Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Thơ Haiku trong văn học Nhật Bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.48 KB, 6 trang )

THƠ HAIKU TRONG VĂN HỌC NHẬT BẢN
Đỗ Thị Hiền
Viện Công Nghệ Việt - Nhật, Trường Đại học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh
GVHD: ThS. Phạm Huỳnh Anh Việt, CN. Tiết Thụy Tường Vy

TÓM TẮT
Nhật Bản được biết đến là “đất nước mặt trời mọc”, đất nước của hoa anh đào, kimono, trà đạo, Thiền tông và
của cả thi đạo. Giống như người Việt Nam, người Nhật cũng rất yêu thơ ca, thích làm thơ để trải lịng. Nhưng
với người Nhật Bản thơ ca không chỉ đơn thuần là một thể loại văn học mà nó cịn nâng lên thành một tơn giáo.
Trong đó thơ haiku là một thể thơ độc đáo, đặc sắc, một nét đẹp tâm hồn riêng mà người Nhật đóng góp vào
nền thơ ca nhân loại. Ở Việt Nam, khơng tính đến trường hợp nắm bắt thơng tin chi tiết về Nhật Bản do nghiên
cứu chuyên sâu, người đọc thường biết đến haiku như một biểu hiện độc đáo của văn học ở xứ sở anh đào, một
số khác sẽ cho rằng đây là thể thơ dị thường. Haiku quả thật là thể thơ đặc sắc. Điều quan trọng là nếu không
đặt thể thơ này vào tiến trình cũng như cấu trúc nền văn học Nhật Bản để có một cái nhìn hệ thống, người đọc
đến từ một nền văn hóa khác có thể cảm thấy haiku là một kiểu thơ rất dị thường, từ đó mà dễ trượt vào những
khuynh hướng ngộ nhận, cho rằng haiku chỉ là ngôn ngữ kỳ quặc gây hài hước, hay ngược lại cho rằng haiku
là thể thơ phá cách nhằm thách thức suy nghĩ và cảm xúc con người. Thơ haiku là một thể thơ độc đáo, đặc
sắc, một nét đẹp tâm hồn riêng mà người Nhật đóng góp vào nền thơ ca nhân loại. Trên cơ sở đó tác giả đã
chọn đề tài “Thơ Haiku trong văn học Nhật Bản” với mong muốn làm rõ tinh thần cốt lõi của haiku, để hiểu
thêm haiku như một thể thơ mở ra để khám phá đến tận cùng bề rộng và chiều sâu thế giới, trong sự gắn kết
với cội nguồn văn học và văn hóa Nhật Bản.
Từ khóa: cốt lõi, haiku, khám phá, văn hóa, văn học
1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Lịch sử nghiên cứu về thơ haiku ở Việt Nam tuy chưa nhiều, nhưng cũng xuất hiện một số gương mặt các nhà
nghiên cứu và dịch giả tiêu biểu như: Phan Nhật Chiêu, Vĩnh Sính, Thái Bá Tân, Thanh Châu, Đồn Lê Giang,
Hữu Ngọc…. Nhưng những cơng trình nghiên cứu đã giúp ta có một cái nhìn tương đối tồn diện về thơ haiku
trên cả mặt nội dung và nghệ thuật. Có tính chun sâu về thơ haiku phải kể đến hai cơng trình nghiên cứu là:
tác phẩm “Ba nghìn thế giới thơm” của Nhật Chiêu (NXB Văn nghệ, 2007) đã tập hợp gần như đầy đủ các bài
báo, tạp chí mà ơng đã từng cơng bố liên quan đến thơ haiku và thơ Nhật Bản. Tiếp theo là cuốn haiku, Hoa
thời gian của Lê Từ Hiển và Lưu Đức Trung (NXB Giáo dục, 2007) cuốn sách được chia làm ba phần với ba
nội dung chính: Tiếp cận thơ haiku trong chương trình THPT, Hương sắc haiku - những nẻo đường góp nhặt


1275


và Dạo bước vườn thơ, đây là tài liệu quý báu dành cho giáo viên, học sinh cùng những ai u thích thể thơ
độc đáo này. Ngồi hai cơng trình kể trên, nội dung nghiên cứu thơ haiku còn được đề cập đến trong những
giáo trình về văn học Nhật Bản, các cuốn sách giới thiệu văn hóa, văn học Nhật như: Văn học Nhật Bản từ khởi
thủy đến 1868, Nhật Chiêu, NXB Giáo dục, 2003, Nhật Bản trong chiếc gương soi, Nhật Chiêu, NXB Giáo
dục HCM năm 1997, Câu chuyện văn chương phương Đông, Nhật Chiêu, NXB Giáo dục, 2002, Xi dịng
văn học Nhật Bản, Nguyễn Thị Mai Liên, NXB Đại học Sư phạm, 2003; Phác thảo những nét tương đồng và
dị biệt của ba thể thơ: tuyệt cú, haiku và lục bát của Nguyễn Thị Bích Hải trong cuốn Văn học so sánh, Nghiên
cứu và triển vọng, NXB SPHN năm 2005; Dạo chơi vườn văn Nhật Bản, Hữu Ngọc, NXB Giáo dục năm 1992;
Hoa anh đào và điện tử, Hữu Ngọc, NXB Văn hóa năm 1998. Thêm vào đó có khoảng hơn 20 bài viết đăng
trên báo, tạp chí tuy khơng chun sâu nhưng cũng cung cấp cho người đọc một số hiểu biết cơ bản về haiku.
Tiêu biểu là các bài viết: Cảm nhận về thơ haiku (Ngô Văn Phú, Tác phẩm mới, số 4 năm 1992), Một số đặc
điểm của thơ haiku Nhật Bản (Hà Văn Lưỡng - Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản và Đơng Bắc Á, số 4 năm 2011),
Thế giới trong thơ haiku (Hà Văn Minh, Báo Xuân Điện Bàn, 2000), ngoài ra trên mạng internet ta cũng thấy
đăng tải nhiều bài viết về thơ haiku. Ở các trường Đại học sư phạm ngành Ngữ Văn hay trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, thơ haiku được giới thiệu vào chương trình học cho sinh
viên học tập, nghiên cứu. Hiện nay, trong sách Ngữ văn lớp 10, phần văn học nước ngồi đã có sự xuất hiện
của những bài thơ haiku. Có thể nói sự xuất hiện của thơ haiku trong chương trình văn học của Việt Nam đã
đánh dấu một bước ngoặc cho văn học Nhật Bản nói riêng và văn hóa Nhật Bản nói chung. Thơng qua việc
tiếp thu các cơng trình nghiên cứu trên, cộng với việc tìm hiểu nhiều nguồn tài liệu phong phú trên internet, tác
giả hy vọng sẽ đem đến cái nhìn bao quát và đầy đủ hơn về “Haiku - tinh hoa văn học Nhật Bản”.
2. MỤC TIÊU - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu: Thơng qua tìm hiểu các tác phẩm, cũng như các nhà thơ haiku nổi tiếng, khám phá ra
những cái hay, cái đẹp trong ý thơ. Từ đó khơi gợi niềm say mê, yêu thích của độc giả đối với thể thơ này.
Đồng thời giúp người đọc có cái nhìn bao qt và đầy đủ một cách ngắn gọn về thơ haiku. Đặc biệt là giúp cho
sinh viên VJIT có thêm một nguồn tài liệu cho mơn Cơ sở văn hóa Nhật Bản.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp đối chiếu, so sánh các tác phẩm và các nguồn tài liệu thơ haiku khác
nhau, từ đó sử dụng phương pháp phân tích để đưa ra những ý độc đáo có trong thơ.

3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1 Khái quát thơ haiku
Haiku là thể thơ phái sinh từ Tanka. Tanka là thể thơ tiêu biểu nhất của waka – tên gọi chung của thơ viết bằng
tiếng Nhật để phân biệt với Hán thi, nên về sau, người ta dùng từ tanka đồng nhất với waka. Bài thơ theo thể
tanka có 31 âm tiết, chia thành 5 dịng theo nhịp phách 5-7-5-7-7. Từ thế kỷ XIV – XV, khi tanka bắt đầu có
1276


dấu hiệu đi xuống, trên thi đàn Nhật Bản xuất hiện thể renga (liên ca). Renga cũng có nhịp phách 5-7-5-7-7
như tanka nhưng tách thành hai phần 5-7-5 và 7-7 rõ rệt, số lượng câu không hạn chế. Thực chất, renga là trò
chơi nối thơ của các nhà thơ tanka. Trong bài renga liên hoàn, khổ đầu được gọi là hokku (phát cú) và quy
chiếu theo mùa trong năm. Sang thế kỉ XVI, công chúng yêu thơ Nhật Bản rất thích trị chơi nối thơ nên renga
trở nên phổ biến và bình dân hơn, thậm chí có nhiều bài renga được làm với mục đích hài hước, châm chọc gọi
là haikai. Phần đầu hokku của bài renga là tiền thân của thơ haiku. Như vậy, haiku có nguồn gốc từ tanka,
renga. Lúc đầu có tên là haikai (đến thế kỉ XIX mới có tên gọi haiku). Từ một thể thơ được làm với mục đích
hài hước, bơng lơn, đùa vui, về sau, do ảnh hưởng của tư tưởng Thiền tông, thơ haiku thể hiện những cảm thức
thẩm mỹ khác nhau. Những cảm thức thẩm mỹ này thể hiện cái nhìn của các thi sĩ haiku về thiên nhiên và con
người mang đậm màu sắc Thiền tông. Thơ haiku đề cao những cảm thức thẩm mỹ tinh tế như cái vắng lặng
(sabi), đơn sơ (wabi), buồn thương (aware), nhẹ nhàng (karumi)… Nhắc đến haiku cổ điển Nhật Bản, khơng
thể khơng nói đến “Tứ trụ haiku Nhật Bản”. Các tác giả nổi tiếng đó là Matsuo Basho (1644 – 1694), Yosa
Buson (1716 – 1784), Kobayashi Issa (1763 – 1827), Masaoka Shiki (1867 – 1902). Trong đó, hai thi nhân có
nhiều đóng góp quan trọng đưa haiku trở thành một thể thơ có địa vị trang trọng trong lịch sử văn học Nhật
Bản là Matsuo Basho và Masaoka Shiki.
3.2 Vị trí của thơ haiku trong nền văn hóa - văn học nhật bản và thế giới
Haiku không chỉ là một thể thơ truyền thống của người Nhật mà nó cịn là tâm hồn, tinh thần con người Nhật
Bản. Rất nhiều trường phái thơ haiku được phát triển ở Nhật và luôn theo quy ước truyền thống tính ước lệ và
chiều sâu thăm thẳm tư duy. Thơ haiku được chứng kiến những giai đoạn chuyển đổi và tái tạo nhưng sức lơi
cuốn của nó vẫn không hề bị mất đi. Ngày nay ở Nhật Bản người ta ước tính có hơn 800 nhóm viết và truyền
bá thơ haiku. Haiku được giới thiệu lần đầu sang phương Tây là từ cơng trình Japanese Poetry, (Thơ ca Nhật
Bản) năm 1910 của H. Chamberlain. Nhưng bước sang nửa cuối thế kỉ XX, thơ haiku mới được biết đến rộng

rãi hơn trên thế giới nhờ những cơng trình nghiên cứu của Henderson (Hài cú nhập môn), các tuyển tập haiku
của R.H.Blyth… Người phương Tây ngợi ca haiku là soul poetry, spirit poetry (thơ tâm hồn). Từ đây, thơ haiku
ngày càng được yêu quý và phong trào sáng tác thơ haiku phổ biến ở các nước nói tiếng Anh, Pháp, Nga… Dù
vẫn tuân thủ hình thức của thơ haiku nhưng các nhà thơ đã đưa vào haiku những chiêm nghiệm thời hiện tại.
Ngày nay, người ta không ngần ngại đưa nhục cảm – dục tính vào thơ haiku. Trong khi, trước đó, tình u
khơng phải là chủ đề chính của thơ haiku và Basho, Buson, Issa không phải là những nhà thơ tình. Tuy là
Erotic-haiku (haiku gợi tình) nhưng vẫn rất trong sáng và giàu sức gợi như Bài ca chim sẻ của Anita Virgil:
“Đang giữ anh/ bên trong em nồng ấm/ tiếng chim sẻ vang lừng.” hay “Cơ thể nàng/ uống con trên tràng kỉ/
Nụ cười của B.W.”
Ở Việt Nam, thơ haiku chưa thực sự phổ biến. Trước đây, chỉ những người có niềm u thích đặc biệt với văn
hóa Phù Tang mới say mê haiku và sáng tác theo thể thơ này. Hiện tại, haiku đã được biết đến nhiều hơn. Nhiều
1277


nhà thơ đã cho ra đời những tập thơ haiku Việt như: Chuồn chuồn nghiêng cánh (Thiên Bảo), Bài ca đom đóm
(Trần Ngun Thạch), Cúc rộ mùa hoa (Đơng Tùng), Tươi mãi với thời gian (Lưu Đức Trung), Mắt lá (Huyền
Tri)… Bài thơ Bài ca đom đóm của Trần Nguyên Thạch thật ấn tượng:“ Đêm hè vắng/ cậu bé chân trần chơi
cùng đom đóm/ ánh sáng nở đầy tay.” Việc tiếp nhận thơ haiku ở Việt Nam không chỉ dừng lại ở việc giới
thiệu, dịch và nghiên cứu, mà còn trực tiếp đi vào đời sống sáng tác văn học. Thơ haiku trong những năm qua
đã trở thành một món ăn tinh thần không thề thiếu của một bộ phận độc già yêu thơ hoặc muốn trở thành tác
giả sáng tác thơ haiku. Tuy nhiên, do sự khác biệt về văn hóa, quan điểm thẫm mỹ, cảm thức về thiên nhiên và
con người, cho nên thơ haiku Việt có những đặc điểm vừa giống mà lại vừa khác với thơ haiku nguyên mẫu
đến từ đất nước Nhật Bản. Tuy âm tiết có thể khác, cách ngắt nhịp có thể khác, cách gieo vần có thể khác nhau,
song thơ haiku Việt vẫn bảo tồn được tính chất cực ngắn, sự tinh tế, uyễn chuyễn, tao nhã trong từng câu chữ.
Hình thức có thể khác đi, nhưng tinh thần thì vẫn cịn đó. Băng qua hàng vạn dặm khơng gian, hàng thế kỉ thời
gian, haiku ngày nay không chỉ là “quốc hồn” “quốc túy” của Nhật Bản mà còn là một thể thơ mang tính quốc
tế. Vượt qua những rào cản về ngơn ngữ, văn hóa, haiku đã chạm đến vỉa tầng sâu kín nhất trong hồn người,
bởi cuộc sống hiện đại dù ồn ào, náo nhiệt đến đâu đi chăng nữa con người ta cũng cần những khoảng lặng,
những thời khắc bình yên. Và thơ haiku đã “gợi nhắc ta nhớ lại nhịp rung của vũ trụ vơ hình mà chúng ta
thường lãng quên” (Hoa đạo, G.Ohsawa). Haiku không chỉ là cái thần của con người, đất nước Nhật Bản mà

nó cịn là nét đẹp văn hóa, văn học mà tồn nhân loại đang hướng tới đầy nâng niu và trân trọng.
3.3 Đặc sắc của thơ haiku
3.3.1 Haiku trong dòng chảy văn hóa nghệ thuật Nhật Bản thời Edo:
Sự ra đời của haiku, cho thấy thể thơ này đã hình thành và tồn tại một cách rất tự nhiên, rất phù hợp với bầu
khơng khí chung của văn hóa nghệ thuật Nhật Bản thời Edo, hay có thể gọi là thời cận đại. Trước hết là bởi vì
nguồn gốc của haiku gắn với những hội thơ sáng tác renga. Hình thức sinh họat văn hóa này, cùng với renga là
sản phẩm của nó, thể hiện rõ tinh thần của q trình bình dân hóa, đại chúng hóa văn học. Edo là thời kỳ của
thương mại, thời kỳ hình thành nên những đơ thị lớn và đồng thời cũng hình thành văn hóa thị dân. Trong thời
kỳ nảy, việc sáng tạo cũng như thưởng thức các loại hình văn hóa nghệ thuật khơng cịn bó hẹp trong tầng lớp
q tộc cao sang, cũng không cần phải khuôn vào những tiêu chuẩn khắt khe để biểu đạt vẻ đẹp cao nhã và sâu
sắc.
3.3.2 Haiku – thế giới của những sự đối lập:
Sự đối lập đầu tiên là sự tối giản về ngôn ngữ biểu đạt. Trong tiếng Nhật, một bài haiku nếu được viết ra thường
chỉ là một dịng duy nhất. Và vì tiếng Nhật là ngôn ngữ đơn âm, nên thật ra 17 âm tiết cấu tạo nên bài thơ
thường chỉ gồm khoảng 5 – 7 từ có nghĩa. Nhưng người đọc sẽ ngạc nhiên khi biết rằng, chỉ với một dung
lượng ngơn từ như thế mà haiku có thể bao qt cả thế giới mênh mơng, có thể trở thành mê cung nhiều góc
khuất, có thể biến thành một lâu đài bí ẩn với những tầng nghĩa cứ liên tục mở ra nhưng trong phút chốc lại
1278


nhòe mờ. Một đặc trưng đáng chú ý khác của thể loại haiku mà những người chưa có đủ thơng tin về thể thơ
này rất hay bị nhầm lẫn. Chữ “hai” gắn với nguồn gốc haikai-no-renga dễ khiến cho người đọc nghĩ rằng haiku
là kiểu thơ hài hước. Điều này không sai nhưng chỉ đúng trong giới hạn mà thôi. Quả thật là chất hài trong
haikai-no-renga khi chuyển sang haiku thì vẫn khơng bị mất. Vì haiku khơng hề có giới hạn hay định hướng
cụ thể về mặt nội dung, nên nó có thể là những lời thơ bật ra một cách rất tự nhiên như một câu cảm thán trong
tình huống nào đó của cuộc sống đời thường.
3.3.3 Haiku – nghệ thuật dung hợp và tương chiếu:
Haiku có thể xem như một “sân chơi mở rộng” của tanka về nội dung biểu đạt. Về mặt ý thức thì các thi nhân
sáng tác và bình luận về giá trị thẩm mỹ của tanka cổ điển không đặt ra sự hạn chế nào về chủ đề hay nội dung
mà tanka thể hiện, nhưng về mặt xã hội thì tanka cổ điển chủ yếu chỉ thuộc về tầng lớp tinh hoa, nên ý thức

thẩm mỹ trong thơ vẫn hướng về cái đẹp tao nhã hay sâu lắng.
KẾT LUẬN
Đặt haiku trong tổng thể nền văn hóa – văn học Nhật Bản thì có thể thấy rằng, sự kết hợp những yếu tố tưởng
chừng như đối lập tuy đúng là đặc trưng nổi bật của thế giới haiku nhưng không phải chỉ riêng thể thơ này mới
có biểu hiện đó. Sự kết hợp như vậy vốn là một truyến thống của văn hóa tư tưởng Nhật Bản, đã có nhiều biểu
hiện rõ rệt và trong các lĩnh vực của đời sống văn chương nghệ thuật, xuyên suốt cả tiến trình lịch sử văn học
và văn hóa ở đất nước này. Khi đi vào thế giới haiku, sự kết hợp nói trên được thể hiện tập trung thành thi pháp
thể loại, góp phần tạo nên giá trị thẩm mỹ đặc sắc của haiku nhưng đồng thời cũng thể hiện rõ sự gắn kết của
thể thơ này với cội nguồn văn hóa và văn học Nhật Bản.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] H.G.Henderson, Hài cú nhập môn, Lê Thiện Dũng dịch, Nxb Trẻ, 2002.
[2] Lưu Thị Anh (2015), “Thơ haiku của Yosa Buson”, Khóa luận tốt nghiệp đại học, Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2.
[3] Mitsuyoshi Numano, Thế giới thơ và tiểu thuyết – Từ Truyện Genji đến Haruki Murakami, Trung tâm Giao
lưu văn hoá Nhật Bản, 9-2009.
[4] Nhật Chiêu, Basho và thơ Haiku, Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 1997.
[5] Nhật Chiêu, Văn học Nhật Bản từ khởi thuỷ đến 1868, Nxb Giáo dục, 2002.
[6] Trần Thị Kim Chi (2014), “Đặc sắc thơ haiku của m.basho”, Khóa luận tốt nghiệp đại học, Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội 2.
[7] V.V. Ôtrinnicốp, Những quan niệm thẩm mỹ độc đáo của người Nhật, Phòng Vũ dịch, Tạp chí Văn học, số
1279


5-1996.
[8] Un Lam (2017). ‘Tính đa diện của văn hóa Nhật Bản trong thơ haiku’, ngày 3/6/2017
Nguồn: />(ngày truy cập 30/12/2021).
[9] Hà Thanh Vân (2019). ‘Thơ Haiku ở Việt Nam: Sự tiếp nhận và đặc điểm’, Vấn đề phê bình của
Taodan.com.vn, ngày 20/12/2019.
Nguồn: />(ngày truy cập 30/12/2021).


1280



×