BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN HẢI LĨNH
XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON TRONG TRƯỜNG HỢP
NAM, NỮ CHUNG SỐNG VỚI NHAU NHƯ
VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON TRONG TRƯỜNG HỢP
NAM, NỮ CHUNG SỐNG VỚI NHAU NHƯ
VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 60380103
Người hướng dẫn khoa học : Ts. Lê Vĩnh Châu
Học viên
: Nguyễn Hải Lĩnh
Lớp
: Cao học Luật, Bình Thuận - khóa 2
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn thạc sĩ “Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp
nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hơn” là cơng
trình nghiên cứu khoa học do bản thân tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn tận tình của
Tiến sĩ Lê Vĩnh Châu. Những tài liệu, thông tin không thuộc ý tưởng của tác giả
được trích dẫn đầy đủ, đúng quy định.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực, khách quan của các nội dung, kết
quả nghiên cứu trong Luận văn.
Tác giả
Nguyễn Hải Lĩnh
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT
1
Bộ luật Dân sự
BLDS
2
Bộ luật Tố tụng dân sự
BLTTDS
4
Luật Hộ tịch
LHT
3
Luật Hơn nhân và gia đình
Luật HNGĐ
5
Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày
15/11/2015 của Chính phủ quy định chi
Nghị định số 123/2015/NĐ-CP
tiết một số điều và biện pháp thi hành
Luật Hộ tịch
7
Tịa án nhân dân
6
Thơng tư số 04/2020/TT-BTP ngày
28/5/2020 của Bộ Tư pháp quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Hộ
tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP Thông tư số 04/2020/TT-BTP
ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều và biện pháp
thi hành Luật Hộ tịch
8
Ủy ban nhân dân
TAND
UBND
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT YÊU CẦU XÁC ĐỊNH CHA,
MẸ, CON TRONG TRƯỜNG HỢP NAM, NỮ CHUNG SỐNG VỚI NHAU
NHƯ VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN .....................................8
1.1. Thẩm quyền xác định cha, mẹ, con trong trường hợp khơng có tranh
chấp ........................................................................................................................9
1.2. Thẩm quyền xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp;
người được xác định hoặc người có yêu cầu xác định cha, mẹ, con chết ......18
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................23
CHƯƠNG 2. THỦ TỤC GIẢI QUYẾT YÊU CẦU XÁC ĐỊNH CHA, MẸ,
CON TRONG TRƯỜNG HỢP NAM, NỮ CHUNG SỐNG VỚI NHAU NHƯ
VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN .............................................24
2.1. Thủ tục giải quyết tại cơ quan đăng ký hộ tịch.........................................24
2.2. Thủ tục giải quyết tại Toà án nhân dân.....................................................31
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................42
KẾT LUẬN ..............................................................................................................43
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc xác định quan hệ cha, mẹ, con trong trường hợp nam, nữ chung sống
với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hơn vừa có ý nghĩa về mặt pháp lý,
vừa có ý nghĩa về mặt tự nhiên, cũng như trong việc gìn giữ truyền thống tốt đẹp
tồn tại từ lâu đời, vốn có của gia đình Việt Nam. Quan hệ cha, mẹ, con trong trường
hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được
xác lập không chỉ đem lại những giá trị về mặt pháp lý về hộ tịch, các quyền nhân
thân, quyền tài sản, mà đôi khi về mặt xã hội đây còn là biện pháp khẳng định quan
hệ huyết thống, với mục đích được cộng đồng thừa nhận.
Hiện nay, việc quan tâm, chăm sóc và bảo vệ quyền làm cha, làm mẹ và quyền
làm con là một trong những quyền thiêng liêng, là nhiệm vụ trọng tâm trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước ta. Con người sinh ra được quyền phát triển
một cách tốt nhất cả về mặt vật chất và tinh thần trong một môi trường gia đình tốt,
có đầy đủ cha, mẹ. Vì vậy mà việc xác định cha, mẹ, con nhằm xác định thân phận và
quan hệ huyết thống giữa các chủ thể là việc làm hết sức quan trọng, góp phần ổn
định các mối quan hệ trong gia đình và ngồi xã hội. Tuy nhiên, không phải đứa trẻ
nào sinh ra cũng xác định được cha, mẹ theo pháp luật hôn nhân và gia đình; trong
đời sống xã hội hiện nay có sự hội nhập kinh tế và văn hóa tồn cầu, đã nảy sinh
nhiều mặt trái của xã hội, trong đó có hiện tượng nam nữ quan hệ tình dục trước hơn
nhân, nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hay
“sống thử”…, dẫn đến các trường hợp trẻ em được sinh ra nhưng không biết cha, mẹ
đẻ là ai, hoặc bị chính cha, mẹ đẻ chối bỏ, khơng cơng nhận… Do đó, Luật HNGĐ
năm 2014 đã dành Phần 2 Chương V quy định về vấn đề xác định cha, mẹ, con.
Nguyên tắc xác định cha, mẹ cho con đã được quy định tương đối sớm trong hệ thống
pháp luật Việt Nam, các quy định này được kế thừa, được sửa đổi, bổ sung nhằm
tiệm cận với thực tiễn, đồng thời giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của Luật
Hơn nhân và gia đình nói riêng và của cả xã hội nói chung. Nguyên tắc này thể hiện
tính nhân đạo sâu sắc, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời thể hiện mục đích
cao cả vì sự phát triển tồn diện của trẻ em, của gia đình và của tồn xã hội.
Việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau
như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được thực hiện làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ giữa cha, mẹ, con theo pháp luật hôn nhân và gia đình, hay các quyền tài
2
sản khác theo pháp luật dân sự. Hệ thống pháp luật Việt Nam đã có những quy định
về vấn đề này nhằm tạo hành lang pháp lý để xác định mối quan hệ cha, mẹ, con
trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký
kết hôn; tuy nhiên những quy định này trong thực tiễn áp dụng vẫn còn nhiều bất
cập, hạn chế, nhiều quy định có sự chồng chéo, chưa rõ nghĩa, gây khó khăn trong
việc áp dụng pháp luật. Mặt khác, các căn cứ để xác định cha, mẹ, con trong trường
hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn chưa
được nêu rõ, nhận thức về vấn đề này cịn có nhiều quan điểm dẫn đến tình trạng
tranh chấp về thẩm quyền, khó khăn trong việc xác minh, thu thập chứng cứ. Do đó,
cần có những nghiên cứu, sửa đổi nhằm tạo ra các cơ sở pháp lý để giải quyết các
tranh chấp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cha, mẹ, con trong trường hợp
nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đặc biệt là
bảo vệ quyền lợi của trẻ em.
Vì những lý do cơ bản trên, Tác giả quyết định chọn đề tài “Xác định cha, mẹ,
con trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký
kết hôn” để tìm hiểu, nghiên cứu làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật xác định cha, mẹ, con là một vấn đề không mới, nhưng quan trọng
đối với việc xác định quyền nhân thân của con người. Do vậy, vấn đề này nhận
được nhiều sự quan tâm của những nhà nghiên cứu khoa học. Liên quan đến vấn đề
xác định cha, mẹ, con trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng
mà không đăng ký kết hôn đã có nhiều tác giả nghiên cứu và nhận xét dưới nhiều
góc độ khác nhau, có thể kể đến như:
Giáo trình, sách chuyên khảo:
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), “Giáo trình Luật hơn
nhân và gia đình Việt Nam”, Nguyễn Văn Tiến chủ biên, Nhà xuất bản Hồng Đức –
Hội Luật gia Việt Nam. Tuy nhiên giáo trình này được biên soạn nhằm phục vụ cho
cơng tác giảng dạy ở các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật nên chưa phân tích
chuyên sâu về việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp nam, nữ chung sống với
nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn một cách cụ thể, chi tiết mà chỉ dừng
lại phần lý luận nghiên cứu chung.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), “Giáo trình Luật hơn nhân và gia đình
Việt Nam”. Trong tài liệu này, các vấn đề liên quan đến việc xác định cha, mẹ, con
được nhóm tác giả phân tích khá chi tiết, cụ thể, tuy nhiên đây cũng là cơng trình
3
được nghiên cứu, xuất bản nhằm mục đích phục vụ việc giảng dạy, học tập tại các cơ
sở đào tạo Luật, do vậy nhóm tác giả chỉ dừng lại ở nghiên cứu về lý luận, mà không
đánh giá thực tiển, do đó các bất cập, vướng mắc cũng như hướng khắc phục chưa
được nghiên cứu trong cơng trình, vì vậy việc tiếp tục nghiên cứu là yêu cầu cần thiết.
Luận văn, luận án:
Nguyễn Hạnh Hoa (2016), Xác định cha, mẹ, con và thực tiễn tại Tòa án,
Luận văn thạc sĩluật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Luận văn trình bày những
vấn đề lý luận cơ bản, các quy định pháp luật về xác định cha, mẹ, con tại Tòa án.
Nghiên cứu thực tiễn việc xác định cha, mẹ, con của các TAND, từ đó đưa ra một
số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Lại Ngọc Lan (2019), Xác định cha, mẹ, con tại Tòa án nhân dân và thực tiễn
áp dụng, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Tác giả đã phân
tích rõ các căn cứ xác định cha, mẹ, con bao gồm căn cứ về mặt huyết thống, căn cứ
về mặt pháp lý được TAND xác định; luận văn khái quá việc xác định cha, mẹ, con
được TAND thụ lý, giải quyết. Bằng việc liên hệ thực tiễn, có so sánh với pháp luật
nước ngồi, tác giả đã tìm ra những bất cập của pháp luật hiện hành, từ đó đưa ra
những đề xuất để nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các vụ việc xác định cha,
mẹ, con tại Tòa án.
Nguyễn Thị Lan (2008), Xác định cha, mẹ, con trong pháp luật Việt Nam,
Luận án tiến sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Luận án nghiên cứu những
vấn đề cơ bản liên quan đến việc xác định cha, mẹ, con, đặt từng nội dung trong
mối liên hệ với thực tế từng giai đoạn phát triển của xã hội, cùng với đó so sánh
pháp luật các nước trên thế giới; đồng thời đánh giá được thực trạng thông qua các
thủ tục pháp lý nhất định.
Bài báo khoa học:
Nguyễn Văn Cừ (2002), "Một số vấn đề về xác định cha, mẹ và con ngoài giá
thú theo Luật hơn nhân và gia định Việt Nam", Tạp chí Luật học, số 01/2002. Bài
viết phân tích lịch sử hình thành quy định pháp luật về xác định cha, mẹ, con ngồi
giá thú, khơng có tồn tại hơn nhân hợp pháp. Tác giả đưa ra một số phương pháp
suy đoán về con chung ngồi giá thú, bên cạnh đó nêu được tính nổi trội của việc
giám định gien nhằm khẳng định tính huyết thống với người được xác định là cha,
mẹ, con.
Nguyễn Thị Liên Hương (2000), "Về thẩm quyền xác định cha, mẹ cho con",
Tạp chí Luật học, số 01/2000. Tác giả phân tích các quy định xoay quanh thẩm
4
quyền của UBND, của TAND trong việc giải quyết yêu cầu xác định cha, mẹ, con;
đồng thời đưa ra những bình luận, nhận định hiểu về "có tranh chấp", nêu ra được
bất cập khi yêu cầu xác định cha, mẹ, con tại cơ quan đăng ký hộ tịch.
Võ Văn Tuấn Khanh (2019), "Bàn về thẩm quyền xác định quan hệ cha, mẹ,
con", Tạp chí Kiểm sát, số 07/2019. Bài viết làm rõ các nội dung bất cập về thẩm
quyền thụ lý, giải quyết yêu cầu xác định cha, mẹ, con trong thực tiễn. Từ đó, tác giả
đưa ra những phân tích, bình luận, cũng như đề xuất hướng hồn thiện pháp luật.
Hoàng Thị Hải Yến (2006), "Một số ý kiến về thẩm quyền của Uỷ ban nhân
dân trong việc xác nhận cha, mẹ, con", Tạp chí Tịa án nhân dân, số 23/2006. Bài viết
đề cập đến việc pháp luật cần quy định cụ thể cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc
xác định cha, mẹ trong trường hợp tự nguyện và khơng có tranh chấp; nêu được ý
nghĩa, tầm quan trọng của việc xác định quan hệ cha, mẹ, con;hậu quả làm phát sinh
các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các đương sự với nhau nếu không xác định đúng
quan hệ này, có thể dẫn đến việc giải quyết khơng chính xác các tranh chấp khác.
Những cơng trình này về cơ bản đã tìm hiểu được những vấn đề về lý luận cơ
bản về chế định pháp lý xác định cha, mẹ, con tập trung giải quyết nguyên tắc chọn
luật áp dụng trong việc xác định cha, mẹ, con từ cấp độ khái quát đến chuyên sâu.
Nhưng đặc điểm của các cơng trình này là đã lâu tình hình kinh tế xã hội đã khác,
hiện nay có nhiều thay đổi; mặt khác các tác giả này là những nhà khoa học nghiên
cứu chủ yếu trên phương diện chuyên sâu về lý luận,chưa có cơng trình nào nghiên
cứu chun sâu về tính thực tiễn và thực tế vận dụng pháp luật.
Nhận thức được vấn đề này, cũng như trên cơ sơ tầm quan trọng của việc tìm
hiểu pháp luật hơn nhân và gia đình về xác định cha, mẹ, con trong trường hợp nam,
nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn theo pháp luật
hiện hành, tác giả đã tiến hành nghiên cứu chế định pháp lý về xác định cha, mẹ,
con trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng
ký kết hôn theo pháp Luật HNGĐ năm 2014, trong điều điều kiện tình hình xã hội
hiện nay và trên cơ sở phân tích, so sánh với thực tiển tác giả xét xử và sưu tầm
nghiên cứu được.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở phân tích và làm sáng tỏ các quy định của pháp luật liên quan đến
vấn đề xác định cha, mẹ, con trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như
vợ chồng mà không đăng ký kết hôn trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đánh giá
5
thực tiễn áp dụng pháp luật, chỉ ra hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật
và những khó khăn trong giải quyết các vụ việc xác định cha, mẹ, con trên thực tế,
nhằm đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực hiện việc xác định cha,
mẹ cho con trên thực tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích, làm rõ quy định của pháp luật về xác định cha, mẹ, con trong
trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về xác định cha, mẹ, con trong trường
hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, chỉ ra
bất cập, vướng mắc của vấn đề.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ,
con trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng
ký kết hôn, nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định này trong thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật Việt
Nam và thực tiễn xét xử về việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp nam, nữ
chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn trong hệ thống pháp
luật Việt Nam. Đặc biệt, tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành
và thực tiển xét xử về việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp nam, nữ chung
sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật Việt Nam về xác
định cha, mẹ, con thông qua việc sinh sản tự nhiên (tức không đề cập đến việc áp
dụng phương pháp hỗ trợ sinh sản) trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau
như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn và thực tiễn áp dụng pháp luật về việc xác
định cha, mẹ, con trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà
không đăng ký kết hôn.
Văn bản pháp luật được nghiên cứu là các quy định của Luật HNGĐ năm
2014 và văn bản hướng dẫn thi hành luật này; Luật Hộ tịch năm 2014 và các văn
bản hướng dẫn thi hành luật này; Bộ luật TTDS năm 2015.
Về đánh giá thực tiễn: Luận văn tập trung đánh giá thực tiễn thông qua các
vụ việc giải quyết xác định cha, mẹ, con trong trường hợp nam, nữ chung sống với
6
nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn trong phạm vi toàn quốc, trong
khoảng thời gian từ năm 2015 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện công việc nghiên cứu, khai thác và sử dụng tài liệu hiệu quả, tác
giả sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích: Tác giả sử dụng phương pháp phân tích tại Chương
1 để làm rõ các quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết việc xác định cha,
mẹ, con trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không
đăng ký kết hôn, đồng thời làm rõ về thẩm quyền. Cụ thể phương pháp này được sử
dụng tại Mục 1.1 và 1.2. Tại Chương 2, tác giả sử dụng phương pháp phân tích làm
rõ các quy định của pháp luật về việc giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong
trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hơn
tại Tịa án.
- Phương pháp so sánh: Tác giả sử dụng phương pháp này để so sánh quy
định của pháp luật hiện hành về việc xác định cha, mẹ, convới các quy định thời kỳ
trước, các quy định của pháp luật nước ngoài, giữa các bản án với nhau, để làm rõ
nội dung nghiên cứu, luận giải cho quan điểm của tác giả.
Phương pháp tổng hợp: Tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp để tổng kết
lại các vấn đề đã phân tích. Phương pháp này cũng được tác giả sử dụng tại phần
kết luận của mỗi mục và chương để khái quát được những nội dung đã trình bày và
từ đó đề xuất kiến nghị và kết luận chung của luận văn.
Phương pháp bình luận:Tại Chương 1, tác giả chú trọng sử dụng phương
pháp bình luận các tình huống pháp lý có tranh chấp thẩm quyềngiữa cơ quan đăng
ký hộ tịch với TAND đối với giải quyết yêu cầu xác định cha, mẹ, con trong trường
hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, để thấy
rõ hơn thực tiễn áp dụng pháp luật. Tại chương 2, tác giả chú trọng sử dụng phương
pháp bình luận các bản án, quyết định của Tòa án, để thấy rõ hơn thực tiễn áp dụng
pháp luật;cụ thể phương pháp này được sử dụng tại Mục 2.1 và 2.2.
6. Kết quả nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu của đề tài nhằm bổ sung, làm phong phú thêm lý luận khoa
học pháp lý đối với các vấn đề liên quan đến việc xác định cha, mẹ, con trong trường
hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn theo thủ
tục hành chính (cơ quan đăng ký hộ tịch) và theo thủ tục tư pháp (TAND).Với việc
đưa ra các bình luận, so sánh, dẫn chứng các quan điểm của các nhà nghiên cứu khác,
7
có sự luận giải và trình bày quan điểm cá nhân, tác giả đúc kết được những mặt ưu,
khuyết điểm của pháp luật hiện hành, từ đó đưa ra các đề xuất để Quốc hội, Chính
phủ sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật hiện đang có hiệu lực nhưng chưa phù
hợp với thực tiễn; hay kiến nghị, đề xuất TAND tối cao ban hành nghị quyết, hướng
dẫn nghiệp vụ các TAND cấp dưới.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục thì luận
văn được chia làm 02 chương:
Chương 1. Thẩm quyền giải quyết yêu cầu xác định cha, mẹ, con trong
trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
Chương 2. Thủ tục giải quyết yêu cầu xác định cha, mẹ, con trong trường
hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
8
CHƯƠNG 1
THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT YÊU CẦU XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON
TRONG TRƯỜNG HỢP NAM, NỮ CHUNG SỐNG VỚI NHAU
NHƯ VỢ CHỒNG MÀ KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN
Pháp luật về HNGĐ quy định, con sinh ra hoặc hình thành thai trong thời kỳ
hơn nhân, tức khi nam nữ có đăng ký kết hơn theo quy định pháp luật, thì được xác
định là con chung của vợ chồng. Nếu cha, mẹ khơng thừa nhận con thì phải có
chứng cứ và được Tòa án xác định.1 Như vậy, về mặt pháp lý con sinh ra hay hình
thành thai trong thời kỳ hơn nhân được xác định cha, mẹ theo thông tin đăng ký kết
hơn, đây là ngun tắc suy đốn cha, mẹ, con đối với hôn nhân hợp pháp. Đối với
trường hợp này, con được xác định thông tin hộ tịch một cách rõ ràng, được đăng
ký khai với tên cha, tên mẹ xác định tại giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Tuy
nhiên, trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà khơng có
đăng ký kết hơn, thì khơng thể xác định cha, mẹ, con theo ngun tắc suy đoán trên;
vấn đề này được giải quyết bằng vụ việc xác định cha, mẹ, con và được cơ quan có
thẩm quyền giải quyết, quyết định.
Theo Điều 101 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 thì thẩm quyền giải
quyết việc xác định cha, mẹ, con được phân định như sau:
Trường hợp khơng có phát sinh tranh chấp: Cơ quan đăng ký hộ tịch là nơi
có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo pháp luật về hộ tịch.
Trường hợp phát sinh tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định cha, mẹ,
con đã chết hoặc người có yêu cầu xác định cha, mẹ, con đã chết: Tòa án nhân dân
các cấp là cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Ở góc độ nội dung yêu cầu, việc phân định này được chia dựa trên tính chất
phức tạp của loại vụ việc xác định cha, mẹ, con. Đối với trường hợp khơng có tranh
chấp, các bên liên quan cịn sống và hiểu rõ được các quyền, nghĩa vụ trong việc xác
định cha, mẹ, con thì thủ tục đơn giản chỉ cần chỉnh lý thông tin tại cơ quan hộ tịch,
căn cứ vào việc điều chỉnh thông tin hộ tịch này thì các bên thực hiện các quyền,
nghĩa vụ liên quan với nhau. Ngược lại, đối với các vụ việc có tính chất phức tạp hơn,
địi hỏi cần phải xác minh, thu thập chứng cứ một cách khách quan, kỹ lưỡng để đưa
ra quyết định cuối cùng thì thẩm quyền thuộc về Tịa án nhân dân, cơ quan tư pháp và
có nhiệm vụ xét xử, giải quyết các tranh chấp dân sự tại Việt Nam.
1
Điều 88 Luật HNGĐ năm 2014.
9
Việc phân định thẩm quyền trên là hợp lý, bởi lẽ một mặt trong các vụ, việc
xác định cha, mẹ, con có tính chất đơn giản, được sự đồng thuận và thống nhất giữa
các đương sự thì việc giao thẩm quyền cho Tịa án giải quyết là khơng cần thiết, vì
phải tiến hành các thủ tục tố tụng trong một thời hạn nhất định, chưa kể hiệu lực bản
án, quyết định của Tịa án cịn phụ thuộc vào việc có kháng cáo, kháng nghị hay
khơng. Do đó, trong các vụ việc có tính chất giản đơn, việc chỉnh lý thơng tin hộ
tịch đem lại những hiệu quả tích cực, giảm thiểu thủ tục hành chính phức tạp và tiết
kiệm thời gian cho các bên đương sự. Một mặt, cũng để giảm khối lượng cơng việc
mà Tịa án giải quyết, tạo nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho đương sự trong việc
tránh tâm lý “trông chờ” đến khi được cơ quan chức năng giải quyết.
Ở khía cạnh khác, trong trường hợp có phát sinh tranh chấp, có bên đề nghị
xác định cha, mẹ, con nhưng bên cịn lại khơng thừa nhận, hoặc người có quyền yêu
cầu, người liên quan đến việc xác định cha, mẹ, con chết đi, ý chí của họ khơng
được thể hiện, do đó cần đến việc xác định thông qua các biện pháp xác minh, thu
thập chứng cứ, mà ở đây đa số thơng qua bằng hình thức giám định di truyền học
(hay còn gọi là giám định AND) để khẳng định huyết thống giữa các đương sự.
Những cơng việc này khơng thể giao phó cho cơ quan đăng ký hộ tịch, mà thuộc
thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tịa án là hồn tồn phù hợp.
Mặc dù pháp luật thể hiện ý chí và sự phân định khá rạch ròi về thẩm quyền
giải quyết việc xác đinh cha, mẹ, con nhưng trên thực tế việc áp dụng Điều 101 của
Luật HNGĐ còn gặp nhiều trở ngại, có nhiều ý kiến trái chiều, thậm chí các cơ quan
chức năng không xác định rõ được thẩm quyền, hướng dẫn đương sự thực hiện thủ
tục tại cơ quan khác, hay đơn cử có trường hợp các cơ quan đều khơng nhìn nhận vụ
việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình. Chính điều đó, khiến cho các vụ việc xác
định cha, mẹ, con mất nhiều thời gian, công sức, trong khi họ cần thực hiện gấp rút
nhiều thủ tục liên quan để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình, như được
thừa kế, được cấp dưỡng, thực hiện các nghĩa vụ chăm sóc,…Để làm rõ các vấn đề
này, tác giả đi sâu vào phân tích các cơ sở pháp lý, cũng như việc vận dụng các quy
định trên thực tiễn để nêu ra được bất cập, nguyên nhân và có đề xuất phù hợp.
1.1. Thẩm quyền xác định cha, mẹ, con trong trường hợp khơng có
tranh chấp
Tranh chấp là một khái niệm rất rộng, bao quát nhiều lĩnh vực chứ khơng
riêng gì lĩnh vực dân sự. Đến nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào đưa ra
định nghĩa cụ thể như thế nào gọi là “tranh chấp”, mà bản chất của nó được nhận
10
diện thông qua việc xung đột các quyền và lợi ích hợp pháp, bao gồm cả quyền
nhân thân và quyền tài sản, giữa các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự. Như
vậy, khơng có tranh chấp được hiểu theo nghĩa ngược lại theo cách các bên khơng
có sự mâu thuẫn, đối kháng, thậm chí có là đồng thuận trong một vấn đề nhất định.
Đối với vụ việc xác định cha, mẹ, con mà khơng có phát sinh tranh chấp thì
thẩm quyền thuộc cơ quan đăng ký hộ tịch. Khi thực hiện, người yêu cầu phải nộp
tờ khai, cùng chứng cứ chứng minh việc xác lập quan hệ cha con hoặc mẹ con, cùng
với đó là sự tham gia đầy đủ của các bên, trong trường hợp cần thiết cơ quan đăng
ký hộ tịch có thể tiến hành các biện pháp xác minh.2 Như vậy, việc xác định cha,
mẹ, con trong trường hợp khơng có tranh chấp là thực hiện thủ tục pháp lý, điều
chỉnh, thay đổi, bổ sung thông tin hộ tịch của các bên.
Cơ quan đăng ký hộ tịch ở đây là Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn; Ủy
ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và đơn vị hành chính tương
đương; Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại diện lãnh sự của Việt Nam ở nước
ngoài. Tuy nhiên, trong trường hợp có yêu cầu xác định cha, mẹ, con tại cơ quan
đăng ký hộ tịch được thực hiện tại UBND cấp xã, khi thực hiện người có yêu cầu
cung cấp giấy tờ tùy thân, kèm chứng cứ chứng minh cho quan hệ cha – con, mẹ con3, bao gồm: văn bản của cơ quan y tế, cơ quan giám định hoặc cơ quan, tổ chức
khác có thẩm quyền ở trong nước hoặc nước ngoài xác nhận quan hệ cha con, quan
hệ mẹ con; nếu khơng có giấy tờ này thì chứng cứ là văn bản cam đoan về mối quan
hệ cha, mẹ, con và có ít nhất hai người làm chứng.4
Về phạm vi điều chỉnh, pháp luật thể hiện quy định rất rõ về trình tự, thủ tục,
cách thức giải quyết yêu cầu xác định cha, mẹ, con tại cơ quan đăng ký hộ tịch,
cũng như về thẩm quyền, nhưng trên thực tế vẫn có phát sinh một số bất cập, có thể
kể đến như sau:
(i) Bất cập trong việc áp dụng thời hạn giải quyết đơn yêu cầu xác định cha,
mẹ, con:
Khoản 2 Điều 25 Luật hộ tịch quy định cụ thể về các bước thực hiện, cũng
như thời hạn xem xét, giải quyết yêu cầu xác định cha, mẹ, con. Nhưng bên cạnh đó,
khoản 3 Điều 19 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định: “Trong thời hạn 07 ngày
làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, công chức tư pháp - hộ tịch kiểm tra hồ
Điều 25 LHT.
Điều 19 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP.
4
Điều 14 Thông tư số 04/2020/TT-BTP.
2
3
11
sơ, niêm yết việc nhận cha, mẹ, con tại trụ sở Ủy ban nhân dân và báo cáo Chủ tịch
Ủy ban nhân dân xã quyết định. Trường hợp phải xác minh thì thời hạn giải quyết
khơng q 12 ngày làm việc.
Nếu thấy việc nhận cha, mẹ, con là đúng và khơng có tranh chấp, cơng chức
tư pháp - hộ tịch ghi nội dung vào Sổ hộ tịch, cùng người có yêu cầu ký, ghi rõ họ
tên vào Sổ hộ tịch; Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã ký cấp cho mỗi bên 01 bản chính
trích lục hộ tịch”
Như vậy, cùng một nội dung điều chỉnh nhưng các quy định nêu trên thiếu sự
thống nhất, gây lúng túng cho người áp dụng pháp luật. Vấn đề này, có 02 quan
điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất:Quy định tại khoản 3 Điều 19 Nghị định số 123/2015/NĐCP là trái với khoản 2 Điều 25 Luật hộ tịch, căn cứ vào trình tự ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật thì giá trị pháp của của Luật hộ tịch cao hơn so với nghị
định hướng dẫn thi hành. Và nghị định hướng dẫn thi hành, khơng thể có giá trị pháp
lý, cũng như điều chỉnh một nội dung khác so với luật. Chính vì vậy, trong trường
hợp đương sự cung cấp đủ giấy tờ chứng minh, cũng như nộp đơn theo quy định mà
không vấp phải sự đối kháng, tranh chấp với bên thứ ba, thì việc xác định cha, mẹ,
con được ghi nhận vào sổ hộ tịch trong thời hạn được quy định tại khoản 2 Điều 25
Luật hộ tịch.
Quan điểm thứ hai:Quy định tại khoản 3 Điều 19 của Nghị định số
123/2015/NĐ-CP không trái với khoản 2 Điều 25 Luật Hộ tịch, mà quy định này
hướng dẫn chi tiết để có một khoảng thời gian hợp lý để công chức tư pháp – hộ
tịch xác định tính đúng đắn trong việc nộp đơn yêu cầu xác định cha, mẹ, con của
đương sự thông qua việc niêm yết công khai. Việc niêm yết này là một biện pháp rà
soát, kiểm tra vụ việc có tranh chấp hay khơng, từ đó có một cơ sở vững chắc để
thực hiện việc xác định cha, mẹ, con bằng việc ghi thông tin vào sổ hộ tịch. Đây
dường như là một biện pháp an toàn, cụ thể và có thời hạn dài hơn để xác định
thơng tin các bên đương sự đăng ký và khai đối với nội dung xác định cha, mẹ, con.
Khi kết thúc thời hạn niêm yết, mà khơng có ai phản đối yêu cầu xác định cha, mẹ,
con của đương sự thì công chức tư pháp – hộ tịch xác định được các chứng cứ và
lời khai của đương sự có yêu cầu là có cơ sở chấp nhận.
Tuy nhiên, tác giả đồng tình với quan điểm thứ nhất, bởi lẽ khi đương sự
nộp đơn yêu cầu xác định cha, mẹ, con và đăng ký thơng tin hộ tịch, kèm theo đó
là giấy tờ, tài liệu chứng minh cho quan hệ cha – con, mẹ - con, khi vào sổ đăng
12
ký buộc các bên đương sự phải có mặt đầy đủ, cùng ký tên vào sổ hộ tịch. Đây là
được xem là việc xác nhận thông tin, cam đoan việc trình bày của đương sự có sự
thống nhất, cùng một nội dung khẳng định quan hệ huyết thống; bản thân những
người kê khai này phải chịu trách nhiệm, hệ quả pháp lý trong trường hợp khai
không đúng sự thật.5
Như vậy, chỉ cần căn cứ vào các thông tin được các bên đương sự xác nhận
thì cơng chức tư pháp – hộ tịch tiến hành xác định họ tên cha, mẹ, con vào hộ tịch
của các bên. Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp, hoặc có căn cứ xác định
thông tin xác định cha, mẹ, con này không đúng sự thật thì cơ quan đăng ký hộ tịch
có quyền hủy bỏ kết quả đăng ký hộ tịch. Những nội dung này thể hiện bản chất của
việc xác định cha, mẹ, con theo pháp luật hộ tịch có tính chất giản đơn, có sự đồng
thuận cao giữa các bên có liên quan; trái ngược với tính chất phức tạp, cần phải
xác minh, thu thập chứng cứ một cách đầy đủ, khách quan như vụ việc được Tòa án
thụ lý, giải quyết. Và cũng chính ưu thế này, giúp giảm thiểu thủ tục hành chính,
phiền hà cho người dân, nên càng đơn giản, rút gọn thì càng đem lại hiệu quả nhất
định. Mặt khác, việc niêm yết thông tin về xác định cha, mẹ, con một cách công khai
là việc “nhạy cảm”, bởi tính chất nhân thân trong quan hệ cha, mẹ, con.
Tác giả kiến nghị, đề xuất: Để giải quyết bất cập trên, cũng như căn cứ vào
vị trí pháp lý theo quy định về ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đề nghị
Chính phủ bãi bỏ khoản 3 Điều 19 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP, để phù hợp và
có sự thống nhất với Luật hộ tịch.
Nội dung của Khoản 3, Điều 19 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP cần bãi bỏ là:
“3. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, công
chức tư pháp - hộ tịch kiểm tra hồ sơ, niêm yết việc nhận cha, mẹ, con tại trụ sở Ủy
ban nhân dân và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã quyết định. Trường hợp
phải xác minh thì thời hạn giải quyết không quá 12 ngày làm việc.
Nếu thấy việc nhận cha, mẹ, con là đúng và khơng có tranh chấp, công chức
tư pháp - hộ tịch ghi nội dung vào Sổ hộ tịch, cùng người có yêu cầu ký, ghi rõ họ
tên vào Sổ hộ tịch; Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã ký cấp cho mỗi bên 01 bản chính
trích lục hộ tịch.”
(ii) Bất cập trong việc lập văn bản cam đoan quan hệ cha, mẹ, con và có sự
tham gia của người làm chứng:
5
Khoản 2 Điều 5 Thông tư số 04/2020/TT-BTP.
13
Về cơ sở khoa học, thì kết luận giám định di truyền học (AND) là cơ sở khẳng
định huyết thống bằng phương pháp có tính chính xác gần như tuyệt đối; còn văn
bản xác nhận quan hệ cha, mẹ, con của cơ quan có thẩm quyền trong và ngồi nước
là cơ sở pháp lý độc lập, đây đều là những chứng cứ mang tính khẳng định để cơ
quan hộ tịch căn cứ vào đó để thay đổi, bổ sung thơng tin hộ tịch. Tuy nhiên, không
phải trường hợp nào người yêu cầu xác định cha, mẹ, con cũng có điều kiện kinh tế
để thực hiện việc trưng cần giám định ADN, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa còn gặp
nhiều khó khăn về đời sống, nhận thức, chính vì đó khoản 2 Điều 14 Thông tư số
04/2020/TT-BTP mở rộng phạm vi về chứng cứ chứng minh quan hệ cha, mẹ, con,
đó là dựa trên văn bản cam đoan của các bên đương sự và các đương sự tự chịu
trách nhiệm về tính xác thực thơng tin.
Ngồi văn bản cam đoan, cịn có ý kiến xác nhận của ít nhất hai người làm
chứng. Nhưng người làm chứng này xác nhận nội dung gì liên quan đến việc xác
định quan hệ cha, mẹ, con thì khơng được nêu rõ.Quan điểm của tác giả nghĩ
rằng,việc yêu cầu người làm chứng xác nhận là không cần thiết, bởi lẽ:
Thứ nhất, việc xác lập quan hệ cha, mẹ, con về mặt sinh học căn bản dựa
trên quan hệ tình dục nam, nữ để hình thành bào thai, sinh ra con chung. Quan hệ
này là quan hệ tình cảm, riêng tư giữa người cha và người mẹ, người khác hồn
tồn khơng thể có khả năng để chứng kiến việc này để làm chứng.
Thứ hai, việc chứng kiến và xác nhận quan hệ cha, mẹ, con cơ bản chỉ nằm
trong phạm vi thấy được việc nuôi dưỡng, chăm sóc, tình thương,… giữa các bên.
Đây chỉ là cơ sở mang tính chất định tính, có phần chủ quan, chứ khơng mang
tính khoa học. Rất nhiều trường hợp “người cha thực tế” chăm sóc người con
khơng phải là con ruột của mình, về bản chất di truyền và quan hệ nam, nữ thì
người con có huyết thống với “người cha sinh học”, việc xác định “người cha
sinh học” này phần lớn dựa trên lời trình bày của người mẹ sinh ra đứa con.
Người xung quanh, cũng như người thân thích khó có khả năng để nhận diện được
vấn đề này,nên việc làm chứng của họ không đảm bảo cơ sở vững chắc.Mặt khác,
cần tôn trọng quyền tự quyết định, định đoạt và chịu trách nhiệm cá nhân trước
nội dung xác nhận quan hệ cha, mẹ, con do các bên đương sự lập, mà khơng cần
có người làm chứng, là phù hợp. Trong trường hợp, có căn cứ xác định văn bản
xác nhận trên không đúng sự thật mà cơ quan hộ tịch đã ban hành quyết định
công nhận quan hệ cha, mẹ, con, thì có quyền u cầu Tịa án hủy quyết định này
và xác định cha, mẹ, con cho các bên.
14
Kiến nghị:
Bộ Tư pháp sửa đổi khoản 2 Điều 14 Thông tư số 04/2020/TT-BTP về bỏ yêu
cầu người làm chứng xác nhận quan hệ cha, mẹ, con. Cụ thể như sau:
“Điều 14. Chứng cứ chứng minh quan hệ cha, mẹ, con
2. Trường hợp khơng có chứng cứ chứng minh quan hệ cha, mẹ, con theo quy
định tại khoản 1 Điều này thì các bên nhận cha, mẹ, con lập văn bản cam đoan về
mối quan hệ cha, mẹ, con theo quy định tại Điều 5 Thông tư này.”
(iii) Bất cập về xác định thẩm quyền đối với vụ việc xác định cha, mẹ, con
khơng có tranh chấp:
Điều 101 Luật HNGĐ năm 2014 đã phân định rất rõ về thẩm quyền giải
quyết việc xác định cha, mẹ, con, theo đó cơ quan hộ tịch là nơi có thẩm quyền khi
yêu cầu của đương sự khơng có phát sinh tranh chấp. Quy định này dẫn chiếu đến
Luật hộ tịch năm 2014 là cơ sở để áp dụng, điều chỉnh các nội dung liên quan. Tuy
nhiên, có vụ việc mặc dù khơng có yếu tố “tranh chấp”, tức đương sự đều thống
nhất và công nhận nội dung xác định cha, mẹ, con là đúng thực tế nhưng vẫn được
Tòa án thụ lý, giải quyết. Vấn đề này được thể hiện qua các ví dụ sau:
Ví dụ:6Ơng Nguyễn Văn H và bà Lâm Thị M chung sống với nhau như vợ
chồng nhưng không đăng ký kết hôn từ năm 1980. Trong thời gian chung sống, ơng
bà có 02 con chung là Nguyễn Quang Th và Nguyễn Quang Gi. Năm 1982, bà M
sinh ông Th, mẹ của bà M có đến nhà ơng H mượn giấy chứng minh nhân dân để
đăng ký khai sinh cho ông Th, tuy nhiên mẹ của ông H lại đưa nhầm chứng minh
nhân dân của ông Nguyễn Văn M là em của ông H. Năm 1987 bà Lâm Thị M chết.
Do gia đình khơng biết chữ, nên việc đăng ký khai sinh khơng phát hiện sai sót, cho
đến khi ơng Th đi học thì mới biết. Nay ơng Th khởi kiện ơng Nguyễn Văn H u
cầu Tịa án xác định ông H mới là cha ruột của ông Th.
Bị đơn ông Nguyễn Văn H, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn
Văn M thống nhất và đồng ý với u cầu khởi kiện của ơng Th, đề nghị Tịa án xác
định ông H mới là cha ruột của ông Th. Căn cứ vào lời khai của các đương sự,
cũng như kết quả giám định ADN, Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn xác định ông Nguyễn Văn H là cha ruột của ông Nguyễn Quang Th, đồng thời
tun quyền cải chính hộ tịch.
Trong tình huống trên, rõ ràng giữa ông Th, ông H và ông M có sự thống
nhất khi xác định ơng H mới là cha ruột của ông Th, việc đăng ký khai sinh bị sai
6
Bản án sơ thẩm số 658/2020/HNGĐ-ST ngày 29/12/2020 của TAND Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.
15
sót. Các bên đương sự hồn tồn khơng có mâu thuẫn, khơng có tranh chấp, về lẽ
nội dung u cầu này được thực hiện tại cơ quan đăng ký hộ tịch theo như quy định
tại khoản 1 Điều 101 Luật HNGĐ năm 2014, nhưng vụ việc lại được thụ lý và quyết
định bằng bản án, mà không phải là thủ tục hành chính.
Rõ ràng có sự chồng chéo, khơng thống nhất trong việc áp dụng pháp luật để
xác định thẩm quyền giải quyết yêu cầu xác định cha, mẹ, con trên thực tế. Điều
này xuất phát từ việc chưa có cách hiểu thống nhất về khái niệm“tranh chấp”. Vậy,
trong tình huống trên thì thẩm quyền thuộc cơ quan nào giải quyết, vấn đề này có
nhiều quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất: Quy định của Luật HNGĐ cho rằng, cơ quan đăng ký hộ
tịch có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con khi các bên khơng có tranh chấp là khơng
phù hợp, nói cách khác, Luật hộ tịch quy định xác định cha, mẹ, con chỉ được cơ
quan đăng ký hộ tịch ghi vào sổ hộ tịch khi và chỉ khi có bản án, quyết định của Tịa
án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định về vấn đề này. Cơ quan đăng ký
hộ tịch thực hiện công việc hành chính - tư pháp, cấp hộ tịch cho cơng dân theo tình
huống hành chính thơng thường, cứ có đủ giấy tờ theo quy định của pháp luật thì
trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan này là phải cấp, nhưng hồn tồn khơng có
quyền để đưa ra phán quyết xác định một người có phải là cha, mẹ, con hay không.
Cần phải hiểu rằng, trường hợp xác định cha, mẹ, con do cơ quan đăng ký hộ
tịch thực hiện không bao gồm trường hợp một người nhận con của một người khác
là con và người đang là cha, mẹ cũng đồng ý. Bởi vì, cơ quan đăng ký hộ tịch không
thể tước bỏ quyền đang làm cha, mẹ, con của một người rồi lại xác định một người
khác là cha, mẹ, con cho dù tất cả các chủ thể có liên quan đều tự nguyện và khơng
có tranh chấp. Trường hợp này vẫn thuộc thẩm quyền của Tòa án, và thuộc yêu cầu
xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ. Nói cách khác, Tịa án thụ lý theo
trình tự giải quyết vụ án nếu có các bên khơng có sự thống nhất về việc xác định
cha, mẹ, con dù đã có kết luận giám định AND của cơ quan chun mơn có thẩm
quyền; hoặc trường hợp có sự thống nhất xác định cha, mẹ, con nhưng chưa có kết
luận giám định AND.7
Quan điểm thứ hai: Trong trường hợp yêu cầu xác định cha, mẹ, con mà
không có tranh chấp và cha, mẹ, con cịn sống tại thời điểm có u cầu xác định
cha, mẹ, con khơng phải là trường hợp thụ lý yêu cầu việc dân sự theo khoản 10
Nguyễn Biên Thùy và Đặng Thanh Hoa, “Thẩm quyền xác định cha, mẹ, con”, truy cập ngày 23/12/2021.
7
16
Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vì khơng thuộc thẩm quyền của Tồ án.
Tồ án chỉ thụ lý yêu cầu xác định cha, mẹ, con theo thủ tục việc dân sự quy định
tại khoản 10 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đối với trường hợp yêu cầu
xác định cha, mẹ, con mà người được yêu cầu xác định cha, mẹ, con đã chết đồng
thời khơng có tranh chấp và trường hợp u cầu xác định cha, mẹ, con mà người có
yêu cầu chết đồng thời khơng có tranh chấp.8
Tác giả ủng hộ quan điểm thứ hai, vì hiện nay thẩm quyền cơ quan giải quyết
vụ việc xác định cha, mẹ, con được điều chỉnh bởi BLTTDS, Luật HNGĐ và cả Luật
hộ tịch. Chính vì đó, dẫn đến sự thiếu thống nhất, đồng bộ, cách sử dụng thuật ngữ
pháp lý và cách hiểu quy định của từng văn bản còn khác nhau. Để giải quyết vấn
đề này, tác giả đi sâu vào phân tích các nội dung sau để làm rõ nội hàm, cũng như
lý do ủng hộ quan điểm thứ hai:
Thứ nhất, Luật hộ tịch chia nội dung đăng ký hộ tịch thành 02 trường hợp:
(1) Xác nhận vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch, trong đó có việc nhận cha, mẹ, con;
(2) Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án, quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong đó có việc xác định cha, mẹ, con.9Theo
cách hiểu ở quan điểm thứ nhất, thì việc nhận cha, mẹ, con và xác định cha, mẹ,
con là các thủ tục khác nhau, tồn tại biệt lập; việc xác định cha, mẹ, con nhằm thực
hiện thủ tục để thay đổi hộ tịch. Khoản 10 Điều 4 Luật hộ tịch đưa ra định nghĩa:
Thay đổi hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký thay đổi những
thông tin hộ tịch của cá nhân khi có lý do chính đáng theo quy định của pháp luật
dân sự hoặc thay đổi thông tin cha, mẹ trong nội dung khai sinh đã đăng ký theo
quy định pháp luật. Như vậy, việc ông Th khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định lại cha
ruột để từ đó có căn cứ thay đổi hộ tịch, là phù hợp với quan điểm này.
Tuy nhiên, quan điểm thứ nhất cho rằng cơ quan đăng ký hộ tịch có quyền
xác định cha, mẹ, con khi có bản án, quyết định của Tịa án, vì đây là nội dung
thay đổi thông tin hộ tịch chứ không phải là ghi nhận một sự kiện hộ tịch. Theo
cách hiểu này, thì thủ tục nhận cha, mẹ, con tại cơ quan đăng ký hộ tịch có giá trị
pháp lý như thế nào? Trong khi việc nhận cha, mẹ, con này được hiểu cách xác
định cha, mẹ, con theo thủ tục hành chính, đơn giản và tối ưu hóa thời gian cho
người dân. Với cách hiểu này, phạm vi và tính hiệu quả của thủ tục xác nhận cha,
Nguyễn Văn Chung, “Về thẩm quyền của Tòa án và cơ quan đăng ký hộ tịch trong việc xác định cha, mẹ, con”,
-viecxac-dinh-cha-me-con-5287.html, truy cập ngày 24/12/2021.
9
Điều 3 LHT.
8
17
mẹ, con hẹp đi rất nhiều và hiếm xảy ra trên thực tế. Mặt khác, trong các chứng
cứ chứng minh cho quan hệ cha, mẹ, con theo thủ tục nhận cha, mẹ, con bao gồm
cả văn bản xác nhận quan hệ cha, mẹ, con của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền,
đây có thể là bản án hoặc quyết định của cơ quan khác có giá trị pháp lý và hiệu
lực để thi hành. Như vậy, việc cơ quan hộ tịch sử dụng chứng cứ này để thực hiện
thủ tục nhận cha, mẹ, con (được hiểu là sự kiện hộ tịch) có sự chồng chéo với quy
định với thay đổi hộ tịch được quy định tại Điều 3 Luật hộ tịch.Ngồi ra, theo
quan điểm này thì cơ quan hộ tịch khơng có thẩm quyền để xác định cha, mẹ, con
theo khoản 1 Điều 101 Luật HNGĐ mà chỉ có quyền ghi nhận việc thay đổi thông
tin hộ tịch được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án, hiểu theo quan
điểm này thì dường như khoản 1 Điều 101 Luật HNGĐ là thừa, thẩm quyền xác
định cha, mẹ, con đều thuộc Tịa án.
Thứ hai, Tịa án có thẩm quyền thụ lý vụ án “Tranh chấp về xác định cha, mẹ
cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ”10hay thụ lý vụ việc dân sự “Yêu cầu xác
định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ theo pháp luật về hơn nhân gia đình”11.
Đối với với Điều 101 Luật HNGĐ thì Tịa án thụ lý tranh chấp về xác định cha, mẹ,
con là điều đương nhiên và có sự thống nhất giữa hai văn bản quy phạm pháp luật.
Nhưng đối với yêu cầu xác định cha, mẹ, con trong nhiều trường hợp khơng có
tranh chấp giữa các đương sự thì thuộc thẩm quyền thụ lý của cơ quan hộ tịch hay
của Tòa án khi thụ lý dưới dạng vụ việc hơn nhân gia đình. Có phải đây là sự chồng
chéo về thẩm quyền, giữa các văn bản quy phạm pháp luật khơng?
Theo quan điểm thứ hai, thì tác giả khẳng định khơng có sự chồng chéo giữa
BLTTDS, Luật HNGĐ và Luật hộ tịch, mà do cách hiểu và nhận diện tình huống
pháp lý chưa thống nhất. Việc xác định thẩm quyền cần được chia như sau:
- Cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo quy
định của pháp luật về hộ tịch trong trường hợp khơng có tranh chấp và cha, mẹ, con
cịn sống tại thời điểm có yêu cầu xác định cha, mẹ, con.
- Tồ án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục việc dân sự về xác định cha,
mẹ, con trong các trường hợp sau (khơng có tranh chấp): (1) Trường hợp người
được xác định là cha, mẹ, con đã chết; (2) Trường hợp có yêu cầu về việc xác định
cha, mẹ, con mà người có yêu cầu chết; (3) Trường hợp người liên quan trực tiếp
đến yêu cầu xác định cha, mẹ, con đã chết.
10
11
Khoản 4 Điều 28 BLTTDS.
Khoản 10 Điều 29 BLTTDS.
18
- Tồ án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục vụ án dân sự về xác định cha,
mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp.12
Với cách hiểu trên, ở trường hợp của ông Th, giữa các đương sự không có
tranh chấp nhưng bà M là mẹ của ơng Th đã chết nên khơng thể có mặt để tiến
hành thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con theo pháp luật về hộ tịch. Mà việc này được
Tòa án thụ lý bằng việc hơn nhân gia đình, ban hành quyết định giải quyết việc dân
sự.Ở đây, bà M không phải là người được yêu cầu xác định là mẹ ruột của ông Th,
bà M cũng không phải là người yêu cầu xác định cha cho con, do đó khơng thuộc
phạm vi điều chỉnh của khoản 2 Điều 101 Luật HNGĐ. Nên cách xác định thẩm
quyền như trên, đã lấp đầy chỗ trống đối với trường hợp của ông Th, tức được Tịa
án thụ lý và giải quyết bằng vụ việc hơn nhân gia đình.
Kiến nghị:
Với những bất cập, chưa có sự thống nhất giữa BLTTDS, Luật HNGĐ và
Luật Hộ tịch. Tác giả có một số kiến nghị, đề xuất cụ thể như sau:
Thứ nhất,để tránh nhầm lẫn việc xác định cha, mẹ, con là một nội dung thay
đổi hộ tịch và chỉ được thực hiện theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyềnquy định tạikhoản 2 Điều 3 Luật Hộ tịch; đồng thời để phân định rõ
thẩm quyền của cơ quan hộ tịch trong việc xác định cha, mẹ, con theo khoản 1 Điều
101 Luật HNGĐ, thì Quốc hội cần sửa đổi Điều 3 Luật Hộ tịch theo hướng bỏ khái
niệm “sự kiện hộ tịch”, thay vào đó liệt kê việc đăng ký hộ tịch bao gồm: khai sinh;
kết hôn; xác định cha, mẹ, con;…Như vậy, sẽ giúp cách hiểu và vận dụng pháp luật
được rõ ràng hơn.
Thứ hai,Tịa án nhân dân tối cao cần có văn bản hướng dẫn nghiệp vụ về
việc xác định thẩm quyền trong vụ việc xác định cha, mẹ, con theo nội dung mà tác
giả vừa trình bày. Đây là giải pháp để có cách hiểu thống nhất, tránh tranh chấp về
thẩm quyền và giải thích rõ quy định pháp luật hiện hành mà không cần phải sửa
đổi nội dung văn bản quy phạm pháp luật.
1.2. Thẩm quyền xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp;
người được xác định hoặc người có yêu cầu xác định cha, mẹ, con chết
Căn cứ khoản 2 Điều 101 Luật HNGĐ thì Tịa án là cơ quan có thẩm quyền
xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có phát sinh tranh chấp; người được xác
định là cha, mẹ, con đã chết; hoặc trường hợp có yêu cầu về việc xác định cha, mẹ,
con mà người có u cầu chết thì quyền u cầu này được thực hiện thông qua
12
Nguyễn Văn Chung, tlđd (8).
19
người thân thích.13 Ngồi ra, Tịa cịn có thẩm quyền giải quyết các vụ việc xác định
cha, mẹ, con theo pháp luật tố tụng dân sự được trình bày ở phần trên. Luật HNGĐ
đã cụ thể hóa và phân định thẩm quyền của Tòa án với cơ quan hộ tịch, mục đích
của việc để cho cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con cũng
vì đặt lợi ích của người dân lên hàng đầu, hạn chế thủ tục, giúp tiết kiệm thời gian.
Việc xác định cha, mẹ, con tại Tòa án là xác định mối quan hệ huyết thống
trực hệ, đây được coi là thuộc tính tự nhiên, khác với việc xác định cha, mẹ, con
dưới góc độ sử dụng phương pháp kỹ thuật hỗ trợ sinh sản như cho trứng, cho tinh
trùng, cho phôi,…14Xác định quan hệ cha, mẹ, con tồn tại với tư cách một quan hệ
pháp luật, quan hệ mang tính ý chí, thể hiện ý chí của một hoặc nhiều chủ thể về
mong muốn xác định hoặc phủ nhận mối quan hệ cha, mẹ, con đang tồn tại.Cũng
chính ý chí này, thẩm quyền được phân định theo cơ quan hành chính (cơ quan
đăng ký hộ tịch, Ủy ban nhân dân các cấp) và cơ quan tư pháp (Tòa án nhân dân),
việc phân định này dựa trên ý chí tự nguyện nhận cha, mẹ, con hoặc có tranh chấp
trong việc xác định cha, mẹ, con.15
Đối với việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng không được coi là
hôn nhân hợp pháp vì khơng có đăng ký kết hơn theo quy định pháp luật (trừ các
trường hợp như chung sống với nhau trước ngày 03/01/1987, thời điểm có hiệu lực
của Luật HNGĐ năm 1986), việc không đăng ký kết hôn này không làm phát sinh
quyền, nghĩa vụ của vợ chồng theo pháp luật, nhưng không loại trừ quyền và nghĩa
vụ đối với con chung.
Pháp luật HNGĐ hiện hành không điều chỉnh việc xác định cha, mẹ, con
trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký
kết hôn, mà vấn đề này được vận dụng như thủ tục xác định cha, mẹ, con thông
thường. Xét về việc xác định thẩm quyền theo luật định, cũng như thực tế cho thấy
đa số các vụ việc xác định cha, mẹ, con thuộc thẩm quyền của Tòa án thụ lý, giải
quyết, kể các trường hợp các bên đương sự khơng có tranh chấp trong một số tình
huống (u cầu xác định cha cho con khi họ tên cha trong giấy khai sinh là người
khác, và được người này, cùng mẹ đứa trẻ thừa nhận,…).
Ngoài việc phát sinh bất cập trong việc xác định cha, mẹ, con thuộc thẩm
quyền của cơ quan hộ tịch hay Tòa án đã được nêu tại mục 1.1, thì việc phân định
Điều 92 Luật HNGĐ năm 2014.
Lại Ngọc Lan (2019), Xác định cha, mẹ, con tại Tòa án nhân dân và thực tiễn áp dụng, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.7.
15
Lại Ngọc Lan (2019), tlđd (14), tr 08, 09.
13
14
20
thẩm quyền tại Tịa án nhân dân có một số quan điểm chưa thống nhất, cụ thể qua
ví dụ sau:
Ví dụ 1:16 Ông Phạm VĐ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không
đăng ký kết hôn với bà Nguyễn TKT vào năm 2005. Năm 2006, bà T sinh người
con tên Nguyễn GH, do không đăng ký kết hôn nên phần họ tên cha trong giấy khai
sinh của GH được để trống. Đến năm 2009, bà T về tinh Bắc Giang sinh sống; đến
năm 2012 UBND xã Đ, thành phố B có Quyết định số 34/QĐ-UBND ngày
29/3/2012 về việc ơng Nguyễn T nhận cháu GH là con, căn cứ vào quyết định này
thông tin hộ tịch của cháu GH được cải chính có họ tên cha là ơng Nguyễn T.
Tuy nhiên, ông Đ thực hiện việc giám định ADN và xác định được cháu GH có
quan hệ huyết thống với ơng, do đó ơng u cầu Tịa án xác định ông mới là cha ruột
của cháu GH, đề nghị hủy Quyết định số 34/QĐ-UBND ngày 29/3/2012 của UBND xã
Đ, thành phố B. Tịa án chấp nhận tồn bộ u cầu khởi kiện của ngun đơn.
Ví dụ 2:17 Năm 2010, ơng Nguyễn Văn Hậu tự nguyện nhận mình là cha của
cháu Nguyễn Minh Thư. Tuy nhiên, sau đó ơng Hậu thực hiện việc giám định ADN
và xác định được cháu Thư không phải là con ruột của ông. Nên ông liên hệ Sở tư
pháp tỉnh Bạc Liêu để được giải quyết việc xác định lại quan hệ cha con. Nội dung
này được Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực Bộ Tư pháp giải đáp như sau: “Đề
nghị Sở Tư pháp trên cơ sở yêu cầu của ông Hậu và kết quả xét nghiệm ADN (trong
đó chứng minh cháu Thư khơng phải là con đẻ của ông) báo cáo Ủy ban nhân dân
tỉnh thu hồi, hủy bỏ giá trị pháp lý của quyết định trên trong trường hợp Tòa án từ
chối giải quyết yêu cầu xác định ông Nguyễn Văn Hậu không phải là cha của cháu
Nguyễn Minh Thư.”
Như vậy, dù có cùng một tình huống pháp lý nhưng cách hiểu và xác định cơ
quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu khơng cơng nhận cha, mẹ, con có sự khác
nhau. Việc đăng ký nhận cha – con trong 02 tình huống trên, được quy định tại Điều
13 Thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày
15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật
hộ tịch, theo đó khi các bên có văn bản thừa nhận quan hệ cha, con thì khơng cần
làm thủ tục nhận cha cho con, mà bổ sung thông tin này vào giấy khai sinh, cũng
như thông tin hộ tịch.
16
17
Bản án sơ thẩm số 87/2017/HNST ngày 29/9/2017 của TAND thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Công văn số 394/HTQTCT-HT ngày 10/5/2017 của Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực.