Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

(TIỂU LUẬN) TIỂU LUẬN TRIẾT học đề tài PHÉP BIỆN CHỨNG về mâu THUẪN và vận DỤNG PHÂN TÍCH mâu THUẪN BIỆN CHỨNG TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.3 KB, 15 trang )

ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

ĐỀ TÀI:
PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ MÂU THUẪN VÀ VẬN DỤNG
PHÂN TÍCH MÂU THUẪN BIỆN CHỨNG TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHU
NGHĨA Ở NƯỚC TA

Sinh viên thực hiện: Lương Ngọc Thanh Thắm
Mã sinh viên: 2111210626
Số thứ tự: 100
Lớp tín chỉ: TRI114.4
Giáo viên hướng dẫn: TS ĐÀO THỊ TRANG

Hà Nội, 11/2021

1


MỤC LỤC
MỤC LỤC........................................................................................................................................................ 2
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................................................ 3
NỘI DUNG...................................................................................................................................................... 4
I. Quy luật mâu thuẫn của phép biện chứng duy vật........................................................... 4
1. Khái quát lịch sử phát triển của phép biện chứng............................................................ 4
2. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật................................................................. 5
3. Phép biện chứng về mâu thuẫn............................................................................................... 7
II. Vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định


hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta........................................................................................................ 9
1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng trưởng, phát triển kinh tế với sự bất cập của cơ chế,
chính sách khai thác nguồn lực hiện nay.............................................................................................. .9
2. Mâu thuẫn giữa tính ưu việt của nền kinh tế thị trường đinh hướng XHCN với

những hạn chế trong việc tìm ra quyết sách khắc phục mặt trái của kinh tế thị
trường................................................................................................................................................................ 10
3. Mâu thuẫn giữa tính tất yếu khách quan phải nâng cao sự đồng thuận xã hội trong

đổi đất nước với sự tấn công của các thế lực thù địch trong và ngoài nước nhằm phá hoại
khối đại đoàn kết toàn dân tộc................................................................................................................. 10
4. Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao tính tích cực chính trị với lối sống thực dụng
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân........................................................................... 10
5. Mâu thuẫn giữa yêu cầu đẩy mạnh đổi mới hệ thống chính trị với sự thiếu hụt
trong những biện pháp mang tính đột phá trên lĩnh vực này....................................................... 11
6. Mâu thuẫn giữa quá trình phát triển dân chủ với tình trạng thiếu giá đỡ về lý luận
và thực tiễn cho q trình đó.................................................................................................................... 11
7. Mâu thuẫn giữa tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với khả năng giữ

vững độc lập tự chủ trong hội nhập và khắc phục những tác động tiêu cực của hội
nhập................................................................................................................................................................... 12
KẾT LUẬN................................................................................................................................................... 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................................... 15

2


LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình vận động và phát triển của sự vật hiện tượng luôn xảy ra mâu thuẫn.
Nhà triết học Hêgen cũng đã khẳng định: Cuộc sống tiến lên thơng qua những mâu thuẫn.


Đó là mâu thuẫn giữa các yếu tố trong bản thân hay giữa các sự vật với nhau.
Qua nhiều năm đổi mới, nhờ đường lối đúng đắn của Đảng và tính tích cực, sáng
tạo của nhân dân, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang từng bước được xây dựng. Nền dân
chủ XHCN với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đã được thiết định trên
những đường nét cơ bản. Nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, sự thống nhất
trong đa dạng đã hình thành. Khối đại đồn kết tồn dân tộc mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức ngày càng được củng
cố, thực sự trở thành một động lực quan trọng của đổi mới đất nước…
Tuy nhiên, bên cạnh những tiến bộ và thành tựu đáng nể đó, vẫn tồn tại đâu đó
những mâu thuẫn kìm hãm sự phát triển của đất nước, ví dụ: sự phân hóa giàu nghèo, hối
lộ, ơ nhiễm mơi trường, tệ nạn xã hội… Đấy là những hạn chế cần có đường lối và giải
pháp mạnh để khắc phục để thúc đẩy sự phát triển của nước ta, đưa Việt Nam thành một
đất nước với nền kinh tế thị trường, sóng vai cùng các cường quốc trên năm châu.
Để đưa công cuộc đổi mới tiếp tục tiến lên, chúng ta phải giải quyết rất nhiều mâu
thuẫn phức tạp. Xuất phát từ thực trạng đó, em quyết định viết để tài: “Phép biện chứng
về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường
định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta”. Vì kinh nghiệm cịn hạn chế, bài tiểu luận cịn
nhiều thiếu sót, em mong nhận được góp ý từ thầy cơ để bài viết được hoàn thiện hơn.
Em xin cảm ơn!

3


NỘI DUNG
I. Quy luật mâu thuẫn của phép biện chứng duy vật
1. Khái quát lịch sử phát triển của phép biện chứng
Phép biện chứng xuất hiện từ thời cổ đại, và từ đó đến nay lịch sử phát triển của
nó đã trải qua nhiều gian đoạn khác nhau gắn liền với sự phát triển của khoa học và thực

tiễn. Từ phép biện chứng mộc mạc, chất phác thời cổ đại đã thể hiện rõ những tư tưởng
biện chứng khá sâu sắc như mối quan hệ quy định lẫn nhau tạo ra sự thống nhất giữa cái
bất biến với cái biến đổi, giữa cái duy nhất với số nhiều, bất kỳ sự vật nào cũng là thể
thống nhất của hai mặt đối lập vừa xung khắc nhau, vừa nương tựa vào nhau, vừa bao
hàm lẫn nhau. Thế giới vật chất tồn tại trong sự hình thành, vận động vĩnh viễn của sự
thống nhất giữa các mặt đối lập… Đặc trưng cơ bản của phép biện chứng cổ đại là tính tự
phát, ngây thơ. Cho dù cịn nhiều hạn chế, nhưng nhìn chung phép biện chứng cổ đại đã
coi thế giới là chỉnh thế thống nhất giữa các bộ phận của thế giới có mối lien hệ qua lại,
thâm nhập, tác động và quy định lẫn nhau, thế giới không ngừng vận động, biến đổi. Tiếp
theo đó là phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức và đỉnh cao là phép biện
chứng duy tâm của Hêghen. Về hình thức, phép biện chứng này bao quát cả 3 lĩnh vực:
logic thuần túy, tự nhiên, biện chứng của toàn bộ quá trình lịch sử. Về nội dung, phép
biện chứng chia thành tồn tại, bản chất và khái niệm. Phép biện chứng trong giai đoạn
này là sự phát triển từ cái trừu tượng đến cái cụ thể, từ chất này sang chất khác nhờ giải
quyết mâu thuẫn. Phát triển được coi là sự tự phát triển, và là nguyên lý cơ bản nhất của
phép biện chứng với phạm trù trung tâm là “tha hóa” và khẳng định “tha hóa được diễn
ra ở mọi nơi, mọi lúc trong cả tự nhiên, xã hội và tinh thần”.
Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức thời kỳ này đã xây dựng
được hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh trong một chừng mực nhất định và đã trở
thành một phương pháp tư duy triết học phổ biến. Tuy nhiên nó vẫn tồn tại một số mặt
hạn chế nhất định và sau này sẽ bị phủ định, thay thế bằng phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và
phương pháp biện chứng, giữa lý luận nhận thức và logic biện chứng. Sự ra đời của phép
biện chứng duy vật là cuộc cách mạng trong phương pháp tư duy triết học, là phương pháp
tư duy khác về chất so với những phương pháp tư duy trước đó. “Nó xem xét những sự vật
và những phản ánh của chúng trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau, trong sự
4


rằng buộc, sự vẫn động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”. Phép biện chứng duy

vật thể hiện ở 2 nguyên lý, 6 cặp phạm trù và 3 quy luật.
2. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật
2.1. Hai nguyên lí
2.1.1. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến khái quát toàn cảnh thế giới trong những mối
liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tương. Tính vơ hạn của thế giới, cũng như tính vơ
lượng của các sự vật, hiện tượng đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến,
được quy định bằng các mối liên hệ có hình thức, vai trị khác nhau. Trong hoạt động
thực tiễn, phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ phổ biến.
2.1.2. Nguyên lí về sự phát triển
Mọi sự vật hiện tượng đều vận động từ thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp, từ
kém hồn thiện đến hồn thiện hơn. Q trình đó diễn ra làm cho sự vật, hiện tượng cũ
mất đi, sự vật, hiện tượng vật chất mới ra đời. Phát triển là tự thân, có mặt trong cả tự
nhiên, xã hội và tư duy, rất đa dạng và phong phú. Động lực của sự phát triển là mâu
thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện tượng. Phát triển đi theo đường xoáy
ốc, cái mời dường như lặp lại một số điểm của cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
2.2. Ba quy luật
2.2.1. Quy luật lượng chất
Mọi sự vật đều có lượng và chất. Lượng là tính quy định, thuộc tính vốn có của sự
vật. Chất là cái để phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vât, hiện tượng khác. Mối sự
vật đều là sự thống nhất giữa chất và lượng. Lượng biến đổi đạt tới điểm nút, phá vỡ độ
cũ thì chất của sự vật thay đổi căn bản. Sự vật biến thành sự vật khác. Lượng biến đổi,
chưa đạt tới mức phá vỡ độ thì chất của sự vật đã thay đổi cục bộ. Khi chất biến đổi lại
tác động ngược trở lại lượng làm lượng biến đổi hoặc lượng mới xuất hiện. Sự chuyển
hóa lượng – chất phụ thuộc vào những điều kiện nhất định.
2.2.2. Quy luật phủ định của phủ định
Quy luật này chỉ ra khuynh hướng phát triển của sự vật. Quá trình phủ định của phủ
định tạo thành sự vận động phát triển khơng ngừng mang tính chu kỳ của thế giới khách
quan. Sau hai lần phủ định, sự vật dường như lặp lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn.


5


Phủ định là tự phủ định và khuynh hướng diễn ra theo vịng trịn xốy ốc, nói lên tính
tiến lên và kế thừa trong sự phát triển.
2.2.3. Quy luật mâu thuẫn (thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập)
Quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng duy vật, nó chỉ ra nguồn gốc, động lực
của sự vận động, phát triển. Mọi sự vật đều có những mặt đối lập. Sự tác động qua lại giữa
các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn bên trong của sự vật. Mâu thuẫn tồn tại khách quan, phổ
biến trong các sự vật, hiện tượng. Các mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau.
Trong đó, thống nhất là tương đối, tạm thời, đấu tranh là tuyệt đối, vĩnh viễn.

2.3. Sáu cặp phạm trù cơ bản
2.3.1. Cái riêng, cái chung, và cái đơn nhất
Sự vật, hiện tượng nào cũng có cái chung, cái riêng và cái đơn nhất, chúng tồn tại
không tách rời nhau mà tác động biện chứng với nhau, thông qua nhau mà thể hiện sự
tồn tại của mình. Nó mang tính chất tương đối và trong những điều kiện nhất định chúng
có thể chuyển hóa cho nhau.
2.3.2. Nguyên nhân và kết quả
Mọi sự vật, hiện tượng đều có ngun nhân, mỗi một ngun nhân thì sinh ra một
kết quả. Ngun nhân ln có trước kết quả. Giữa ngun nhân, kết quả ln có mối liên
hệ qua lại, quy định lẫn nhau. Một sự vật, hiện tượng ở trong mối quan hệ này là nguyên
nhân, nhưng lại là kết quả ở trong mối quan hệ khác và ngược lại tạo nên chuỗi nhân quả
vô tận. Nguyên nhân và kết quả chỉ mang tính chất tương đối và được xem xét ở trong
một mối quan hệ cụ thể.
2.3.3. Tất nhiên và ngẫu nhiên
Tất nhiên là phạm trù chỉ mối liên hệ xuất phát bên trong của sự vật trong những
điều kiện nhất định phải xảy ra như thế. Ngẫu nhiên do mỗi liên hệ không bản chất, do
những ngun nhân, hồn cảnh bên ngồi quy định, có thể xuất hiện, không xuất hiện,
xuất hiện thế này hoặc xuất hiện thế khác. Ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên có tính

chất tương đối. Trong điều kiện nhất định hai cái có thể chuyển hóa lẫn nhau. Giữa ngẫu
nhiên và tất nhiên có mối liên hệ biện chứng lẫn nhau. Cái tất nhiên biểu hiện thông qua
vô số cái ngẫu nhiên. Tất nhiên đóng vai trị chi phối sự phát triển, còn ngẫu nhiên làm
cho sự phát triển diễn ra nhanh hoặc chậm trong hình thức này hay hình thức khác.
2.3.4. Nội dung và hình thức
Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng. Hình
thức là phương pháp tồn tại của nội dung. Giữa nội dung và hình thức có mối liên hệ
6


qua lại, quy định lẫn nhau, trong đó nội dung giữ vài trị quy định hình thức. Nội dung
thay đổi thì hình thức cũng phải thay đổi cho phù hợp. Tuy nhiên hình thức cũng có tính
độc lập tương đối và tác động tích cực trở lại nội dung. Khi phù hợp nó là động lực thúc
đẩy nội dung phát triển, cịn khơng phù hợp, nó sẽ cản trở sự phát triển của nội dung.
Một nội dung có thể thể hiện dưới nhiều hình thức và ngược lại, một hình thức có thể
phù hợp với nhiều nội dung khác nhau.
2.3.5. Bản chất và hiện tượng
Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn
định bên trong, quy định sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Sự vật là những
biểu hiện bên ngoài. Bản chất và hiện tượng căn bản thống nhất biện chứng với nhau.
Bản chất tương đối ổn định, còn hiện tượng thường xuyên biến đổi.
2.3.6. Khả năng và hiện thực
Khả năng là cái hiện chưa xảy ra nhưng sẽ xảy ra khi có các điều kiện thích hợp.
Hiện thực là cái đang có, đang tồn tại thực sự. Trong hiện thực bao giờ cũng chứa đựng
những khả năng nhất định, ngược lại khả năng lại nằm trong hiện thực và khi đủ điều
kiện sẽ biến thành hiện thực mới. Mối quan hệ giữa khả năng và hiện thực diễn ra rất
phức tạp. Mỗi sự vật đều có nhiều khả năng, xuất hiện trong q trình vận động và phát
triển của nó. Nhưng bản thân khả năng cũng luôn luôn vận động và biến đổi không
ngừng. Từ khả năng đến hiện thực phải thông qua một tập hợp điều kiện thích hợp.
3. Phép biện chứng về mâu thuẫn

Mỗi sự vật, hiện tượng là một tổng thể của những mâu thuẫn khác nhau. Mỗi mâu
thuẫn có một vai trị nhất định đối với q trình phát sinh, phát triển tất yếu của sự vật, hiện
tượng chứa đựng chúng. Theo nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, các mâu thuẫn cùng tồn tại
trong một sự vật, hiện tượng phải tác động, ảnh hưởng lẫn nhau. Và sự tác động, ảnh hưởng
này tạo thành một tổng hòa tác dụng của chúng. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập trong từng mâu thuẫn chỉ có thể diễn ra trong tổng hòa tác dụng của tất cả các mâu thuẫn
cùng tồn tại trong một chỉnh thể. Vai trò động lực của mâu thuẫn đối với chủ thể chỉ có thể
phát huy tác dụng thơng qua tổng hịa tác dụng của chúng. Như vậy mâu thuẫn không tác
động đến chủ thể trong trạng thái riêng lẻ, đơn chiếc. Động lực phát triển bao giờ cũng là
một tổng hòa tác dụng của tất cả các mâu thuẫn.
Quá trình phát triển tất yếu của sự vật hiện tượng không chỉ chịu ảnh hưởng của riêng
một mâu thuẫn nào, dù đó là mâu thuẫn quan trọng nhất, mà chịu tác động của tất cả các
mâu thuẫn chứa đựng trong nó. Chính tổng hợp tác động này là động lực của quá trình
7


phát triển. Các mâu thuẫn bên ngoài của sự vật có thể tác động đến sự phát triển của sự
vật đó thơng qua các mâu thuẫn bên trong của nó. Tức là mâu thuẫn bên ngoài tác động
đến mâu thuẫn bên trong làm cho các mâu thuẫn này biến đổi, và đến lượt chúng, chính
các mâu thuẫn bên trong của sự vật làm biến đổi chủ thể của chúng. Xét trong một điều
kiện nhất định thì mâu thuẫn bên ngồi và mâu thuẫn bên trong có thể chuyển hóa cho
nhau, mâu thuẫn bên ngoài của sự vật này cũng là mâu thuẫn bên trong của sự vật kia.
Triết học duy vật biện chứng khẳng định: các mặt đối lập cùng tồn tại với nhau trong một
mâu thuẫn nhưng vận động theo những phương hướng đối lập nhau, nên chúng bài trừ
lẫn nhau, phủ định lẫn nhau. Từ đó có thể thấy rằng đấu tranh chỉ có thể diễn ra giữa các
mặt đối lập, gắn bó với nhau một cách hợp quy luật khách quan trong một mâu thuẫn xác
định, không có thể có sự đấu tranh giữa các sự vật hiện tượng bất kỳ mà sự tồn tại của
chúng hoàn tồn khơng phải là kết quả của sự phân cực. Đấu tranh của các mặt đối lập
bắt đầu từ sự thống nhất của chúng. Chừng nào sự thống nhất của các mặt đối lập khơng
cịn nữa thì sự đấu tranh của chúng cũng chấm dứt.

Sự tác động ảnh hưởng lẫn nhau giữa các mâu thuẫn có ý nghĩa to lớn. Nó địi hỏi
người hoạt động thực tiễn, khi giải quyết bất kỳ mâu thuẫn nào của đời sống, phải cân nhắc
thần trọng đến ảnh hưởng của hoạt động giải quyết mâu thuẫn này đối với các mâu thuẫn
khác và tác động ngược lại từ các mâu thuẫn khác đối với các mâu thuẫn được giải quyết.

Mâu thuẫn không chỉ được hình thành từ thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập. Nó cịn nhất thiết phải được hình thành từ sự thống nhất, theo nghĩa loại trừ đối lập,
của các phần tử không đối lập nhau. Logic của kết luận là: để có mâu thuẫn phải có mặt
đối lập, để có mặt đối lập phải có mặt khơng đối lập. Từ đó nổi lên mối quan hệ biện
chứng quan trọng là: đối lập phải được hình thành từ khơng đối lập.
Mối quan hệ thống nhất, đấu tranh giữa các mặt đối lập cịn có một nghĩa khác: đấu
tranh giữa các mặt đối lập có tác dụng trở lại đối với sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Để
có sự thống nhất giữa các mặt đối lập thì phải có các mặt đối lập. Nhưng các mặt đối lập
trong một mâu thuẫn chỉ có thể tồn tại trong sự đấu tranh của chúng. Trong đấu tranh các
mặt đối lập không ngừng loại trừ lẫn nhau nhưng đồng thời cũng khơng ngừng tự khẳng định
mình, do đó cả hai mặt đối lập đều được kích thích, tăng cường vận động và phát triển.
Chính đó, đấu tranh là phương thức tồn tại của sự vật. Chúng ta hiểu tồn tại không phải là
tồn tại biệt lập, cách biệt với thế giới bên ngồi, mà là khẳng định mình trong sự tác động,
ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng khác nhau, đối lập nhau. Quan điểm này là
quan trọng. Sự đấu tranh giữa các cực là một phương pháp của sự phân
8


cực. Ta vẫn quan niệm đấu tranh giữa các mặt đối lập là để giải quyết mâu thuẫn, mà khi
mâu thuẫn được giải quyết thì các mặt đối lập của mâu thuẫn không tồn tại nữa – chúng
bị tiêu diệt hoặc chuyển hóa thành các mặt đối lập khác. Vậy quan niệm cho rằng đấu
tranh giữa các mặt đối lập là điều kiện để khẳng định sự tồn tại của các mặt đối lập có
trái với quan niệm được thừa nhận khơng? Về thực chất thì các quan niệm này không trái
ngược với nhau. Các mặt đối lập nào thực sự tiêu biểu cho xu thế phát triển của cái mới,
của cái tiến bộ thì tồn tại và phát triển cao hơn, cịn ngược lại cái nào khơng có đủ sức

tồn tại thêm nữa thì phải chấm dứt. Đó là nguyên tác phát triển chung của sự vật.
Như vậy từ mối liên hệ của sự đấu tranh giữa các mặt đối lập với sự thống nhất của
các mặt đối lập có thể rút ra kết luận: sự thống nhất giữa các mặt đối lập không thể hiểu
đơn giản sơ lược, chỉ diễn ra một lần. Theo tinh thần biện chứng, đây là một quá trình
vận động, phát triển, một quá trình đấu tranh lâu dài.
AI. Vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng trưởng, phát triển kinh tế với sự bất cập của cơ

chế, chính sách khai thác nguồn lực hiện nay
Trước đây người ta thường đồng nhất tăng trưởng kinh tế với phát triển, nên chạy theo
chỉ tiêu tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và thu nhập bình quân đầu người bằng
bất cứ giá nào. Nhưng càng ngày người ta càng nhận ra rằng, tăng trưởng kinh tế chỉ là điều
kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ để phát triển. Nói cách khác, ngày nay không thể chỉ
chú ý đến tốc độ tăng trưởng mà cịn phải quan tâm đến tính chất của tăng trưởng, tức là đạt
được tăng trưởng bằng cách nào, những ai tham gia, thể chế nào được hình thành và những
ai được hưởng lợi thành quả của sự tăng trưởng ấy?... Có những nước nhờ nguồn tài nguyên
giàu có (dầu mỏ, kim loại quý hiếm...), ủy thác cho các công ty xuyên quốc gia khai thác,
xuất khẩu và chia lời, nên thu nhập quốc dân tính theo đầu người tăng nhanh và đạt mức rất
cao. Nhưng chỉ một tầng lớp nhỏ bên trên được hưởng lợi, đa số người dân vẫn nghèo đói vì
sự tăng trưởng kinh tế nói trên khơng tác động đến phần cịn lại của nền kinh tế quốc dân.
Nguồn ngoại tệ thu được chảy vào các ngân hàng của các nước phát triển chứ không được tái
đầu tư. Sự tăng trưởng kinh tế như vậy không thể coi là "sự phát triển".

Những năm qua, kinh tế tăng trưởng nhanh, các lĩnh vực văn hóa, xã hội đạt thành
tựu quan trọng trên nhiều mặt. Nhưng, kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng tăng
trưởng, năng suất, hiệu quả sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, các cân đối vĩ mô chưa
9



vững chắc. Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng,
chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học
và cơng nghệ, văn hóa, xã hội, mơi trường cịn nhiều hạn chế, yếu kém, gây bức xúc xã
hội.
2. Mâu thuẫn giữa tính ưu việt của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với

những hạn chế trong việc tìm ra quyết sách khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường

Tính ưu việt của quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa phải được thể hiện ngày càng đậm nét trước hết và chủ yếu ở khả năng bảo đảm sự
kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và cơng
bằng xã hội, trong khi đó, chúng ta chưa tìm được những giải pháp hữu hiệu để giải
quyết những hậu quả xã hội do tác động tiêu cực của những mặt trái thuộc kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế gây ra. Nhiều vấn đề xã hội có xu hướng ngày càng
gay gắt. Đặc biệt, điều làm cho nhân dân hết sức bất bình, lo lắng là tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu dân, suy thối về tư tưởng chính trị và phẩm chất đạo đức,
lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên rất nghiêm trọng. Văn hố lai
căng có xu hướng phát triển. Hiện tượng ma chay, cưới xin, hội hè với nhiều hủ tục được
khôi phục ở nhiều nơi. Đạo lý xã hội, gia đình xuống cấp. Tình huống mất ổn định cục bộ
có khả năng xảy ra nhiều hơn, mức độ phức tạp của tình hình gia tăng hơn… Chúng ta
chưa tìm được những phương hướng ngăn chặn có hiệu quả tình trạng đó.
3. Mâu thuẫn giữa tính tất yếu khách quan phải nâng cao sự đồng thuận xã hội
trong đổi đất nước với sự tấn công của các thế lực thù địch trong và ngoài nước
nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân là một điều kiện tất yếu để đưa
công cuộc đổi mới tiến lên mạnh mẽ hơn. Nhưng, cùng với những yếu kém của chính chúng
ta, thì sự tác động của các thế lực thù địch nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hồ bình”
đối với nước ta bằng nhiều con đường, nhiều biện pháp và phương tiện, cả trực tiếp lẫn gián
tiếp qua một số phần tử cơ hội về chính trị để chống phá trên lĩnh vực tư tưởng -lý luận đã

làm cho một bộ phận cán bộ, Đảng viên và nhân dân phân tâm… Chúng ta có phần cịn lúng
túng, hữu khuynh trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực này.
4. Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao tính tích cực chính trị với lối sống thực

dụng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân

10


Trong khi cuộc sống đòi hỏi phải thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của nhân dân, phát huy
đóng góp của nhân dân vào việc hoàn thiện và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới, thì tình
trạng thờ ơ chính trị, chỉ lo vun vén cho lợi ích của bản thân và gia đình, lối sống thực dụng
chạy theo đồng tiền của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân có chiều hướng gia tăng.
Chúng ta chưa tìm được cách để khắc phục tình hình này với hiệu quả cao.

5. Mâu thuẫn giữa yêu cầu đẩy mạnh đổi mới hệ thống chính trị với sự thiếu
hụt trong những biện pháp mang tính đột phá trên lĩnh vực này
Theo dấu chân phát triển của đất nước thì yêu cầu về đổi mới trong hệ thống chính trị
cũng được đẩy mạnh. Càng ở vào những thời điểm có tính bước ngoặt của sự nghiệp cách
mạng, càng thấy rõ dấu ấn nổi bật của người đứng đầu trong nắm bắt thời cơ, bắt nhịp tình
thế, kịp thời đề xuất trước tập thể những quyết sách sáng suốt, táo bạo để tháo gỡ rào cản,
tận dụng cơ hội, đẩy lùi thách thức, tạo động lực đưa đất nước phát triển đột phá.

Công cuộc đổi mới kinh tế đã phát triển tới mức đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa
việc đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, sự kết hợp hài hoà
hơn nữa giữa các bộ phận cấu thành hệ thống đó, song, chúng ta chưa có những đột phá
trên lĩnh vực này. Đã có nhiều nghị quyết, nhiều chủ trương chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, nhưng hiệu quả thực tiễn cịn thấp. Bộ máy của hệ thống chính trị cịn
q cồng kềnh, cơ chế vận hành chưa thật khoa học, tình trạng lẫn lộn chức năng, nhiệm
vụ giữa các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị cịn xuất hiện ở nhiều cấp, nhiều địa

phương. Việc thực hiện luật pháp, kỷ cương không nghiêm. Nhiều nơi còn vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công chức chưa đủ mạnh, phương pháp
hoạt động của nhiều cán bộ đảng, đồn thể cịn trong tình trạng viên chức hố… Sự yếu
kém đó, nếu khơng được khắc phục có hiệu quả, thì một số phương diện của hệ thống
chính trị sẽ trở thành lực cản lớn đối với đổi mới trên lĩnh vực kinh tế.
6. Mâu thuẫn giữa quá trình phát triển dân chủ với tình trạng thiếu giá đỡ về
thực tiễn và lý luận cho q trình đó
Dân chủ là một phương pháp ra quyết định tập thể trong đó mọi thành viên đều có
quyền ngang nhau khi tham gia ra quyết định. Dân chủ cũng để chỉ một hình thức nhà nước,
trong đó mọi thành viên đều tham gia vào việc ra quyết định về các vấn đề của mình, thường
bằng cách bỏ phiếu để bầu người đại diện trong quốc hội hoặc thể chế tương tự. Trong xã hội
hiện nay, dân chủ hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực đổi mới. Thực hiện dân chủ nhân dân
là yêu cầu nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ ngày thành lập tới nay, Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn nhấn mạnh quyền làm chủ của nhân dân. Chủ tịch
11


Hồ Chí Minh khẳng định, dân chủ có nghĩa “dân là chủ” và “người dân làm chủ”, cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, quần chúng là động lực của cách mạng. Chính quần
chúng nhân dân là lực lượng cách mạng đông đảo nhất trực tiếp thực hiện đường lối cách
mạng, biến đường lối cách mạng của Đảng thành hiện thực. Người nói, trong bầu trời
khơng có gì q bằng nhân dân, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân
là chủ”.
Tuy nhiên, ở một số nơi, nhận thức và thực hành về dân chủ cịn hạn chế, thực
hiện dân chủ cơ sở cịn hình thức, quyền làm chủ của nhân dân chưa hoàn toàn được tơn
trọng và phát huy, chưa có cơ chế đầy đủ bảo đảm để nhân dân thực hiện vai trò chủ thể
của quyền lực. Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở một số
nơi rơi vào hình thức. Cịn tình trạng lạm quyền, lộng quyền, quan liêu, cửa quyền gây
phiền hà cho nhân dân của một số cơ quan công quyền, cán bộ. Chậm thể chế hóa các
chủ trương của Đảng thành pháp luật, quy định... Hệ thống pháp luật của Việt Nam có

mặt cịn chưa đồng bộ, hay thay đổi gây khó khăn cho các cơ quan thi hành pháp luật và
nhân dân, ảnh hưởng đến việc thực hành dân chủ trong xã hội... Những hạn chế đó cần
sớm được khắc phục để nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân và thực hành quyền làm
chủ của nhân dân trong thực tiễn ngày càng rộng rãi và thực chất.
7. Mâu thuẫn giữa tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với khả năng giữ

vững độc lập tự chủ trong hội nhập và khắc phục những tác động tiêu cực của hội
nhập
Phù hợp tiến trình đổi mới và đứng trước những địi hỏi cấp bách của tình hình quốc
tế và kinh tế trong nước, Ðại hội lần thứ VII của Ðảng đã chủ trương thực hiện đường lối
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, đánh dấu bước khởi đầu tiến trình hội
nhập quốc tế trong giai đoạn mới của nước ta. Nghị quyết Ðại hội X của Ðảng cũng chỉ
rõ: Tinh thần tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là "phát huy vai trị chủ thể và tính năng
động của doanh nghiệp (DN) thuộc mọi thành phần kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc
tế, xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, phát triển thị trường mới, sản phẩm mới và
thương hiệu mới". Khuyến khích các DN Việt Nam hợp tác, liên doanh với DN nước
ngoài và mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài.

12


Tuy nhiên, thực tiễn quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại
còn nhiều hạn chế. Nghị quyết Ðại hội X của Ðảng chỉ rõ: "Thiếu lộ trình thật chủ động
trong hội nhập kinh tế quốc tế; chưa gắn kết chặt chẽ tiến trình hội nhập với việc hồn
thiện pháp luật, thể chế, chính sách và cải cách cơ cấu kinh tế; việc nâng cao sức cạnh
tranh của hàng hóa, của DN và của nền kinh tế chưa theo kịp yêu cầu hội nhập".
Vì vậy, trong tiến trình mở cửa, hội nhập nền kinh tế thế giới, cần phát huy lợi thế so
sánh, tạo môi trường cạnh tranh để phát triển. Ðồng thời, cần tăng cường tiềm lực và bảo
đảm an ninh kinh tế, trong đó coi trọng việc giữ vững các cân đối vĩ mô. Cùng với việc bảo
đảm an ninh lương thực và năng lượng, cần tăng nhanh dự trữ ngoại tệ, kiểm sốt chặt chẽ

nợ nước ngồi; phát huy cao nhất các nguồn lực, nhất là nội lực để xây dựng nhanh kết cấu
hạ tầng và phát triển có hiệu quả một số ngành. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, chú
trọng cải cách hành chính, đào tạo nguồn nhân lực, tạo lập những điều kiện thuận lợi hơn
nữa để thu hút mạnh các nguồn vốn quốc tế, như vốn ODA, vốn FDI, tín dụng thương mại
và các nguồn vốn quốc tế khác. Góp phần tạo bước ngoặt về hội nhập kinh tế quốc tế là việc
phát huy tính năng động của DN thuộc mọi thành phần kinh tế.

13


KẾT LUẬN
Từ những vấn đề được nghiên cứu ở trên, chúng ta đã thấy rõ rằng mâu thuẫn giúp
cuộc sống đi lên và ngày càng phát triển bằng cách tìm ra những giải pháp để giải quyết
những mâu thuẫn đó. Những vấn đề nêu trên không phải là tất cả, cũng không phải là
tiêu biểu nhưng thông qua cách điểm danh đại thể như vậy cũng đủ cho chúng ta thấy
tính phức tạp của tình hình mà chúng ta đang cần giải quyết.
Việt Nam đang từng bước phát triển trên con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Vì vậy, việc giải quyết có hiệu quả những mâu thuẫn và những vấn đề có tính
mâu thuẫn trên đây là một điều kiện căn bản để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, phát huy sức mạnh tồn dân tộc, đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới,
sớm đưa nước ta thốt khỏi tình trạng kém phát triển.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Giáo trình Triết học” – dùng cho bậc Đại học – Cao đẳng – Bộ giáo dục và

đào tạo – NXB Chính trị Quốc Gia sự thật.
2. “Đổi mới ở Việt Nam – nhớ lại và suy ngẫm” – GS.TS Phạm Ngọc Quang – NXB


Tri thức – 2008
3. “Biện chứng của mâu thuẫn – nhận thức mới về quy luật mâu thuẫn” – Lê Đức

Quảng – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội – 200
4. “Mác- Anghen tồn tập” – NXB Chính trị, Quốc gia 1997
5.

/>
van-kien-dang/chu-dong-va-tich-cuc-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-893

15



×