Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

(TIỂU LUẬN) TIỂU LUẬN TRIẾT học PHÉP BIỆN CHỨNG về mâu THUẪN và vận DỤNG PHÂN TÍCH mâu THUẪN BIỆN CHỨNG TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.33 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
-------------•------------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MÂU THUẪN VÀ VẬN
DỤNG PHÂN TÍCH MÂU THUẪN BIỆN CHỨNG
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hương
Quỳnh
Mã SV: 2014210125
Lớp tín chỉ: A6 TRI114.3 (Khối 2
QTKD,K59)
Giảng viên hướng dẫn: TS. Bùi Thị
Thủy
1


Hà Nội, tháng 12 năm 2020.

MỤC LỤC
MỞ Đ\U………………………………………………………………......4
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. QUY LUẬT MÂU THUẪN CỦA PHÉP BIỆN
CHÚNG DUY
VẬT…………………………………………………………………..........6
1.1. Khái quát lịch sử phát triển của phép biện chứng……………....6

1.2. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật…………………7



1.3. Phép biện chứng về mâu thuẫn…………………………………10

CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG PHÂN TÍCH MÂU THUẪN BIỆN CHỨNG
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở NƯỚC TA……………………………….
……………………12
2.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng trưởng, phát triển kinh tế với sự
bất cập của cơ chế, chính sách khai thác nguồn lực hiện
nay…………….....12

2


2.2 Mâu thuẫn giữa tính ưu việt của nền kinh tế thị trường đinh
hướng XHCN với những hạn chế trong việc tìm ra quyết sách
khắc phục mặt trái của kinh tế thị
trường………………………………………………..13
2.3. Mâu thuẫn giữa tính tất yếu khách quan phải nâng cao sự đồng
thuận xã hội trong đổi đất nước với sự tấn công của các thế lực thù
địch trong và ngoài nước nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân
tộc……….....13
2.4. Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao tính tích cực chính trị với
lối sống thực dụng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân
dân…….....14
2.5.Mâu thuẫn giữa yêu cầu đẩy mạnh đổi mới hệ thống chính trị
với sự thiếu hụt trong những biện pháp mang tính đột phá trên lĩnh
vực này.14.
2.6. Mâu thuẫn giữa quá trình phát triển dân chủ với tình trạng
thiếu giá đỡ về lý luận và thực tiễn cho q trình

đó……………………………14
2.7. Mâu thuẫn giữa tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
với khả năng giữ vững độc lập tự chủ trong hội nhập và khắc
phục những tác động tiêu cực của hội
nhập…………………………………………………..14
KẾT
LUẬN…………………………………………………………………..16
TÀI LIỆU THAM
KHẢO…………………………………………………...17

3


MỞ Đ\U
1.1. Lý do chọn đề tài:
Nhà triết học Hêgen đã khẳng định: Cuộc sống tiến lên thông qua
những mâu thuẫn. Thực tiễn phát triển đất nước ta hiện nay một lần nữa
khẳng định tính đúng đắn của luận điểm đó.

Qua gần 20 năm đổi mới, nhờ đường lối đúng đắn của Đảng và tính
tích cực, sáng tạo của nhân dân, chúng ta đã đạt
4


được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đang từng bước được xây dựng. Nền dân
chủ XHCN với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đã được
thiết định trên những đường nét cơ bản. Nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, sự thống nhất trong đa dạng đã hình thành. Khối đại
đoàn kết toàn dân tộc mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân

với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức ngày càng được củng cố, thực
sự trở thành một động lực quan trọng của đổi mới đất nước…

Bên cạnh những thành tựu, tiến bộ đã đạt được sau gần 20 năm
đổi mới, vẫn còn những yếu kém, khuyết điểm làm gay gắt những mâu
thuẫn của q trình phát triển.
Để đưa cơng cuộc đổi mới tiếp tục tiến lên, chúng ta phải giải quyết
rất nhiều mâu thuẫn phức tạp. Xuất phát từ thực trạng đó, em quyết định
viết đề tài: “ Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích
mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã
hội Chủ
nghĩa



nước

ta”.

1.2. Mục đích, nhiệm vụ:
-

Hiểu khái niệm về mâu thuẫn, nền kinh tế thị trường XHCN.

-

Tìm hiểu về những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình chuyển

đổi sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
-


Vận dụng vẫn đề triết học về phép biện chứng trong nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
-

Từ đó đề xuất một số giải pháp để xây dựng nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa.

5


1.3. Kết cấu của tiểu luận:
Ngồi lời nói đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, tiểu luận cịn có
hai chương với 10 mục:
Chương 1: Quy luật mâu thuẫn của phép biện chứng duy vật
Chương 2: Vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

NỘI DUNG
1. Quy luật mâu thuẫn của phép biện chứng duy vật
6


1.1. Khái quát lịch sử phát triển của phép biện chứng
Phép biện chứng xuất hiện từ thời cổ đại, và từ đó đến nay lịch sử
phát triển của nó đã trải qua nhiều gian đoạn khác nhau gắn liền với sự
phát triển của khoa học và thực tiễn. Từ phép biện chứng mộc mạc, chất
phác thời cổ đại đã thể hiện rõ những tư tưởng biện chứng khá sâu sắc

như mối quan hệ quy định lẫn nhau tạo ra sự thống nhất giữa cái bất biến
với cái biến đổi, giữa cái duy nhất với số nhiều, bất kỳ sự vật nào cũng là
thể thống nhất của hai mặt đối lập vừa xung khắc nhau, vừa nương tựa
vào nhau, vừa bao hàm lẫn nhau. Thế giới vật chất tồn tại trong sự hình
thành, vận động vĩnh viễn của sự thống nhất giữa các mặt đối lập… Đặc
trưng cơ bản của phép biện chứng cổ đại là tính tự phát, ngây thơ. Cho
dù cịn nhiều hạn chế, nhưng nhìn chung phép biện chứng cổ đại đã coi
thế giới là chỉnh thế thống nhất giữa các bộ phận của thế giới có mối lien
hệ qua lại, thâm nhập, tác động và quy định lẫn nhau, thế giới không
ngừng vận động, biến đổi. Tiếp theo đó là phép biện chứng duy tâm trong
triết học cổ điển Đức và đỉnh cao là phép biện chứng duy tâm của
Hêghen. Về hình thức, phép biện chứng này bao quát cả 3 lĩnh vực: logic
thuần túy, tự nhiên, biện chứng của tồn bộ q trình lịch sử. Về nội dung,
phép biện chứng chia thành tồn tại, bản chất và khái niệm. Phép biện
chứng trong giai đoạn này là sự phát triển từ cái trừu tượng đến cái cụ
thể, từ chất này sang chất khác nhờ giải quyết mâu thuẫn. Phát triển
được coi là sự tự phát triển, và là nguyên lý cơ bản nhất của phép biện
chứng với phạm trù trung tâm là “tha hóa” và khẳng định “tha hóa được
diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc trong cả tự nhiên, xã hội và tinh thần”.

7


Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức thời kỳ này đã
xây dựng được hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh trong một chừng
mực nhất định và đã trở thành một phương pháp tư duy triết học phổ
biến. Tuy nhiên nó vẫn tồn tại một số mặt hạn chế nhất định và sau này
sẽ bị phủ định, thay thế bằng phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới
quan duy vật và phương pháp biện chứng, giữa lý luận nhận thức và logic

biện chứng. Sự ra đời của phép biện chứng duy vật là cuộc cách mạng
trong phương pháp tư duy triết học, là phương pháp tư duy khác về chất
so với những phương pháp tư duy trước đó. “Nó xem xét những sự vật và
những phản ánh của chúng trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn
nhau, trong sự rằng buộc, sự vẫn động, sự phát sinh và sự tiêu vong của
chúng”. Phép biện chứng duy vật thể hiện ở 2 nguyên lý, 6 cặp phạm trù
và 3 quy luật.

1.2. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật
1.2.1. Hai nguyên lý
a. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Các sự vật, hiện tượng trên thế giới dù có đa dạng, có khác nhau
đến thế nào đi chăng nữa thì cũng chỉ là những dạng cụ thể khác nhau
của một thế giới vật chất duy nhất. Nó có tác động qua lại, chuyển hóa lẫn
nhau tạo nên sự phát triển. Trong hoạt động thực tiễn, phải xem xét sự
vật, hiện tượng trong mối liên hệ phổ biến.
b. Nguyên lý về sự phát triển
Mọi sự vật hiện tượng đều vận động từ thấp đến cao, đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Quá
8


trình đó diễn ra làm cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng
vật chất mới ra đời. Phát triển là tự thân, có mặt trong cả tự nhiên, xã hội
và tư duy, rất đa dạng và phong phú. Động lực của sự phát triển là mâu
thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện tượng. Phát triển đi
theo đường xoáy ốc, cái mời dường như lặp lại một số điểm của cái cũ
nhưng trên cơ sở cao hơn.
1.2.2. Ba quy luật
a. Quy luật lượng chất

Mọi sự vật đều có lượng và chất. Lượng là tính quy định, thuộc tính
vốn có của sự vật. Chất là cái để phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự
vât, hiện tượng khác. Mối sự vật đều là sự thống nhất giữa chất và lượng.
Lượng biến đổi đạt tới điểm nút, phá vỡ độ cũ thì chất của sự vật thay đổi
căn bản. Sự vật biến thành sự vật khác. Lượng biến đổi, chưa đạt tới
mức phá vỡ độ thì chất của sự vật đã thay đổi cục bộ. Khi chất biến đổi
lại tác động ngược trở lại lượng làm lượng biến đổi hoặc lượng mới xuất
hiện. Sự chuyển hóa lượng – chất phụ thuộc vào những điều kiện nhất
định.
b. Quy luật phủ định của phủ định
Quy luật này chỉ ra khuynh hướng phát triển của sự vật. Quá trình
phủ định của phủ định tạo thành sự vận động phát triển khơng ngừng
mang tính chu kỳ của thế giới khách quan. Sau hai lần phủ định, sự vật
dường như lặp lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn. Phủ định là tự
phủ định và khuynh hướng diễn ra theo vịng trịn xốy ốc, nói lên tính
tiến lên và kế thừa trong sự phát triển.
c. Quy luật mâu thuẫn (thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập)

9


Quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng duy vật, nó chỉ ra
nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển. Mọi sự vật đều có
những mặt đối lập. Sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập tạo thành
mâu thuẫn bên trong của sự vật. Mâu thuẫn tồn tại khách quan, phổ biến
trong các sự vật, hiện tượng. Các mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu
tranh với nhau. Trong đó, thống nhất là tương đối, tạm thời, đấu tranh là
tuyệt đối, vĩnh viễn.
1.2.3. Sáu cặp phạm trù cơ bản
a. Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất

Sự vật, hiện tượng nào cũng có cái chung, cái riêng và cái đơn
nhất, chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng với
nhau, thông qua nhau mà thể hiện sự tồn tại của mình. Nó mang tính chất
tương đối và trong những điều kiện nhất định chúng có thể chuyển hóa
cho nhau.
b. Nguyên nhân và kết quả
Mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân, mỗi một nguyên nhân
thì sinh ra một kết quả. Ngun nhân ln có trước kết quả. Giữa ngun
nhân, kết quả ln có mối liên hệ qua lại, quy định lẫn nhau. Một sự vật,
hiện tượng ở trong mối quan hệ này là nguyên nhân, nhưng lại là kết quả
ở trong mối quan hệ khác và ngược lại tạo nên chuỗi nhân quả vô tận.
Nguyên nhân và kết quả chỉ mang tính chất tương đối và được xem xét ở
trong một mối quan hệ cụ thể.
c. Tất nhiên và ngẫu nhiên
Tất nhiên là phạm trù chỉ mối liên hệ xuất phát bên trong của sự vật
trong những điều kiện nhất định phải xảy ra như thế. Ngẫu nhiên do mỗi
liên hệ khơng bản chất, do những ngun nhân, hồn cảnh bên ngồi quy
định, có thể xuất hiện, khơng
10


xuất hiện, xuất hiện thế này hoặc xuất hiện thế khác. Ranh giới giữa tất
nhiên và ngẫu nhiên có tính chất tương đối. Trong điều kiện nhất định hai
cái có thể chuyển hóa lẫn nhau. Giữa ngẫu nhiên và tất nhiên có mối liên
hệ biện chứng lẫn nhau. Cái tất nhiên biểu hiện thông qua vô số cái ngẫu
nhiên. Tất nhiên đóng vai trị chi phối sự phát triển, cịn ngẫu nhiên làm
cho sự phát triển diễn ra nhanh hoặc chậm trong hình thức này hay hình
thức khác.
d. Nội dung và hình thức
Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố tạo nên sự

vật, hiện tượng. Hình thức là phương pháp tồn tại của nội dung. Giữa nội
dung và hình thức có mối liên hệ qua lại, quy định lẫn nhau, trong đó nội
dung giữ vài trị quy định hình thức. Nội dung thay đổi thì hình thức cũng
phải thay đổi cho phù hợp. Tuy nhiên hình thức cũng có tính độc lập
tương đối và tác động tích cực trở lại nội dung. Khi phù hợp nó là động
lực thúc đẩy nội dung phát triển, cịn khơng phù hợp, nó sẽ cản trở sự
phát triển của nội dung. Một nội dung có thể thể hiện dưới nhiều hình
thức và ngược lại, một hình thức có thể phù hợp với nhiều nội dung khác
nhau.
e. Bản chất và hiện tượng
Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên
tương đối ổn định bên trong, quy định sự tồn tại, vận động và phát triển
của sự vật. Sự vật là những biểu hiện bên ngoài. Bản chất và hiện tượng
căn bản thống nhất biện chứng với nhau. Bản chất tương đối ổn định, còn
hiện tượng thường xuyên biến đổi.
f. Khả năng và hiện thực

11


Khả năng là cái hiện chưa xảy ra nhưng sẽ xảy ra khi có các điều
kiện thích hợp. Hiện thực là cái đang có, đang tồn tại thực sự. Trong hiện
thực bao giờ cũng chứa đựng những khả năng nhất định, ngược lại khả
năng lại nằm trong hiện thực và khi đủ điều kiện sẽ biến thành hiện thực
mới. Mối quan hệ giữa khả năng và hiện thực diễn ra rất phức tạp. Mỗi sự
vật đều có nhiều khả năng, xuất hiện trong quá trình vận động và phát
triển của nó. Nhưng bản thân khả năng cũng ln ln vận động và biến
đổi không ngừng. Từ khả năng đến hiện thực phải thơng qua một tập hợp
điều kiện thích hợp.


1.3. Phép biện chứng về mâu thuẫn
Mỗi sự vật, hiện tượng là một tổng thể của những mâu thuẫn khác
nhau. Mỗi mâu thuẫn có một vai trị nhất định đối với quá trình phát sinh,
phát triển tất yếu của sự vật, hiện tượng chứa đựng chúng. Theo nguyên
lý về mối liên hệ phổ biến, các mâu thuẫn cùng tồn tại trong một sự vật,
hiện tượng phải tác động, ảnh hưởng lẫn nhau. Và sự tác động, ảnh
hưởng này tạo thành một tổng hòa tác dụng của chúng. Sự thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập trong từng mâu thuẫn chỉ có thể diễn ra
trong tổng hịa tác dụng của tất cả các mâu thuẫn cùng tồn tại trong một
chỉnh thể. Vai trò động lực của mâu thuẫn đối với chủ thể chỉ có thể phát
huy tác dụng thơng qua tổng hịa tác dụng của chúng. Như vậy mâu
thuẫn khơng tác động đến chủ thể trong trạng thái riêng lẻ, đơn chiếc.
Động lực phát triển bao giờ cũng là một tổng hịa tác dụng của tất cả các
mâu thuẫn.
Q trình phát triển tất yếu của sự vật hiện tượng không chỉ chịu
ảnh hưởng của riêng một mâu thuẫn nào, dù đó là mâu thuẫn quan trọng
nhất, mà chịu tác động của tất cả các mâu thuẫn chứa đựng trong nó.
Chính tổng hợp tác động này là động
12


lực của quá trình phát triển. Các mâu thuẫn bên ngồi của sự vật có thể
tác động đến sự phát triển của sự vật đó thơng qua các mâu thuẫn bên
trong của nó. Tức là mâu thuẫn bên ngồi tác động đến mâu thuẫn bên
trong làm cho các mâu thuẫn này biến đổi, và đến lượt chúng, chính các
mâu thuẫn bên trong của sự vật làm biến đổi chủ thể của chúng. Xét trong
một điều kiện nhất định thì mâu thuẫn bên ngồi và mâu thuẫn bên trong
có thể chuyển hóa cho nhau, mâu thuẫn bên ngồi của sự vật này cũng là
mâu thuẫn bên trong của sự vật kia. Triết học duy vật biện chứng khẳng
định: các mặt đối lập cùng tồn tại với nhau trong một mâu thuẫn nhưng

vận động theo những phương hướng đối lập nhau, nên chúng bài trừ lẫn
nhau, phủ định lẫn nhau. Từ đó có thể thấy rằng đấu tranh chỉ có thể diễn
ra giữa các mặt đối lập, gắn bó với nhau một cách hợp quy luật khách
quan trong một mâu thuẫn xác định, khơng có thể có sự đấu tranh giữa
các sự vật hiện tượng bất kỳ mà sự tồn tại của chúng hồn tồn khơng
phải là kết quả của sự phân cực. Đấu tranh của các mặt đối lập bắt đầu
từ sự thống nhất của chúng. Chừng nào sự thống nhất của các mặt đối
lập khơng cịn nữa thì sự đấu tranh của chúng cũng chấm dứt.

Sự tác động ảnh hưởng lẫn nhau giữa các mâu thuẫn có ý nghĩa to
lớn. Nó địi hỏi người hoạt động thực tiễn, khi giải quyết bất kỳ mâu thuẫn
nào của đời sống, phải cân nhắc thần trọng đến ảnh hưởng của hoạt
động giải quyết mâu thuẫn này đối với các mâu thuẫn khác và tác động
ngược lại từ các mâu thuẫn khác đối với các mâu thuẫn được giải quyết.
Mâu thuẫn không chỉ được hình thành từ thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập. Nó cịn nhất thiết phải được hình thành từ sự thống
nhất, theo nghĩa loại trừ đối lập, của các phần
13


tử không đối lập nhau. Logic của kết luận là: để có mâu thuẫn phải có mặt
đối lập, để có mặt đối lập phải có mặt khơng đối lập. Từ đó nổi lên mối
quan hệ biện chứng quan trọng là: đối lập phải được hình thành từ khơng
đối lập
Mối quan hệ thống nhất, đấu tranh giữa các mặt đối lập cịn có một
nghĩa khác: đấu tranh giữa các mặt đối lập có tác dụng trở lại đối với sự
thống nhất giữa các mặt đối lập. Để có sự thống nhất giữa các mặt đối lập
thì phải có các mặt đối lập. Nhưng các mặt đối lập trong một mâu thuẫn
chỉ có thể tồn tại trong sự đấu tranh của chúng. Trong đấu tranh các mặt
đối lập không ngừng loại trừ lẫn nhau nhưng đồng thời cũng không ngừng

tự khẳng định mình, do đó cả hai mặt đối lập đều được kích thích, tăng
cường vận động và phát triển. Chính đó, đấu tranh là phương thức tồn tại
của sự vật. Chúng ta hiểu tồn tại không phải là tồn tại biệt lập, cách biệt
với thế giới bên ngoài, mà là khẳng định mình trong sự tác động, ảnh
hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng khác nhau, đối lập nhau.
Quan điểm này là quan trọng. Sự đấu tranh giữa các cực là một phương
pháp của sự phân cực. Ta vẫn quan niệm đấu tranh giữa các mặt đối lập
là để giải quyết mâu thuẫn, mà khi mâu thuẫn được giải quyết thì các mặt
đối lập của mâu thuẫn khơng tồn tại nữa

– chúng bị tiêu diệt hoặc chuyển hóa thành các mặt đối lập khác. Vậy
quan niệm cho rằng đấu tranh giữa các mặt đối lập là điều kiện để khẳng
định sự tồn tại của các mặt đối lập có trái với quan niệm được thừa nhận
không? Về thực chất thì các quan niệm này khơng trái ngược với nhau.
Các mặt đối lập nào thực sự tiêu biểu cho xu thế phát triển của cái mới,
của cái tiến bộ thì tồn tại và phát triển cao hơn, còn ngược lại cái nào
khơng có

14


đủ sức tồn tại thêm nữa thì phải chấm dứt. Đó là nguyên tác phát triển
chung của sự vật.
Như vậy từ mối liên hệ của sự đấu tranh giữa các mặt đối lập với
sự thống nhất của các mặt đối lập có thể rút ra kết luận: sự thống nhất
giữa các mặt đối lập không thể hiểu đơn giản sơ lược, chỉ diễn ra một lần.
Theo tinh thần biện chứng, đây là một quá trình vận động, phát triển, một
quá trình đấu tranh lâu dài.
2.


Vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
2.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng trưởng, phát triển kinh tế với sự
bất cập của cơ chế, chính sách khai thác nguồn lực hiện nay.
Để đạt mục tiêu đến năm 2015 thốt khỏi tình trạng một nước kém
phát triển, tốc độ phát triển kinh tế thời gian tới phải đạt mức trung bình
khoảng 8%/năm. Chỉ bằng cơ chế, chính sách như hiện nay, chúng ta khó
có thể thực hiện phát triển đột biến về khả năng khai thác những tiềm
năng lớn về tài nguyên, lao động trong nước, về khả năng tận dụng
những cơ hội quốc tế để gia tăng mạnh và sử dụng tốt các nguồn lực từ
bên ngoài. Nền kinh tế hiện vẫn rất dễ bị tổn thương trước tác động
không lớn lắm của những biến đổi kinh tế bên ngoài. Khoảng cách về
kinh tế giữa nước ta với nhiều nước trong khu vực và thế giới ngày càng
mở rộng. Sự tụt hậu trên lĩnh vực này chưa được ngăn chặn.

2.2. Mâu thuẫn giữa tính ưu việt của nền kinh tế thị trường đinh
hướng XHCN với những hạn chế trong việc tìm ra quyết sách khắc
phục mặt trái của kinh tế thị trường.
15


Tính ưu việt của q trình phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa phải được thể hiện ngày càng đậm nét trước hết
và chủ yếu ở khả năng bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh
tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội, trong khi
đó, chúng ta chưa tìm được những giải pháp hữu hiệu để giải quyết
những hậu quả xã hội do tác động tiêu cực của những mặt trái thuộc kinh
tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế gây ra. Nhiều vấn đề xã hội có xu
hướng ngày càng gay gắt. Đặc biệt, điều làm cho nhân dân hết sức bất

bình, lo lắng là tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu dân, suy
thối về tư tưởng chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của .một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên rất nghiêm trọng. Văn hoá lai căng có
xu hướng phát triển. Hiện tượng ma chay, cưới xin, hội hè với nhiều hủ
tục được khôi phục ở nhiều nơi. Đạo lý xã hội, gia đình xuống cấp. Tình
huống mất ổn định cục bộ có khả năng xảy ra nhiều hơn, mức độ phức
tạp của tình hình gia tăng hơn… Chúng ta chưa tìm được những phương
hướng ngăn chặn có hiệu quả tình trạng đó.

2.3. Mâu thuẫn giữa tính tất yếu khách quan phải nâng cao sự đồng
thuận xã hội trong đổi đất nước với sự tấn cơng của các thế lực thù
địch trong và ngồi nước nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.
Sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân là một
điều kiện tất yếu để đưa công cuộc đổi mới tiến lên mạnh mẽ hơn.
Nhưng, cùng với những yếu kém của chính chúng ta, thì sự tác động của
các thế lực thù địch nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hồ bình” đối
với nước ta bằng nhiều con đường, nhiều biện pháp và phương tiện, cả
trực tiếp lẫn
16


gián tiếp qua một số phần tử cơ hội về chính trị để chống phá trên lĩnh
vực tư tưởng -lý luận đã làm cho một bộ phận cán bộ, Đảng viên và nhân
dân phân tâm… Chúng ta có phần cịn lúng túng, hữu khuynh trong cuộc
đấu tranh trên lĩnh vực này.
2.4. Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao tính tích cực chính trị với lối
sống th g ực dụng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân
dân.
Trong khi cuộc sống đòi hỏi phải thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của

nhân dân, phát huy đóng góp của nhân dân vào việc hoàn thiện và tổ
chức thực hiện đường lối đổi mới, thì tình trạng thờ Ơ chính trị, chỉ lo vun
vén cho lợi ích của bản thân và gia đình, lối sống thực dụng chạy theo
đồng tiền của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân có chiều
hướng gia tăng. Chúng ta chưa tìm được cách để khắc phục tình hình
này với hiệu quả cao.

2.5. Mâu thuẫn giữa yêu cầu đẩy mạnh đổi mới hệ thống chính trị
với sự thiếu hụt trong những biện pháp mang tính đột phá trên lĩnh
vực này.
Cơng cuộc đổi mới kinh tế đã phát triển tới mức đòi hỏi phải đẩy
mạnh hơn nữa việc đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động của hệ
thống chính trị, sự kết hợp hài hồ hơn nữa giữa các bộ phận cấu thành
hệ thống đó, song, chúng ta chưa có những đột phá trên lĩnh vực này. Đã
có nhiều nghị quyết, nhiều chủ trương chống quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, nhưng hiệu quả thực tiễn cịn thấp. Bộ máy của hệ thống chính trị
cịn q cồng kềnh, cơ chế vận hành chưa thật khoa học, tình trạng lẫn
lộn chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị
cịn xuất hiện ở nhiều cấp, nhiều địa phương. Việc thực

17


hiện luật pháp, kỷ cương khơng nghiêm. Nhiều nơi cịn vi phạm quyền
làm chủ của nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công chức chưa đủ mạnh,
phương pháp hoạt động của nhiều cán bộ đảng, đồn thể cịn trong tình
trạng viên chức hố… Sự yếu kém đó, nếu khơng được khắc phục có
hiệu quả, thì một số phương diện của hệ thống chính trị sẽ trở thành lực
cản lớn đối với đổi mới trên lĩnh vực kinh tế.


2.6. Mâu thuẫn giữa quá trình phát triển dân chủ với tình trạng thiếu
giá đỡ về lý luận và thực tiễn cho quá trình đó.
Dân chủ hố đời sống xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
đổi mới. Nhưng chúng ta chưa tìm được những giải pháp tất nhất để xác
lập vững chắc quan điểm khoa học về dân chủ phù hợp với điều kiện một
Đảng duy nhất cầm quyền, không đa ngun về chính trị, khơng tổ chức
quyền lực Nhà nước theo nguyên tắc phân quyền, chưa tìm được những
cơ chế và hình thức thực hiện dân chủ thích hợp với truyền thống văn
hố chính trị, với trình độ dân trí, trình độ văn hố chung của nhân dân.
Dân chủ trong Đảng, trong xã hội và ở cơ sở tuy đã được nhấn mạnh
trong nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng và các văn bản pháp quy của
Nhà nước, nhưng kết quả đạt được trên thực tế còn nhiều hạn chế. Cải
cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp. Chưa
có cơ chế để bảo đảm quyền lực Nhà nước thực sự thuộc về nhân dân,
vai trò giám sát thực hiện quyền kiểm tra của nhân dân đối với chính
quyền và cán bộ, Đảng viên cịn mờ nhạt.

2.7. Mâu thuẫn giữa tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với
khả năng giữ vững độc lập tự chủ trong hội
18


nhập và khắc phục những tác động tiêu cực của hội nhập.

Hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế là một nhân tố tất yếu để phát triển,
nhưng chúng ta còn thiếu nhất quán và lúng túng, bị động trong việc xử
lý mối quan hệ giữa mặt tích cực và tiêu cực của quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế, giữa độc lập tự chủ về kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế,
lúng túng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa hội nhập đồng thời
nhiều cấp độ hơn, sâu hơn, rộng hơn, đa dạng hơn… với việc giữ vững.


KẾT LUẬN
“Cuộc sống tiến lên thông qua những mâu thuẫn. Những mâu thuẫn
sinh động thì mn hình, mn vẻ, dồi dào hơn nhiều so với điều mà
người ta suy nghĩ ban đầu” (Hêgen). Một số mâu thuẫn và vấn đề có tính
mâu thuẫn nêu trên khơng phải là tất cả những mâu thuẫn đang có trong
q trình đổi mới hiện nay ở nước ta. Song, việc điểm danh một cách đại
thể như vậy cũng đủ cho chúng ta thấy tính phức tạp của tình hình mà
chúng ta đang phải giải quyết.

Việc giải quyết có hiệu quả những mâu thuẫn và những vấn đề có
tính mâu thuẫn trên đây là một điều kiện căn bản để nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát
19


huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện cơng cuộc đổi mới, sớm
đưa nước ta thốt khỏi tình trạng kém phát triển.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Giáo trình Triết học” – dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh

không thuộc chuyên ngành Triết học – Bộ giáo dục và đào tạo – NXB
Chính trị- Hành chính – 2008
2. “ Đổi mới ở Việt Nam – nhớ lại và suy ngẫm” – GS.TS Phạm Ngọc

Quang – NXB Tri thức – 2008

20



3. “ Biện chứng của mâu thuẫn – nhận thức mới về quy luật mâu thuẫn” –

Lê Đức Quảng – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội – 200
4. “ Mác- Anghen tồn tập” – NXB Chính trị, Quốc gia 1997 bản sắc văn

hoá dân tộc.

21


22



×