén cảm xúc đau thương nên gây ấn tượng mạnh.
Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy
Tràng về với một người đàn bà nữa. Tràng dẫn người đàn bà này về làm vợ, để xây
dựng gia đình, sinh con đẻ cái tiếp nối sự sống. Trên bờ vực thẳm của cái chết, họ
tìm đến sự sống. Giọng kể của tác giả chợt trở nên hóm hỉnh: Mặt hắn có một vẻ gì
phởn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp
lánh. Tràng vui sướng trước sự kiện to lớn bất ngờ của đời mình: anh đã kiếm được
vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết tràn lan, mình cũng đói, mẹ già cũng đói, thế
mà lại tự nhiên có vợ. Chuyện lạ lùng mà thú vị!
Lạ lùng với Tràng và lạ lùng cả với cái xóm ngụ cư tồi tàn, nhỏ bé này. Cái cảnh
Tràng đi trước, người đàn bà đi sau cách ba bốn bước với cái dáng rón rén, e thẹn,
đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt… làm
cho mọi người tò mò đổ ra xem. Lũ trẻ con thấy lạ trước. Cải lạ lùng đã thắng cái
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

đói, trả lại tính vui đùa hồn nhiên vốn có của chúng. Một đứa đột ngột gào lên: Anh
Tràng ơi! Chông vợ hài! khiến Tràng phải bật cười chửi u: Bố ranh! mà trong
bụng thì khối lắm. Tiếp theo trẻ là bà con xóm chợ ai cũng thấy lạ. Họ bàn tán…
Họ hiểu đôi phần, khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rõ hẳn lên. Từ trong sâu thẳm tâm
hồn họ vẫn le lói một niềm vui.
Họ thú vị nghĩ tới chuyện Tràng có vợ. Họ muốn chia vui cùng anh. Cái xóm ngụ
cư đang hấp hối này bỗng bừng lên một thoáng sống.
Vui đấy nhưng lo ngay đấy. Người ta lo thay cho Tràng: ôi chao! Giời đất này cịn

rước cái của nợ đời về. Biết có ni nổi nhau sống qua được cái thì này khơng? Ấy
là họ lo cho cái sự sống đang phải đối mặt từng ngày với cái chết và cứ hi vọng
vượt lên cái chết.
Hai người về đến nhà Tràng. Cái tổ ấm của họ ra sao trong đêm tân hôn? Sự sống
được tiếp nối như thế nào?
Cái gọi là nhà đúng ra chỉ là túp lều vắng teo… rúm rớ. Trong lều, niêu bát, xống
áo… bừa bộn trên giường, dưới đất… Khung cảnh hoang tàn, vắng lạnh. Tràng
chợt có cảm giác sờ sợ người đàn bà ngồi bất động ở đầu giường như một bóng
ma… Có cái gì đó kì dị như trong truyện ma quỷ thời xưa.
Đến đêm, cảnh tượng lại càng lạ lùng hơn nữa. Tràng chỉ dám thắp đèn có một lúc.
Hai vợ chồng nằm bên nhau, đành giấu những gì n và vui vào bóng tối. Nhưng
bóng tối cũng không yên mà hãi hùng, đáng sợ bởi đầy tiếng hờ khóc tỉ tê… vẳng
ra từ những nhà có người chết đói.
Lấy vợ lấy chồng là việc lớn một đời, là hạnh phúc trăm năm. Ấy thế mà ở đây,
chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong manh của hai người lại bị bủa vây bởi cái đói và
cái chết. Buổi chiều là tiếng quạ kêu, là bóng người dật dờ như bóng ma, ban đêm
là tiếng hờ khóc người chết… Nhưng sự sống là bất diệt. Từ trong cái chết, sự sống
vẫn sinh sôi nảy nở. Bi thương cùng cực thành dữ dội. Có cái gì đó giống như một
cảnh trong bi kịch của sếch-xpia hay trong tiểu thuyết Đô-xtôi-ép-xki: dữ dội, kinh
khủng nhưng thật sâu sắc, lớn lao.. Sự sống cứ tồn tại, bất chấp cái chết. Rõ ràng, ý
chí con người và quy luật cuộc đời mạnh mẽ biết là chừng nào!
Sau một đêm, Tràng thấy mình hồn tồn đổi khác: Sáng hơm sau, mặt trời lên
bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong
giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hơm nay hắn vẫn cịn ngỡ ngàng như khơng
phải… Mình đã có vợ thật rồi sao? Ai vậy? Cưới bao giờ nhỉ? Không lẽ mong ước
bao lâu mà nay đã thành sự thật một cách dễ dàng, chóng vánh đến thế ư? Chuyện
xảy ra cứ như trong mơ, thật khó tin, nhưng cái cảm giác êm ái lửng lơ lạ lùng
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

chưa từng thấy vẫn đang tồn tại trong người và rõ ràng trước mắt, người đàn bà
bằng xương bằng thịt kia là vợ anh.
Vậy là chuyện anh Tràng tự dưng nhặt được cô vợ (không nghiêm túc về mặt hình
thức) giờ đã trở thành chuyện hồn tồn nghiêm túc theo đúng đạo nghĩa vợ chồng.
Cái bên ngoài không đẹp ấy lại chứa đựng một nội dung thật đẹp, thật cảm động.
Nhu cầu được yêu thương và khao khát xây dựng cho mình một tổ ấm gia đình là
bản năng của con người. Buổi sáng sau đêm đầu tiên Tràng có vợ, khơng khí gia
đình anh trở nên khác hẳn. Nhờ sự có mặt của người đàn bà mà cái nhà của anh
mới thật sự là một tổ ấm. Trước kia, mẹ con Tràng chỉ sống tạm bợ cho qua ngày.
Nay ai cũng có trách nhiệm hơn với nhà cửa, vườn tược của mình. Nhìn vợ và mẹ
đang dọn dẹp, Tràng bỗng thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn
đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ẩm
che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng.
Tâm trạng này diễn ra ở một người như Tràng mới thật cảm động. Người ta lấy vợ
lấy chồng, điều ấy có gì đặc biệt lắm đâu; nhưng với Tràng thì đó là cả một ước mơ
lớn tưởng chừng không bao giờ thực hiện được. Giá trị nhân văn sâu sắc của tác
phẩm chính là ở chỗ tác giả đã phát hiện, đồng cảm và chia sẻ niềm vui sướng rất
con người này ở những thân phận nghèo khổ trong xã hội cũ. Niềm khao khát hạnh
phúc gia đình và niềm tin le lói của người dân lao động vào tương lai là rất đáng
trân trọng.
Bên cạnh Tràng, người vợ nhặt cũng là một nhân vật trung tâm của truyện. Người
đàn bà ấy khơng có đến một cái tên để gọi. Không tên, không tuổi, cả đến đặc điểm
nhận dạng cơng khơng nốt. Chẳng ai biết gốc tích của chị ở đâu? Cha mẹ là ai?
Nhà cửa, anh em thế nào? Tất cả đều không. Chỉ biết là ngày ngày, chị ngồi lẫn
trong đám con gái trước cửa kho thóc để nhặt nhạnh hạt rơi hạt vãi hay chờ ai có
việc gì th mướn thì làm.
Hình thức của chị ta cũng giống như bao kẻ đói khát khác: Áo quần tả tơi như tổ
đỉa… trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt… Chị ta là một

trong hàng triệu con người bần cùng, đói rách, tha phương cầu thực, lang thang vất
vưởng kiếm ăn và sẽ chết gục nơi đầu đường xó chợ bất cứ lúc nào.
Việc chị ta trở thành vợ Tràng giống như một trò đùa, là chuyện tầm phơ tầm phào
đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng.
Xưa nay, hôn nhân là đại sự. Con gái lấy chồng, giàu nghèo gì cũng phải cố cưới
xin tử tế. Giàu thì làm lớn, mời họ mời làng. Nghèo đến mấy cũng phải có mâm
cơm trình tổ tiên, ơng bà rồi mới nhận vợ, nhận chồng.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Vợ thì cung năm bảy loại. Có loại q hóa như cơ tiểu thư con quan trong Lí ngựa
ơ, đem lại danh giá, sang trọng cho chồng. Có loại vợ phải tốn bao cơng sức, tiền
của mới cưới được… Tủi nhục thay cho những ai mang tiếng là vợ theo (theo
khơng, chẳng cưới hỏi gì). Xã hội, gia đình khơng chấp nhận những cuộc hơn nhân
như vậy. Tủi hơn nữa, người đàn bà trong truyện lại là vợ nhặt – Tràng tình cờ nhặt
được chị như nhặt được một vật gì đó rơi trên đường.
Lần đầu, chị quen Tràng bởi câu hò chơi cho đỡ nhọc của anh và những lời trêu
ghẹo của bạn bè. Chị lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, đùa bỡn với anh và liếc
mắt, cười tít. Chuyện đùa giỡn chì có vậy nên người đàn bà này không để lại dấu
ấn gì trong trí nhớ của Tràng. Vì thế, gặp lần thứ hai, anh không nhận ra chị ta bởi:
Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi… gầy sọp hẳn đi…
Chị ta đói. Đói lắm! Cái đói cào cấu ruột gan. Chị ta sỗ sàng gợi ý để Tràng mời ăn
và ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc. Cắm đầu mà ăn, chẳng chuyện trị gì mải mê
như chưa từng được ăn bao giờ. Quên cả giữ kẽ, quên cả thẹn thùng. Quả là cái đói
đã đẩy lùi sĩ diện, đẩy lùi nhân cách.
Ăn như thế là đói lâu rồi, nay chỉ cần có chút gì cho vào bụng để sống. Cảnh ấy
khiến Tràng động lòng thương. Anh buột miệng nói: Này nói đùa chứ có về với tớ
thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về. Tràng chỉ đùa, ai ngờ chị ta theo về thật.

Người đàn bà ấy đi theo Tràng trước hết chì vì miếng ăn chứ chẳng có tình cảm gì.
Nghĩ cũng xấu hổ nên trên đường về nhà “chồng”, chị ta chả biết nói gì và tỏ ra
ngượng ngùng khi thấy mọi người trong xóm ngụ cư nhìn mình bằng ánh mắt tị
mị.
Chị ta chấp nhận theo không một gã đàn ông xa lạ, xấu xí chỉ là để có một nơi
nương tựa cho khỏi chết đói. Lâm vào tình cành éo le ấy, chị ta vừa ngượng ngùng
vừa tủi phận. Lúc gặp bà cụ Tứ, chị e sợ, khép nép, chẳng biết nói năng, chào hịi
thế nào cho phải.
Một người đàn ơng mới quen đơi lần, nay hào phóng cho ăn một bữa no, ngồi ra
khơng biết tính tình ra sao, gia cảnh thế nào, chỉ nghe nói là chưa có vợ (biết là thật
hay giả), vậy mà đi theo một cách dễ dàng, khơng đắn đo, sợ hãi. Có liều lĩnh
chăng? Nhẹ dạ chăng? Mặc kệ! Theo anh ta để được ăn, được sống cái đã, vợ
chồng là chuyện lâu dài, biết đâu mà tính trước. Khỏi đói, Khỏi chết lúc này là
quan trọng nhất. Mọi cái khác thứ yếu tất. Thế mới biết cái đói ghê gớm, kinh
khủng biết chừng nào!
Vào nhà Tràng, chị cứ ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt
bần thần. Anh Tràng mời chị ngồi cơ mà? Sao chị không dám ngồi cho ngay ngắn,
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

đàng hồng? Mẹ anh chưa về, có ai đâu mà giữ lễ? Hóa ra cái dáng ngồi rụt rè,
chơng chênh ấy kì thực cũng là cái thế của lịng chị, đời chị. Liệu chỗ ngồi này có
phải là chỗ của chị khơng? Mái nhà này có phải là nơi để chị dung thân khơng? Chị
bần thần vì ngỡ như mọi chuyện vừa xảy ra không phải là thực. Làm vợ, làm dâu
mà đến thế này ư? Lấy chồng, cái hạnh phúc lớn nhất của đời con gái ấy, chị có
được hưởng chút nào đâu? Buồn lắm! Tủi lắm! Trăm mối ngổn ngang. Chị khơng
nói được nên lời, bởi cất tiếng, chắc chị sẽ khóc. Nỗi đau khơng trào ra theo nước
mắt mà lặn vào trong nên càng đau, càng tủi.

Ấy thế nhưng chỉ sau một đêm làm vợ Tràng, chị hóa ra khác hẳn: Tràng nom thị
hơm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực khơng cịn vẻ gì
chạo chát như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh… Hoàn cảnh sống nghiệt ngã biến
chị ta có lúc thành kẻ trâng tráo, nhưng bản chất thì khơng phải như vậy. Nếu hơm
qua, cái đói làm mất đi những gì tốt đẹp ở chị thì hơm nay, chị bắt đầu có ý thức
vun vén cho tổ ấm của mình. Chị quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy
ang… Có bàn tay săn sóc của chị, túp lều rách nát, tăm tối của mẹ con Tràng bỗng
trở nên sáng sủa, gọn ghẽ hẳn ra. Sự sống đã trở về với người, với cảnh. Cho đến
lúc này, chị mới có cảm giác chuyện làm vợ của mình là thật. Cái hạnh phúc đơn
sơ mà đầm ấm ấy đã đem đến một sự đổi thay thật sự trong hình dáng và tính cách
của người đàn bà, khiến cho Tràng phải ngạc nhiên, bỡ ngỡ.
Bà cụ Tứ mẹ anh Tràng là nhân vật gây được nhiều thiện cảm đối với người đọc.
Tấm lòng nhân hậu của bà mới đáng quý làm sao! Lúc đầu, thấy người con gái xa
lạ ngồi ở giường con trai mình, bà ngạc nhiên lắm. Được chào bằng u, bà càng
chẳng hiểu gì và cố nhìn cho kĩ mà vẫn khơng nhận ra chị ta là ai. Bà phân vân,
đoán định… Mãi đến lúc Tràng bảo: Kìa nhà tơi nó chào u… thì bà mới vỡ lẽ. Bà
lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy cịn hiểu ra biết
bao nhiêu cơ sự, vừa ai ốn vừa xót thương cho số kiếp con mình… Ra thế! Thằng
con mình nó đã kiếm được vợ, nhưng…
Bà tủi thân tủi phận là cha mẹ mà khơng làm trịn bổn phận đối với con cái. Trăm
sự cũng tại cái nghèo mà ra: Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc
trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình
thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Bà lọ lắng
thực sự: Biết rằng chúng nó có ni nổi nhau sống qua được cơn đói khát này
khơng. Nhưng rồi ngẫm đến thân phận nghèo khó của hai mẹ con, bà lại tự an ủi:
Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà
con mình mới có vợ được… Nghĩ thế nên bà vui lòng chấp nhận nàng dâu mới. Bà
cư xử vói chị dịu dàng, âu yếm gọi chị là con, xưng u và bà lão nhìn người đàn bà,
lịng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi…
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Với tâm lí của một người mẹ, bà ao ước có được dăm ba mâm trước cúng tổ tiên
ơng bà, sau mời làng mời xóm. Nhưng ao ước ấy khơng thể thực hiện được vì bà
nghèo q. Bà rất biết trước biết sau, song cái khó bó cái khơn, bà đành chịu. Bà
chỉ biết nói với các con những lời khuyên nhủ chân tình cốt làm sao cho chúng
mày hòa thuận là u mừng rồi… Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá.
Con trai tự dưng có được vợ, bà lão mừng lắm: Bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày
thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn,
quét tước nhà cửa… Bà không vui sao được khi con trai bà đã thành gia thất?! Bà
cũng vơi đi một mối lo âu bấy lâu nay cứ canh cánh bên lòng. Trong bữa ăn đầu
tiên của ba mẹ con, dẫu chỉ có cháo lỗng với muối hột nhưng bà tồn nói chuyện
vui, tồn chuyện sung sướng về sau này :
– Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đơi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm
cái chuồng gà thì tiện quá. Này, ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà
cho mà xem…
Ở người đàn bà già nua, nghèo khổ này chứa đựng những nét đạo lí cổ truyền của
dân tộc. Bà cố gắng xua đi cái ám ảnh đen tối đáng sợ của thực tại, nhen nhúm
niềm tin, niềm vui sống cho các con. Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ vì đói
khát ấy vẫn nung nấu một ý chí mãnh liệt: Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ
bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mọt
cơm, cầm cái muôi vừa khuấy khuấy vừa cười:
- Chè đây… Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Rồi bà múc trao cho con dâu, con trai, miệng vẫn tươi cười, đon đả: - Cám đấy
mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà cịn chả có cám mà ăn
đấy…
Bà lão “đãi” nàng dâu mới món ăn đặc biệt mà bà gọi là chè, nấu bằng cám. Bà
khen ngon đáo để và so sánh: Xóm ta khối nhà cịn chả có cám mà ăn đấy. (Vậy có

cám mà ăn như thế này là còn may lắm!) Chao ơi là khổ! Phải đói đến mức nào thì
mới ăn cám thấy ngon? Cuộc sống khắc nghiệt đày đọa con người, bắt họ phải
sống cuộc sống của loài vật, song nó khơng dập tắt được phần người, rất người
trong lịng bà mẹ khốn khổ kia. Bà cố đổi buồn thành vui. Bà cố tươi cười, đon đả
cho bữa cơm đỡ phần thê thảm, cịn tác giả và chúng ta thì khóc. Khóc vì thương,
vì q tấm chân tình của bà.
Sống giữa cái chết ngày càng che phủ bóng đen gớm ghiếc của nó vào mọi gia
đình, vậy mà những người nghèo khổ như mẹ con Tràng vẫn tin vào cuộc sống,
vào tương lai: Ai giàu ba họ, ai khó ba đời. Bà cụ Tứ cứ tin vu vơ như thế. Vì
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

miếng cơm manh áo, họ buộc phải vượt lên mọi gian nan, khổ ải để sống nên mới
có được niềm tin dai dẳng và kì diệu ấy.
Ba mẹ con Tràng đã tìm thấy niềm vui trong sự nương tựa, cưu mang lẫn nhau mà
sống. Tình vợ chồng, mẹ con sẽ là động lực giúp họ tăng sức mạnh vượt qua giai
đoạn ngặt nghèo trước mắt. Tình cảm ấy rất cần nhưng chưa đủ để đảm bảo cho ba
người một tương lai tốt đẹp hơn. Hiện tại, cuộc sống vẫn một màu xám xịt, đầy đe
dọa và chết chóc: Ngồi đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ
trên những cây gạo cao chót vót ngồi bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành
từng đám bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen…
Cái tài của tác giả là cứ nhẹ nhàng như khơng mà luồn lách ngịi bút động đến tận
nơi sâu thẳm của tâm hồn, bắt người ta phải cười, phải khóc, phải sống với nhân
vật của mình.
Trong suốt truyện, tác giả không một lần trực tiếp nhắc đến thực dân Pháp, phát xít
Nhật và bè lũ phong kiến tay sai nhưng tội ác của chúng vẫn hiển hiện, phơi bày
trên từng trang viết và được gói gọn trong câu nói đầy phẫn uất của bà mẹ già:
Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất

này khơng chắc đã sống qua được đâu các con ạ… Người con dâu nhắc chuyện
trên mạn ngược, Việt Minh phát động dân chúng khơng đóng thuế, lại cịn tổ chức
phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo… Điều ấy gợi cho Tràng nhớ tới cảnh
những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đơ Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ…
và tâm trí anh bị cuốn hút mãi bởi hình ảnh ấy.
Tràng chưa được giác ngộ cách mạng nên lúc chứng kiến cảnh đó anh thấy sợ. Giờ
hiểu ra, anh lại ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu… Bước đầu, anh thấy rằng cần phải
làm như thế vì khơng có cách nào khác. Tin rằng lần sau, trong đồn người phá kho
thóc của Nhật, thế nào cũng có mặt vợ chồng Tràng. Hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp
phới đem đến cho Tràng bao hi vọng vào sự đổi đời. Đó là ý nghĩa dự báo cách
mạng của tác phẩm này.
Truyện Vợ nhặt tiêu biểu cho phong cách viết độc đáo của nhà văn Kim Lân. Cốt
truyện đơn giản nhưng chặt chẽ. Trong truyện, người và cảnh đan xen, tương phản
với nhau. Bản chất đẹp đẽ bên trong tương phản với vẻ xấu xí bên ngồi, sự sống
tương phản với cái chết… Tất cả đều nhằm mục đích làm nổi bật chủ đề của
truyện.
Tác giả không miêu tả kĩ hiện thực tàn khốc lúc bấy giờ mà chú trọng đến việc thể
hiện vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái bề ngoài xác xơ vì đói khát của những
người nghèo khổ. Viết truyện này, tác giả bày tỏ thiện cảm sâu sắc đối với họ. Ơng
khẳng định sự đói khát, khơng tiêu diệt được bản tính tốt đẹp của con người, hiện
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

thực tăm tối khơng giết chết nổi niềm tin vào cuộc sống. Trong hoàn cảnh cơ cực,
đọa đày, họ vẫn nhen nhóm niềm tin, vẫn hi vọng vào sự đổi đời và một tương lai
tốt đẹp. Truyện gây ấn tượng mạnh với người đọc bởi tính chất nhân văn cao cả,
bởi ngôn ngữ mộc mạc, sinh động và giàu sức gợi tả. Tấm lòng của tác giả gửi gắm
trong truyện đáng quý biết chừng nào!


Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài số 2
Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và
những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng
người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác
phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện thành
công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng bút pháp tả
thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần
cùng giai đoạn đó.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào
nạn đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm,
“người chết như nga ra, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng
khơng gặp ba bốn cái thây nằm cịng queo bên đường. Khơng khí vấn lên mùi ẩm
thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả
được cái đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm.
Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống
của những điều khốn khổ, bần hàn nhất. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống
truyện thắt nút làm nên cuộc đời của từng nhân vật.
Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn
bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ
với vài chi tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh
nơng dân nghèo rách mùng tơi. Từ ngày nạn đói hồnh hành, đám trẻ con khơng
buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã khơng cịn sức lực. Khung cảnh buồn thiu, đầy ám
ảnh bao phủ lên xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ của Tràng được
tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái ao nâu tàng vắt sang một bên cánh
tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.
Với vài chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã vé lên trước mặt người đọc hình ảnh người
nơng dân nghèo đói, xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực.
Tác giả đã thật khéo để xây dựng nên tình huống truyện độc đáo, mới lạ, làm thay
đổi cuộc đời của một con người. Tình huống Tràng “nhặt” được vợ. Là “nhặt”


Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

được chứ khơng phải lấy được. Người đọc nhận ra sự thê thảm, bước đường cùng
và đầy éo léo của con người trong xã hội bấy giờ.
Hình anh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn đầy
ám ảnh “ thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng
nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Một người đàn bà nghèo
khổ, khơng cịn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng
là một đôi trời sinh.
Giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã xây dựng nên khung cảnh đìu
hiu, ảm đảm của xóm nghèo “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai
bên dãy phố, úp sụp, tối om, khơng nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa, gốc gạo
xù xì bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ
kêu trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Khơng cịn gì
thê thảm và hiu hắt hơn khung cảnh chiều tàn nơi xóm nghèo như vậy. Mọi thứ
dường như bị cái đói, cài nghèo đè nén đếm chìm nghỉm. Bằng ngịi bút tả thực
sinh động, Kim Lân đã gieo vào lịng người đọc nhiều chua xót, đắng cay cho
những phận nghèo long đong.
Điều đáng chú ý chính là cách những người hàng xóm hỏi thăm Tràng về người
đàn bà đi bên cạnh tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng hiểu ra, có
lẽ là vợ Tràng, “nhìn chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người đàn bà bắt khơng cịn
chua ngoa, đanh đá nữa mà trở nên thẹn thùng khi quyết định theo Tràng về làm
vợ.
Làm vợ một cách bất ngờ, giữa cảnh đói như ngả rạ. Có lẽ cái nghèo đói đã đẩy hai
con người đến với nhau, khơng phải tình u nhưng là tình thương. Hẳn người đọc
sẽ cảm thơng và xót thương cho những mảnh đời dật dờ nơi xóm ngụ cư.

Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến và
sự chuyển đổi trong tâm tinh thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn tấm
lòng một người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo
con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người đàn bà ở trong…” Sự
băn khoăn lo lắng của bà cụ bắt đầu hiển lên. Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu
“bà lão cúi đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lịng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra
bao nhiêu cơ sự, vừa ai ốn, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ơi người ta
dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên nổi, cịn mình…” Những suy
nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân diễn tả qua một loạt động từ tình thái khiến
cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.
Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Tình huống khiến người đọc nhớ
mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều khơng qn là hình
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu dầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo
cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “khơng cịn
gì giá trị nữa”. Bà cụ Tứ hơm nay thay đổi tâm trạng, tồn nói những chuyện vui
trong nhà, vì bà muốn mang lại khơng khí vui tươi hơn giữa cái nghèo. Hình ảnh
“nồi cháo cám” hiện lên bình dị, đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo. Ai
cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu
nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương
bà có thể mang lại cho con.
Đây là một chi tiết vô cùng đắt giá trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
khiến người đọc nhớ mãi. Bên cạnh đó hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện của
cuối truyện ngắn đã mang đến chút niềm tin và hi vọng về một tương lai tươi sáng
hơn.
Bằng ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, cách khắc họa tâm lý nhân vật sắc sảo,

độc đáo và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt người đọc khung
cảnh đói nghèo tràn lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Qua đó tác giả cũng
nhấn mạnh tình yêu thương giữa người với người ln bất diệt.

Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài số 3
Kim Lân một trong những nhà văn viết truyện ngắn từ năm 1941. Sáng tác của ông
tập trung phản ánh bức tranh của nơng thơn Việt Nam và hình tượng người nơng
dân. Dưới nịi bút tài hoa của Kim Lân, bức tranh hiện thực của nông thôn Việt
Nam cũng như nỗi niềm, cuộc sống, cảnh ngộ và khát vọng của người nông dân
được thể hiện chân thực và sinh động. “Vợ Nhặt” là một trong những tác phẩm
thành công của Kim Lân với cốt truyện độc đáo cùng với lối dẫn chuyện hóm hỉnh
hấp dẫn người đọc.
Lấy cảm hứng từ nạn đói năm 1945, nhà văn Kim Lân đã tái hiện lại hiện thực bức
tranh ngày đói ám ảnh trong từng câu chữ, từng trang văn của ông. Bằng ngòi bút
tả thực kết hợp Kim Lân đã tái hiện cảnh vật với xã xơ heo hút của ngã tư xóm chợ
về chiều, rồi “hai bên dãy phố, úp súp, tối om”,”cái nhà vắng teo đứng rúm ró một
mảnh vườn mọc lổn nhổn”…Từng ấy thơi ngịi bút của ơng đã tơ đậm lên bức
tranh u tối, với cảnh sống đói nghèo của nông thôn Bắc Bộ những năm 1945. Tất
cả hiện lên đều còm cõi, xác xơ, rách rưới. Ở đó khơng chỉ có cảnh vật mà con
người cũng hiện lên lụi tàn cùng cái đói, cái nghèo. Cái chết cũng được ghi lại
trong âm thanh thê thiết, tạo nên sự ghê sợ, rợn người. ở đó như đang dồn đuổi sự
sống của con người đến đường cùng. Âm thanh của tiếng quạ trên mấy cây gạo,
của tiếng hờn khóc tỉ tê và cả tiếng trống thúc thuế mỗi lúc một dồn dập hơn. Chỉ
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

vậy thơi mà nhà văn như tơ lại hiện thực tố cáo sự tàn ác của bọn phát xít, đế quốc
thực dân với những chính sách vơ cùng hà khắc, rẻ rúng mạng sống của con người.

Trong cái khơng gian ấy, hình ảnh con người được khắc họa lại khiến người đọc
khơng khỏi bàng hồng về cái đói năm 1945 ấy. Sử dụng những câu văn dài nhiều
vế, kết hợp với biện pháp liệt kê Kim Lân đặc tả hình ảnh người đó “bồng bế, dắt
díu nhau như những bóng ma, nằm ngổn ngang khắp lều chợ…”. Những người
sống đang lay lắt, dật dờ, sống một cuộc sống khơng phải cuộc sống của con
người. Người chết thì “như ngả rạ” và cái chết trở thành nỗi ám ảnh, đau đớn và
nhức nhối của biết bao con người. Có lẽ, chính vì thế mà nó thơi thúc Kim Lân
phản ánh lại bằng những trang văn đầy ám ảnh như vậy.

Phân tích truyện Vợ nhặt - Bài số 4
Kim Lân, nhà văn chuyên viết truyện ngắn, với biệt tài viết về người nông dân.
Người nông dân trong trang viết của Kim Lân dù nghèo khổ nhưng luôn sáng ngời
những phẩm chất: yêu đời, thật thà, chất phác, hóm hỉnh, tài hoa. Vợ nhặt là một
trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông khi viết về người nông dân.
Tác phẩm là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất nằm trong tập truyện “Con
chó xấu xí” (1962). Tác phẩm này trước vốn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” – được
viết ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công. Tuy nhiên chỉ được viết dở
dang và sau đó mất bản thảo. Đến năm 1954, khi hịa bình lập lại, nhân một số báo
văn nghệ kỉ niệm cách mạng tháng Tám thành cơng, Kim Lân đã nhớ lại tiểu
thuyết “Xóm ngụ cư”, dựa trên cốt truyện cũ viết lại thành truyện ngắn. Ngay từ
khi ra đời, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn trong giới sáng tác.
Tác phẩm lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu 1945, năm diễn ra nạn đói khủng
khiếp, khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Cái đói tràn lan, khủng khiếp diễn
ra ở khắp nơi khiến con người không thể nào chống cự được, tất cả những yếu tố
đó đã được Kim Lân tái hiện thành công trong tác phẩm của ông.
Trước hết là màu sắc, ông đi khai thác màu xanh xám của da người, màu đen kịt
của đàn quạ bay trên trời. Những màu sắc gợi lên sự chết chóc, ảm đạm, tàn lụi và
héo úa. Bao quanh khơng gian đó là mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác
người, mùi đốt đống dấm khét lẹt. Kết hợp với tiếng quạ kêu từng hồi, hòa lẫn với
tiếng khóc hờ từ những gia đình có người chết. Để làm rõ nét hơn, Kim Lân còn

cho người đọc thấy hình ảnh sáng nào cũng có ba bốn thây người nằm chết cịng
queo bên đường. Tình cảnh vơ cùng thảm thương, bất hạnh. Kim Lân nhìn nhận
hiện thực bằng cái nhìn chân thực, sắc nét, khơng né tránh, phơi bày tất cả trên
trang văn của mình, để người đọc thấy rõ cái khủng khiếp của nạn đói năm 1945.
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

Nhưng giá trị thật sự của tác phẩm là ở chỗ: từ trong bóng tối của cái đói, cái chết,
tác giả tìm thấy ánh sáng của vẻ đẹp tâm hồn con người.
Sau khi vẽ nên khung hình chung của nạn đói, nhân vật đầu tiên trong thiên truyện
xuất hiện, đồng thời cũng là nhân vật trung tâm của tác phẩm – anh cu Tràng.
Tràng vốn là dân ngụ cư, sống tha phương cầu thực, những người dân ngụ cư
thường bị phân biệt, kì thị, sống ở rìa làng, chứ không được sống trong trung tâm
của làng như những người khác. Khơng chỉ vậy, họ cịn khơng được chia ruộng đất,
không được tham gia bất cứ hoạt động sinh hoạt cộng đồng nào của làng xã. Anh
cu Tràng bị đặt ra ngồi lề xã hội. Khơng dừng lại ở đó, gia đình Tràng cịn rất
nghèo, cha mất, chỉ con hai mẹ con nương tựa vào nhau, vì khơng được chia ruộng
nên Tràng phải làm công việc bấp bênh để kiếm sống: kéo xe bò thuê.
Dường như số phận càng trở nên trớ trêu hơn, khi gia cảnh nghèo nàn, là người
ngụ cự, anh Tràng cịn có ngoại hình hết sức xấu xí. Hai mắt nhỏ tí gà gà đắm vào
bóng chiều, cịn hai bên quai hàm bạnh ra, khiến khn mặt càng to lớn hơn. Thân
hình to lớn vập vạp, như một người khổng lồ. Tràng còn vừa đi vừa lảm nhảm
những điều mình nghĩ và cứ thể ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Anh cu Tràng
hội tụ đầy đủ vẻ đẹp hấp dẫn lũ trẻ con, cịn với các cơ gái anh hồn tồn khơng có
chút hấp dẫn nào, cả về ngoại hình lẫn gia cảnh, anh cu Tràng khơng có khả năng
để lấy được vợ.
Nhưng trong một lần hát nghêu ngao trong lúc làm việc, anh cu Tràng đã lấy được
vợ một cách đầy bất ngờ và ngỡ ngàng. Trong lúc làm việc mệt nhọc, dân ta

thường có những câu hị để xua tan cái mệt, tăng động lực làm việc. Và anh cu
Tràng cũng vậy, anh cũng hát, lời hát hết sức bông đùa: “Muốn ăn cơm trắng với
giò. Lại đây mà đẩy xe bị với anh”. Lời nói ấy đã khiến thị theo anh cu Tràng về
làm vợ thật.
Trước khi đưa cô vợ về nhà, Tràng rất chu đáo, mua cho vợ một chiếc thúng con
mới, dẫn thị đi ăn một bữa thật no, mua những hai hào dầu để về thắp sáng trong
nhà. Anh cu Tràng từ một kẻ thô kệch, lúc nào cũng nói chuyện một mình và cười
hềnh hệch, hơm nay bỗng trở nên tâm lí và tinh tế lạ thường. Trên đường đi về
Tràng vui sướng, hớn hở, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười. Khuôn mặt vừa hạnh
phúc, rạng rỡ vừa vênh vênh tự đắc với chính mình. Cảnh sống cực khổ ê chề hàng
ngày, Tràng đã quên hẳn, mà chỉ sống trong niềm vui, niềm hạnh phúc khi lấy được
vợ. Bước chân đến nhà Tràng bỗng ngượng nghịu, xấu hổ, đứng tây ngây giữa nhà,
chợt thấy sờ sợ nhưng lại vừa hạnh phúc sung sướng khi việc mình lấy vợ đã trở
thành hiện thực. Điều Tràng mong ngóng nhất là đợi mẹ mình về nhà, để ra mắt
nàng dâu mới. Lời giới thiệu thị với mẹ cũng rất trân trọng, để nàng dâu bớt đi
Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188


Thư viện Đề thi - Trắc nghiệm - Tài liệu học tập miễn phí

phần ngượng ngùng, xấu hổ. Tràng đã thay đổi là một con người khác hẳn, tâm lí,
nhạy bén và rất khéo léo trong cách ăn nói. Dường như hạnh phúc mới này đã đem
đến sự thay đổi lớn trong tâm lí, suy nghĩ của anh cu Tràng.
Hạnh phúc đã khơi dậy ý thức bổn phận của người đàn ơng trong gia đình. Sáng
hơm sau, Tràng tỉnh dậy muộn, cảm thấy trong người dễ chịu, êm ái, như người đi
ra từ trong giấc mơ, anh ngỡ ngàng trước hạnh phúc mình đang nắm giữ. Tràng
quan sát khung cảnh đang bày ra trước mắt mình, nhận thấy cảnh tượng thay đổi
mới mẻ, khác lạ, nhà cửa không bừa bộn mà được dọn dẹp sạch sẽ, khơng khí gia
đình trở nên ấm áp, vui vẻ, mẹ và vợ chung tay dọn dẹp, vun vén nhà cửa. Trành
thấy thấm thía, cảm động và bỗng thấy yêu thương những người xung quanh, đồng

thời nhận thấy trách nhiệm của bản thân, phải biết lo lắng cho gia đình, vợ con. Và
sự ý thức đó đã được hiện thực hóa bằng hành động xăm xăm chạy ra sân, muốn
chung tay tu sửa căn nhà. Tràng muốn chung tay để nghênh đón tương lai tươi sáng
đến với gia đình. Đồng thời trong Tràng cũng bừng lên khát vọng đổi đời mãnh
liệt, anh biết quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội: mạn Thái Nguyên Bắc
Giang khơng đóng thuế mà cịn phá kho thóc Nhật cha cho người đói. Hình ảnh
đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới lẩn khuất, ẩn hiện trong trí óc Tràng.
Hình ảnh lá cờ chính là tín hiệu cho tương lai tươi sáng. Người đọc tin tưởng Tràng
sẽ đi theo Việt Minh, theo cách mạng.
Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lân trước hết phơi bày cuộc sống khổ cực của nhân
dân ta trong nạn đói 1945. Nhưng đằng sau đó cịn là sự cảm thương cho số phận
họ. Trân trọng, phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp của người dân Việt Nam trong tình
cảnh khốn cùng: tấm lịng nhân hậu, khát khao hạnh phúc, tin tưởng vào tương lai.
Bên cạnh nhân vật Tràng, ta cũng không thể không nhắc đến nhân vật người vợ
nhặt. Người vợ nhặt khơng có lai lịch rõ ràng, không rõ tên tuổi, quê quán, nghề
nghiệp và cũng khơng hề có tài sản gì khi lần đầu gặp Tràng. Có thể thấy rằng,
trong nạn đói khủng khiếp, thân phận con người trở nên hết sức vô nghĩa. Lần thứ
hai gặp Tràng, quần áo thị rác rưới, tả tơi như tổ đỉa, người gầy sọp đi vì đói, mặt
lưỡi cày xám ngt, ngực gầy và lép, hai con mắt sâu trũng hốy lại. Ngoại hình thị
vơ cùng thảm hại, do cái đói đã gây ra cho con người. Ngôn ngữ của thị cũng hết
sức chao chát, chỏng lỏn: “Điêu! Người thế mà điêu!”, “Ăn thật nhá”, “Hà, ngon.
Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”; rồi thì “Ton ton chạy lại”, “liếc mắt cười tít”,
“sầm sập chạy đến”, “xưng xỉa nói”, “cong cớn”, “cắm đầu ăn”, “ăn xong lấy đũa
quẹt một cái”. Thị tỏ ra là con người hết sức vô duyên, dường như cái đói, cái chết
có thể mài mịn nhân cách con người ta ghê gớm đến như vậy.

Trang chủ: | Email hỗ trợ: | Hotline: 024 2242 6188



×