Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

tieu luan cao học vai trò của truyền thông đối với cong nghiep van hoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.94 KB, 31 trang )

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế càng đi vào chiều sâu thì văn hố càng
nổi lên là một trong những trụ cột chính của sự hợp tác. Những vấn đề trọng tâm
được đặt ra đối với các quốc gia, như: sự đối thoại giữa các nền văn hố văn
minh, chính sách nhằm bảo vệ, phát huy sự đa dạng văn hoá và vấn đề xuất nhập
khẩu các sản phẩm văn hoá. Nhiều nước đã rất chú trọng đến phát triển ngành
cơng nghiệp văn hố, xem đây là một biện pháp hữu hiệu. Công nghiệp văn hóa
khơng những có khả năng to lớn trong việc truyền bá, bảo vệ, phát huy bản sắc,
giá trị văn hố dân tộc, mà cịn giữ vai trị là một trong những ngành kinh tế mũi
nhọn của nền kinh tế tri thức. Phát triển cơng nghiệp văn hố liên quan đến thị
trường hàng hoá văn hoá, giá trị thương mại, liên quan đến chính sách văn hố,
chính sách đầu tư, sự thay đổi hệ thống pháp lý cũng như hệ thống đánh giá các
hoạt động và sản phẩm văn hoá của mỗi quốc gia trong quá trình hội nhập.
Phát triển cơng nghiệp văn hóa khơng thể khơng chú ý tới hai yếu tơ quan
trọng đó là sáng tạo và truyền thông. Sáng tạo là khâu then chốt của một sản
phẩm văn hóa, là yếu tố cạnh tranh quyết định của nền cơng nghiệp văn hóa.
Truyền thơng có vai trị quan trọng đối với việc quảng bá, định hướng, điều tiết
thị trường cơng nghiệp văn hóa, tạo ra các trào lưu, các luồng dư luận, tác động
vào trạng thái cảm xúc của con người và là môi trường để các sản phẩm văn hóa
phát triển. Mặc dù ở nước ta đã bước đầu hình thành cơng nghiệp văn hóa, việc
xã hội hoá, đẩy mạnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh sản phẩm văn hố đã
có bước tiến mới. Tuy vậy, chúng ta vẫn rất lúng túng để tìm ra cơ chế, giải pháp
thích hợp cho phát triển văn hóa trong bối cảnh mới. Những vấn đề cơ bản như
việc đưa ra định nghĩa, xác định các lĩnh vực phát triển trong cơng nghiệp văn
hóa, luật bản quyền, luật sở hữu trí tuệ cịn nhiều bất cập, hạn chế. Mặc dù
chúng ta đều nhận thấy truyền thơng có vai trị rất lớn đối với mọi hoạt động
chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội... nhưng việc đánh giá vai trị của truyền thơng
đối với cơng nghiệp văn hóa chưa được quan tâm đúng mức. Trên thực tế,



truyền thơng tự nó đã đem về một nguồn lợi kinh tế khơng nhỏ nhưng nó mới
phục vụ lợi ích của ngành truyền thơng, đối với cơng nghiệp văn hóa, truyền
thơng cần được quan tâm tìm hiểu, đánh giá và có những chính sách phù hợp để
phát triển cơng nghiệp văn hóa vì lợi ích quốc gia.
Nhiều nền kinh tế trên thế giới, sự phát triển của ngành công nghiệp văn
hoá đã và đang chiếm tỉ trọng đáng kể của tổng thu nhập quốc dân, thậm chí trở
thành mũi nhọn về xuất khẩu. Trong khi đó ở Việt Nam cả nhận thức và thực
tiễn để phát triển ngành công nghiệp văn hố cịn rất sơ khai. Thực tế đó đã ảnh
hưởng lớn đến nhu cầu, khả năng sáng tạo, hưởng thụ các giá trị văn hoá của
nhân dân. Thực tế đó cũng làm hạn chế việc tuyên truyền các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền
văn hóa dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội,
làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tiếp thu tinh
hoa văn hố nhân loại. Khơng phát triển nền cơng nghiệp văn hóa, khơng những
ảnh hưởng đến q trình hiện đại hố nền văn hố dân tộc mà cịn là sự biểu
hiện của yếu thế, khơng cạnh tranh được với các sản phẩm văn hố của nước
ngồi. Nếu khơng vượt qua được những thách thức này, thì về mặt trái của nó,
một mặt chúng ta phải chịu thua thiệt về kinh tế, mặt khác do tính phụ thuộc
càng tăng, điều đó cũng đồng nghĩa là phải đối diện với những hệ luỵ khơn
lường về văn hố dưới góc độ xây dựng phát triển con người, cũng như việc giữ
gìn, phát huy bản sắc văn hố dân tộc trong bối cảnh hiện nay.


Chương 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRUYỀN THÔNG VÀ CƠNG NGHIỆP
VĂN HĨA

1.1. QUAN NIỆM VỀ TRUYỀN THƠNG

1.1.1. Khái niệm về truyền thơng

Có nhiều quan điểm về khái niệm truyền thông như:
-

Của John R. Hober (1954)truyền thông là quá trình trao đổi tư duy

hoặc ý tưởng bằng lời
-

Theo Gerald Miler (1966) thì về cơ bản truyền thơng quan tâm nhất

tới tình huống hành vi, trong đó nguồn thơng tin truyền nội dung đến người
nhận với mục đích tác động đến hành vi người nhận
Ngồi ra có thể dẫn ra hàng trăm định nghĩa khác nhau về truyền thông,
mỗi định nghĩa, quan điểm đều có khía cạnh hợp lý riêng.
Nhưng về thực chất thì truyền thơng là q trình trao đổi, tương tác
thông tin với nhau về các vấn đề của đời sống cá nhân, nhóm xã hội, từ đó
tăng vốn hiểu biết chung, hình thành hoặc thay đổi nhận thúc, thái độ chuyển
đổi thành hành vi cán hân, nhóm xã hội.
Truyền thơng có gốc từ tiếng Latinh là“communicare” nghĩa là biến nó
thành thơng thường, chia sẻ, truyền tải.
Từ các quan điểm trên ta cót hể đưa ra một khái niệm chung về truyền
thơng như sau:
Truyền thơng là q trình liên tục trao đổi thơng tin, tư tưởng tình
cảm… chia sé kĩ năng và kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều ngưòi nhằm tăng
cường hiểu biết lẫn nhau, thay đổi nhận thức…


1.1.2. Sự ra đời và phát triển của truyền thông.
Truyền thơng ra đời và phát triển cùng với q trình hình thành và phát
triển cúa xã hội lồi người, là sán phẩm của xã hội con người, là yếu tố động

lực kích thích sự phát triển của xã hội đồng thời là tiêu chí đánh giá trình độ
phát triển; chỉ báo thể hiện diện mạo văn hóa mỗi con người, cộng đồng người
và mỗi quốc gia.
Thời kỳ sơ khai của loài người cũng là thời kỳ sơ khai của truyền thơng.
Cùng với ngơn ngữ lời nói và q trình phát triển văn minh nhân lọai thì
truyền thơng bằng lời nói là chủ yếu
Giai đoạn thứ 2 của truyền thơng đó là việc hình thành chữ viết. Chữ viết
ra đời và phát triển đến khi con người sáng tạo ra kỹ thuật in và làm báo in
Ðầu thế kỷ XX phát thanh ra đời và phát triển nhanh chóng. Những năm
30 của thế kỷ XX, truyền hình ra đời và phát triển mạnh mẽ vào những năm
50. Năm 1967, trong bộ quốc phịng Mỹ, đã thử nghiệm thành cơng 10 máy vi
tính; hơn 10 năm sau thì hệ thống máy vi tính tồn cầu được khai sinh. Hiện
nay, mạng thơng tin tồn cầu INTERNET–xa lộ thơng tin siêu tốc, kênh truyền
thơng đa phương tiện đã kết nối toàn nhân loại lại với nhau.
Trong q trình phát triển truyền thơng hiện nay, 2 xu hưóng đại chúng
và phi đại chúng hóa đang đan xen và cùng phát triển. Các phương tiện truyền
thông phát triển trong sự cạnh tranh gay gắt, trong sự hợp tác chặt chẽ nhằm
tạo ra hiệu ứng xã hội mạnh mẽ hơn.
1.1.3. Các phương tiện truyền thông phổ biến:
Ngày nay, có nhiều phương tiện truyền thơng để những người làm
công tác marketing tiếp cận với khách hàng: phương tiện điện tử (truyền hình,
internet và ra di o ), báo chí, thư chào hàng trực tiếp, bán hàng qua điện thoại,
web. Thậm chí quan hệ cơng chúng (PR) cũng là một phương tiện giao tiếpvới
khác hhàng hiện tại và tiềm năng.
-Internet đứng đầu trong các phương tiện thông tin đại chúng.45,6% số


người trong độ tuổi từ 18–54 cho biết: họ chọn Interne là phương tiện truyền
thơng hấp dẫn nhất.
-Truyền hình cũng là phương tiện truyền thông quan trọng, được

nhiều khán giả quan tâm theo dõi, ngồi ra truyền hình kà kênh truyền thông
thu hút được mọi đối tượng, độ tuổi theo dõi.
-Báo chí là phương tiện truyền thơng khá phổ biến với sự đa dạng về
các thể loại báo giấy, báo điện tử. Hiện nay, báo điện tử có vai trị rất lớn trong
việc chuyển tải thông tin mọi lúc, mọi nơi và liên tục cập nhật, cùng với khả
năng tương tác cao, hiệu quả xã hội to lớn, giàu tiềm năng phát triển kinh tế.
Như vậy, sự phong phú của các phương tiện truyền thông, cùng với
nội dung đa dạng phản ánh và đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội, truyền
thông đã trở thành một phương tiện quan trọng giúp con người tăng cường
các mối quan hệ, giao tiếp và tương tác với nhau. Là kênh thông tin quan
trọng phục vụ Chính trị, Kinh tế, Văn hóa, An ninh - Quốc phịng, trong đó
phát triển của ngành truyền thông cũng là điều kiện thuận lợi để ngành công
nghiệp văn hóa phát triển.
1.2. Quan niệm và cơ cấu của cơng nghiệp văn hóa
Sự phát triển mới và áp dụng những thành tựu của công nghệ-kỹ thuật
xuất bản, kỹ thuật ghi âm, ghi hình, sắp chữ điện tử, mạng lưới truyền thông và
kỹ thuật số…những thập kỷ gần đây trong lĩnh vực văn hóa, đã làm cho sản
phẩm văn hóa-nghệ thuật được sản xuất ra với khối lượng lớn. Trong nền kinh tế
thị trường, thực tế đó làm cho nhận thức từ lý thuyết đến thực tiễn về công
nghiệp văn hóa đã được bàn thảo khá nhiều.
1.2.1. Quan niệm của thế giới về cơng nghiệp văn hóa
Cơng nghiệp văn hóa xuất hiện gắn với nền văn hóa đại chúng, bắt đầu
khoảng từ giữa thế kỷ XX.
Văn hóa đại chúng (mass culture), được hiểu ngắn gọn là nền văn hóa của
một xã hội đại chúng - xã hội, được hình thành trên những điều kiện: sự gia tăng


về số lượng của người lao động; sự phát triển của quá trình sản xuất, tiêu thụ lớn
theo cơ chế thị trường; sự mở rộng không giới hạn không gian nhờ những tiến
bộ về giao thơng, thơng tin; q trình đơ thị hóa và tập trung dân cư tại các đơ

thị và đời sống chính trị dân chủ. Nền văn hóa này có đối tượng thụ hưởng là đại
đa số dân chúng - cả những người khơng có hoặc có trình độ giáo dục ở mức độ
tương đối. Những giá trị văn hóa được phổ cập, truyền bá thơng qua các phương
tiện thơng tin đại chúng như báo chí, truyền thanh và ngày nay là truyền hình,
internet…Một vài thập kỷ trở lại đây, người ta khơng chỉ nói đến ảnh hưởng của
nền văn hóa đại chúng Mỹ, nền văn hóa đại chúng phương Tây…, mà cịn nói
đến nền văn hóa đại chúng Nhật, Hàn Quốc và một số nước khác của châu á.
Giờ đây văn hóa đại chúng ngày càng phát triển đáp ứng, nuôi dưỡng nhu cầu
của tầng lớp thị dân mới, tầng lớp trung lưu, những người làm cơng ăn lương,
tầng lớp có trình độ học thức cao.
ở giai đoạn đầu, khi nền văn hóa đại chúng xuất hiện cùng với ngành cơng
nghiệp văn hóa và những ảnh hưởng của nó, đã có những nhận thức khác nhau
về quan niệm và vai trị của cơng nghiệp văn hóa.
Khái niệm “cơng nghiệp văn hóa” xuất hiện đầu tiên ở Mỹ, sau đó là quan
niệm của một số học giả phương Tây. Những thập kỷ cuối thế kỷ XX, khi nền
văn hóa đại chúng xuất hiện nhiều nước trên thế giới, thì cơng nghiệp văn hóa
được nhận thức khá đầy đủ từ lý thuyết đến thực tiễn. Thời kỳ đầu khi cơng
nghiệp văn hóaxuất hiện, có quan niệm xem đây là một bước thụt lùi của sáng
tạo văn hóa, nhấn mạnh mặt tiêu cực của cơng nghiệp văn hóa.
Những ý kiến này cho rằng, khác với quá trình sản xuất, thưởng thức các giá
trị văn hóa theo phương thức cổ điển, văn hóa đại chúng khơng thể hiện hết
chiều sâu, chiều cao trong sáng tạo văn hóa. Cơng nghiệp văn hóa làm ra văn
hóa đại chúng, là thứ văn hóa phục vụ số đơng, khơng phải là văn hóa “bản gốc”
mà là văn hóa “bản thế” (có sự thay thế, hỗ trợ sáng tạo bằng máy móc). Họ
nhấn mạnh, trước hết những sáng tạo văn hóa bao giờ cũng bắt đầu từ những cá
nhân. Và vì sản phẩm văn hố được sáng tạo mang dấu ấn cá nhân, có tính độc


đáo, tính đơn nhất của nó, nên khác với những sản phẩm văn hóa được sản xuất
hàng loạt bởi cơng nghiệp.

Những học giả người Mỹ Max Horkheimer (1895-1973) và Theodor
Adorno (1902-1969) đã quan niệm văn hoá đại chúng giống như một nhà máy
sản xuất hàng loạt các sản phẩm văn hố theo một tiêu chuẩn nhất định để lơi
kéo quần chúng vào sự hưởng thụ một cách bị động. Nhu cầu giải trí của cơng
chúng được đáp ứng một cách dễ dàng, sẵn có, thơng qua việc tiêu dùng những
sản phẩm văn hoá đại chúng. Điều này khiến con người trở nên dễ bằng lòng và
thoả mãn, cho dù điều kiện kinh tế có khó khăn thế nào, vì thế những sản phẩm
văn hố được sản xuất hàng loạt đó là một hiểm hoạ đối với những giá trị nghệ
thuật chân chính (cấp cao). Theo họ, chính nền cơng nghiệp văn hố đã kích
thích những nhu cầu sai lầm, những thứ được tạo ra và thỏa mãn giá trị kinh tế
đã làm hạn chế sự sáng tạo của con người. Những địi hỏi chân chính của con
người, ngược lại, chính là sự tự do, sáng tạo và hạnh phúc thực sự. Chính những
người làm ngành cơng nghiệp văn hố tun bố rằng để thoả mãn nhu cầu giải
trí, nhưng họ lại che giấu cách thức tiêu chuẩn hoá những nhu cầu đó và việc xúi
giục người tiêu dùng thèm muốn những sản phẩm của ngành công nghiệp ấy.
Hậu quả là nền sản xuất hàng loạt đã duy trì cơ chế thị trường hàng loạt mà ở đó
cá tính và sở thích riêng của cá nhân người tiêu dùng ngày càng không được coi
trọng và bản thân những người tiêu dùng cũng dễ thay đổi như chính những
hàng hố mà họ mua.
Một số học giả phương Tây có quan niệm cơng nghiệp văn hóa xuất hiện
là tất yếu do sự phát triển thuần túy của kỹ thuật, chính điều này đã làm cho
người tiêu dùng văn hóa khơng có sự lựa chọn. Họ cho rằng có hàng triệu người
tham gia vào cơng nghiệp văn hố, các q trình tái sản xuất cần thiết, không thể
tránh khỏi việc hàng loạt các nhu cầu giống nhau ở các nơi được đáp ứng bởi
những sản phẩm giống nhau. Hơn nữa, có sự mâu thuẫn giữa số lượng ít ỏi của
những trung tâm sản xuất và số lượng lớn các vùng tiêu thụ nằm rải rác khắp
nơi, nên địi hỏi có sự tổ chức và lên kế hoạch của các nhà quản lý. Và tuy tiêu


chuẩn hàng hoá trước tiên là dựa vào nhu cầu của khách hàng, hàng hóa văn hóa

do ngành cơng nghiệp đưa lại có thể được dễ dàng chấp nhận, nhưng trên thực
tế, sức mạnh của kỹ thuật hiện đại đối với xã hội chính là sức mạnh của những
kẻ có thế lực về kinh tế chi phối xã hội. Cái mà cơng nghiệp văn hóa đạt được là
sự tiêu chuẩn hố và q trình sản xuất hàng loạt, loại bỏ sự phân biệt giữa tính
lơ gích của sản phẩm và tính lơ gích của hệ thống xã hội. Bước nhảy vọt từ điện
thoại đến đài phát thanh đã thực sự tách bạch vai trị của nó. Với dịch vụ thứ
nhất, người sử dụng vẫn có vai trị chủ động và tự do. Nhưng loại hình dịch vụ
thứ hai thì biến tất cả những người tham gia sử dụng thành người nghe và họ
phải theo dõi những chương trình truyền thanh gần giống như nhau.
Một điểm nữa mà giới nghiên cứu nhấn mạnh, đó là sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các ngành cơng nghiệpvề phương diện kinh tế. Ví dụ như phụ thuộc
của cơng ty phát thanh, truyền hình lớn mạnh nhất vào công ty điện lực, hoặc sự
phụ thuộc của công nghiệp điện ảnh đối với nhà băng.. Nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa đang phát triển mạnh mẽ kéo theo sự phát triển của ngành cơng nghiệp
văn hố với sự xuất hiện hàng loạt những sản phẩm văn hoá được sản xuất hàng
loạt. Nhu cầu của công chúng được đáp ứng thông qua các sản phẩm hàng loạt
với chất lượng, kiểu loại khác nhau. Người tiêu dùng khơng có cơ hội để phân
loại hàng hố vì các nhà sản xuất đã làm hộ rồi. Mọi loại sản phẩm văn hoá
dường như nằm trong một cấu trúc nhất định. Sự phát triển của cơng nghiệp văn
hố đã dẫn đến sự chiếm ưu thế của những chi tiết kỹ thuật, kỹ xảo đối với bản
thân sản phẩm văn hoá. Tất cả đều đi theo một cơng thức nhất định nào đó.
Trong cơng nghiệp văn hố, sự rập khn là điều đương nhiên, tất cả đều phải
theo một kiểu cách nhất định. Khả năng tiêu thụ, tạo ra lợi nhuận được đặt lên
hàng đầu, vì thế cái mới rất khó có cơ hội phát triển. Nhà sản xuất sẽ rất ngần
ngại với những sản phẩm mới chưa được thử thách tính hấp dẫn của nó đối với
người tiêu dùng. Nhà sản xuất phim sẽ ngần ngại sử dụng kịch bản của những
cuốn sách bán không chạy...


Ngồi ra, cách nhìn tiêu cực cịn chỉ ra sự xuất hiện của ngành cơng

nghiệp văn hố làm cho văn hóa có sự trộn lẫn ở những trình độ cao thấp với
nhau. Tính nghiêm túc của loại hình nghệ thuật cao cấp bị tiêu diệt bởi những
tính tốn cho hiệu quả kinh doanh. Dù ngành cơng nghiệp văn hố nào cũng
xem xét, tính tốn đến nhu cầu, sở thích của người dân nhưng trong hệ thống ấy,
người dân khơng đóng vai trị chủ chốt mà chỉ ở vị trí thứ yếu, là đối tượng của
những tính tốn và là bộ phận của cơng nghiệp máy móc. Khách hàng khơng
phải là thượng đế, cũng không phải là chủ thể mà chỉ là đối tượng bị động của
nền công nghiệp ấy.
Những quan điểm trên cũng khẳng định, ngay cả phương tiện truyền
thông đại chúng ngày càng phát triển cũng phục vụ cho cơng nghiệp văn hố.
Nó khơng tính đến lợi ích của dân chúng mà nó chạy theo tiếng nói của chủ
nhân nhà tư bản cơng nghiệp văn hố, động cơ lợi nhuận được núp dưới vỏ bọc
của hình thức văn hố, họ theo đuổi mục đích lợi nhuận một cách gián tiếp. Tính
độc lập, sáng tạo của nghệ sĩ khó vượt qua rào cản của hàng loạt các tác động
bên ngoài vận hành theo cơ chế thị trường chi phối.
Thực ra, những quan niệm trên khi nhấn mạnh mặt tiêu cực của cơng
nghiệp văn hóa hóa khơng phải khơng có lý, nhất là khi hoạt động sản xuất, kinh
doanh các sản phẩm văn hóa chỉ vì mục đích kinh tế. Ngay trong thời kỳ của
mình, C. Mác đã phê phán tình trạng biến văn hố thành sản phẩm cơng nghiệp
phục vụ cho sự tìm kiếm lợi nhuận của giai cấp tư sản. Bản chất xã hội đó khơng
thay đổi cả trong thời kỳ bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ hiện
nay.
Tuy nhiên, khơng nên chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực của cơng nghiệp văn hố
mà cần chỉ rõ cả những mặt tích cực của lĩnh vực này. Ngành cơng nghiệp văn
hố có khả năng tác động mạnh mẽ vào đời sống của quảng đại quần chúng
nhân dân, đáp ứng nhu cầu văn hoá đa dạng và phức tạp của xã hội. Sự phát
triển của ngành công nghiệp văn hố góp phần tạo nên q trình đa dạng hố và
dân chủ hố về tri thức cho xã hội. Nó có khả năng cung cấp và truyền bá sâu



rộng trong đời sống xã hội hàng loạt những thông tin về các lĩnh vực văn hoá
khác nhau, đáp ứng nhu cầu tinh thần của xã hội.
Đến Hội nghị Thượng đỉnh về hoạt động văn hóa được tổ chức tại
Stockholm (Thụy Điển) tháng 4-1998, thuật ngữ cơng nghiệp văn hóa đã được
gần 200 quốc gia thông qua. Tuy vậy cũng có nhiều quan niệm khác nhau. Trong
khi UNESCO gọi đây là ngành cơng nghiệp văn hóa (Cultural industries) thì Tổ
chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) gọi là cơng nghiệp bản quyền (Copyright
industries), người Mĩ coi đây là công nghiệp giải trí (Entertainment industries),
Hội đồng Anh lại gọi đây là nền kinh tế sáng tạo (Creative economy)…Gần đây,
tại một số Hội thảo quốc tế như Diễn đàn văn hoá châu á 2003, Thách thức của
sản phẩm và dịch vụ văn hoá trong đàm phán thương mại quốc tế đối với các
nước châu á (2007), Diễn đàn công nghiệp văn hố Trung Quốc - ASEAN
(2008)…, vấn đề cơng nghiệp văn hố là một trong những chủ đề chính. Các nhà
nghiên cứu, các nhà quản lý văn hoá của các quốc gia đã khẳng định thuật ngữ
cơng nghiệp văn hố gắn với tập hợp các ngành kinh tế khai thác và sử dụng
hiệu quả tính sáng tạo kỹ năng sở hữu trí tuệ, sản xuất các sản phẩm và dịch vụ
có ý nghĩa văn hố xã hội.
Có thể nói, dù nhìn ở góc độ nào thì các quan niệm về cơng nghiệp văn
hóa cũng thường nhấn mạnh đế hai yếu tố: công nghiệp và sáng tạo. Gọi là
công nghiệp bởi đây thực sự là một ngành kinh doanh hùng mạnh, giàu tiềm
năng. Ngành kinh doanh này dựa trên năng lực sáng tạo của các cá nhân trong
lĩnh vực giải trí thơng qua các phương tiện công nghệ hiện đại. Đây là một hệ
thống liên kết trên phạm vi công nghiệp hoạt động sáng tạo của nghệ sĩ với cơng
chúng. Chính vì thế theo quan niệm của các tổ chức như UNESCO, và GATT,
thì Cơng nghiệp Văn hóa (cũng được biết đến như là Công nghiệp sáng tạo), bao
gồm sự sáng tạo, sản xuất và phân phối các sản phẩm và dịch vụ mang tính chất
văn hóa và thường được bảo vệ bởi bản quyền.
Từ những tổng hợp trên, các nhà nghiên cứu đã đưa ra khái niệm:



Cơng nghiệp văn hóa là ngành cơng nghiệp sáng tạo, sản xuất, tái sản
xuất, phổ biến, tiêu dùng các sản phẩm và các dịch vụ văn hố bằng phương
thức cơng nghiệp hoá, tin học hoá, thương phẩm hoá, nhằm đáp ứng nhu cầu
văn hóa đa dạng của xã hội, các hoạt động đó được bảo vệ bởi bản quyền
Đặc trưng của ngành cơng nghiệp văn hố được thể hiện ở những sản
phẩm được tạo ra có sự kết hợp chặt chẽ giữa kỹ thuật cao với các giá trị văn
hoá, giá trị kinh tế, các sản phẩm đó phải hướng tới phục vụ số đông. Những đặc
trưng bản chất của hệ thống ngành cơng nghiệp văn hóa bao giờ cũng gắn với
những mơ hình sản xuất nhất định. Trong mơ hình kinh tế thị trường tư bản, từ
sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng các sản phẩm văn hóa được vận hành
theo mơ hình sản xuất, kinh doanh hàng hóa thơng thường, nhằm thu đối đa lợi
nhuận.
2.1.2. Cơ cấu của ngành cơng nghiệp văn hóa
Trong quan niệm của thế giới (nhất là châu Âu), khái niệm cơng nghiệp
văn hố thường gắn với tập hợp các ngành kinh tế khai thác và sử dụng hiệu quả
tính sáng tạo kỹ năng sở hữu trí tuệ, sản xuất các sản phẩm và dịch vụ có ý nghĩa
văn hố xã hội. Cơ cấu của nó bao gồm nhiều ngành: quảng cáo, kiến trúc, giải
trí kỹ thuật số, mỹ thuật đồ cổ và thủ công mỹ nghệ, thiết kế mỹ thuật, điện ảnh
và video, in ấn xuất bản, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn, phát thanh truyền hình
và phần mềm vi tính... Nhờ áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ, đặc
biệt điện tử và tin học, mà những ngành nghề trên tập trung rất nhiều hàm lượng
sáng tạo, đáp ứng được nhu cầu của đông đảo quần chúng và đem lại một lợi
nhuận khổng lồ.
Tuy nhiên, các quốc gia trên thế giới cũng chưa có sự khơng đồng nhất về
quan niệm và cơ cấu của cơng nghiệp văn hố. Các nước châu Âu đưa ra 11 lĩnh
vực thuộc ngành công nghiệp văn hoá như đã nêu trên, nhưng một số nước châu
á lại chỉ đề cập đến 6 hoặc 7 lĩnh vực thuộc lĩnh vực này, như: điện ảnh, phát
thanh truyền hình, báo chí, xuất bản, in và sản xuất băng đĩa, quảng cáo và
dịch vụ giải trí...



Nhìn chung ở nước ta, sự nhận thức về cơng nghiệp văn hoá trên cả hai
phương diện lý luận và thực tiễn đều đang ở trong giai đoạn đầu tiên. Trên cơ sở
nghiên cứu, các nhà khoa học Việt Nam đã đưa ra nhận xét tổng quát về công
nghiệp văn hóa ở Việt Nam như sau:
1/ Mặc dù cịn có những quan niệm, những ý kiến đánh giá khác nhau,
nhưng phải khẳng định rằng: cơng nghiệp văn hố thể hiện sự gắn kết giữa sự
phát triển của khoa học kỹ thuật và văn hoá, là phương thức biểu hiện xu thế
kinh tế và văn hoá thấm sâu vào nhau.
2/ Vai trị của cơng nghiệp văn hố khơng chỉ dừng lại ở việc tạo ra các
hiệu ích kinh tế mà nó cịn đem lại những hiệu ích xã hội, nó đáp ứng nhu cầu
văn hoá tinh thần của xã hội, nâng cao trình độ nhận thức, truyền bá thơng tin,
thoả mãn nhu cầu văn nghệ, giải trí, thể thao v.v.. của quảng đại quần chúng.
3/ Trong thời kỳ bùng nổ thông tin và phát triển mạnh của khoa học kỹ
thuật công nghệ hiện nay, cơng nghiệp văn hố có vai trị to lớn để phát triển
kinh tế, ổn định chính trị và đáp ứng nhu cầu văn hoá ngày càng gia tăng của
nhân dân. Đồng thời, nó tham gia vào quá trình dân chủ hố thơng tin về mặt
văn hố. Mặt khác nó cũng tạo ra sự phân hố sâu sắc cả về kinh tế và văn hoá.
Những mâu thuẫn xã hội do sự phát triển cơng nghiệp văn hố tạo ra là to lớn và
phức tạp mà các quốc gia cần phải quan tâm giải quyết.
4/ Có thể khái quát cơng nghiệp văn hố là ngành cơng nghiệp sản xuất và
dịch vụ các sản phẩm văn hoá dựa trên các thành tựu về khoa học kỹ thuật và
công nghệ nhằm đáp ứng nhu cầu văn hoá đa dạng của xã hội. Các tiêu chí để
xét những lĩnh vực được xem là cơng nghiệp văn hóa, đó là:
- Sản xuất ra các sản phẩm văn hoá dựa trên thành tựu khoa học kỹ thuật
và công nghệ hiện đại
- Các sản phẩm văn hố phải hướng tới phục vụ cho số đơng
- Các hoạt động của cơng nghiệp văn hóa được bảo vệ bởi bản quyền



5/ Hiện tại, bàn về cơ cấu ngành công nghiệp văn hố nước ta, vấn đề mới
chủ yếu bó hẹp trong phạm vi của các ngành/nghề do Nhà nước đang quản lý và
đóng vai trị sở hữu. Cơ cấu đó bao gồm các lĩnh vực chủ yếu:
- Công nghiệp truyền thơng đại chúng (cơng nghiệp của báo chí, xuất bản,
in ấn, phát hành, quảng cáo, triển lãm, thông tin cổ động…)
- Công nghiệp âm nhạc (công nghiệp phục hoạt động ca múa nhạc và các
sản phẩm âm nhạc từ băng, đĩa)
- Công nghiệp điện ảnh (công nghiệp xây dựng phim, hậu kỳ phim và
phát hành phổ biến phim)
- Công nghiệp phục vụ nghệ thuật biểu diễn (công nghệ tham gia vào
khâu âm thanh, ánh sáng, thiết kế sân khấu)
- Công nghiệp mỹ thuật (cơng nghệ hố sinh trong sáng tạo và bảo quản,
và công nghiệp tham gia vào khâu phát hành)
- Cơng nghiệp dịch vụ vui chơi, giải trí (cơng nghiệp về các sản phẩm vui
chơi trực tiếp và sản phẩm game từ phần mềm)…
- Hoạt động kinh doanh thương mại các vật tư chuyên ngành văn hóa và
các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ văn hóa.
Do nội hàm khái niệm và cơ cấu của ngành công nghiệp văn hóa được
hiểu như trên, nên đề tài này chỉ khảo sát thực trạng cơng nghiệp văn hóa ở nước
ta trên ba lĩnh vực chủ yếu: Điện ảnh, Sàn diễn và Âm nhạc.
1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA TRUYỀN THÔNG VÀ CƠNG NGHIỆP VĂN HĨA

Truyền thơng và văn hóa nói chung và cơng nghiệp văn hóa nói riêng có mối
quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, cộng sinh với nhau, đó là sự liên kết khơng
thể tách rời của hai lĩnh vực này, vì vậy, khi phát triển cơng nghiệp văn hóa
khơng thể bỏ qua yếu tố phát triển truyền thơng tương ứng với nó.
1.3.1. Truyền thơng với cơng nghiệp văn hóa


Truyền thông với thế mạnh của ngành khai thác thông tin, là công đoạn trung

chuyển các thông tin đáp ứng mọi nhu cầu giao tiếp, nhận thức của con người,
nó có tác động trực tiếp đến tình cảm xã hội, định hướng dư luận, thay đổi tập
quán, hành vi, thói quen tiêu dùng của con người, chính vì vậy, nó góp phần
quan trọng đến sự phát triển của cơng nghiệp văn hóa. Nếu coi cơng nghiệp văn
hóa là một q trình thương mại, sản xuất thì truyền thơng đóng vai trị là đơn vị
lưu thơng, tạo mơi trường và điều kiện thuận lợi để bán được các sản phẩm văn
hóa.
Bằng các phương triện truyêng thông đa dạng, phong phú và không ngừng phát
triển theo khoa học và công nghệ, truyền thông ngày càng tỏ ra quan trọng đối
với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Người ta gọi truyền thông là một thứ "
quyền lực mềm" . Các phương tiện truyền thơng trực tiếp góp phần đưa sản
phẩm văn hóa đến tay người tiêu dùng như các sản phẩm của điện ảnh, thời
trang, nghệ thuật biểu diễn. Số lượng người theo dõi trên các phương tiện thông
tin đại chúng là rất lớn, vì vậy, nó cũng mang đến cơ hội rất lớn cho các sản
phẩm văn hóa đến với cơng chúng.
1.3.2. Cơng nghiệp văn hóa với truyền thơng.
Chức năng cơ bản ủa các phương tiện truyền thông đại chúng đầu tiên là để
phục vụ cho hệ thống chính trị và mục tiêu quốc gia mà nó được sinh ra. ở Việt
Nam, truyền thơng để phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng, các sự kiện, phản
ánh các lĩnh vực đời sống xã hội, ... theo sự quản lí của nhà nước. Nếu chỉ xét
theo chức năng đó, truyền thơng chỉ mang tính chất là một cơng cụ tun truyền.
Cơng nghiệp văn hóa đã đem lại cho truyền thơng nhiều sản phẩm văn hóa có
tính thương mại, giải trí cao, đáp ứng nhu cầu thỏa mãn đời sống tinh thần của
xã hội như điệ ảnh, trị chơi giải trí, nghệ thuật biểu diễn, chính vì vậy, truyền
thơng trở nên đa dạng, phong phú và hấp dẫn, thu hút được sự quan tâm rất lớn
của xã hội, từ đó hình thành các giá trị kinh tế đối với nagnhf truyền thông và
đối với ngành công nghiệp.


Nhờ cơng nghiệp văn hóa mà truyền thơng phát triển và ngược lại, vai trị của

truyền thơng góp phần khẳng định sự tồn tại của cơng nghiệp văn hóa. một kênh
truyền hình mà khơng có nội dung phong phú với các sản phẩm văn hóa như ca
nhạc, giải trí, điện ảnh chắc hẳn sẽ ít khán giả quan tâm. Nếu một sản phẩm văn
hóa ra đời mà khơng được các phương tiện truyền thông quảng bá, giới thiệu
đến khán giả, người tiêu dùng, chắc chắn sản phẩm văn hóa đó sẽ khơng đem lại
lợi ích kinh tế cao. Một bộ phim sản xuất ra mà không được công chiếu, một
quyển sách xuất bản mà không được quảng bá hay một tác phẩm âm nhạc khơng
được biểu diễn thì chắc chắn sẽ khơng có cơ hội để phát triển.


Chương 2
VAI TRỊ CỦA TRUYỀN THƠNG ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN CƠNG
NGHIỆP VĂN HĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. TRUYỀN THƠNG ĐĨNG VAI TRỊ QUẢNG BÁ CÁC SẢN PHẨM VĂN HĨA

2.1.1. Sự tham gia của các phương tiện truyền thông vào quảng bá sản
phẩm văn hóa
Hiện nay, trong bối cảnh nền kinh tế tồn cầu hố ngày một gia tăng, các
nước đẩy mạnh phát triển công nghệ, công nghệ thông tin ngày càng được ứng
dụng nhiều hơn trong các lĩnh vực kinh tế. Các phương tiện truyền thông được
sử dụng một cách rộng rãi và linh hoạt hơn trong các hoạt động kinh tế. Ðối với
mỗi cơng ty thì đều có những nhân viên làm công tác truyền thông, quảng cáo,
PR… Những thông tin do hệ thống truyền thông đại chúng cung cấp có ý nghĩa
quan trọng đối với những quyết định khôn khéo về kinh tế và cá nhân, cũng như
đối với những sự chọn lựa đúng đắn của các doanh nghiệp.
Có thể nói rằng, phương tiện truyền thơng là công cụ kết nối giữa người
mua hàng và các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm văn hóa. Các sản phẩm văn
hóa trong ngành cơng nghiệp văn hóa phần lớn là sản phẩm dưới dạng phi vật
thể như điện ảnh, âm nhạc, chương trình giải trí. Một số sản phẩm tiêu thụ trực
tiếp với số lượng khách hạn chế, nếu không có sự tham gia của truyền thơng sẽ

khơng phát huy hiệu quả như: Các chương trình nghệ thuật biểu diễn, thời trang,
sách và các loại văn hóa phẩm. Nhờ có quảng bá bằng các phương tiện thông tin
đại chúng như truyền hình, phát thanh, báo chí mà sản phẩm văn hóa sẽ được
nhiều người biết đến, yêu mến và sẵn sàng tiêu thụ sản phẩm văn hóa sau khi đã
được biết thơng tin về nó.
Các phương tiện truyền thơng xã hội là những cơng cụ có chi phí thấp được
sử dụng để kết hợp giữa công nghệ với sự tương tác xã hội thông qua việc sử
dụng ngôn từ. Những công cụ thường được sử dụng nhất là mạng internet, các
mạng xã hội như Twitter, Facebook, Myspace và Youtube.


Chính các phương tiện truyền thơng đã tạo ra một cách giúp cho các nhà
tiếp thị giao tiếp với khách hàng và những người tiêu dùng tiềm năng của mình.
Ngồi ra nó cịn giúp cá nhân hóa thương hiệu cũng như truyền tải những thông
điệp theo kiểu đối thoại và thật sự thoải mái như một thành viên của cộng đồng,
điều này giúp thu hẹp khoảng cách giữa người bán hàng và khách hàng, nếu là
một sản phẩm văn hóa, nó sẽ dễ dàng được chấp nhận hơn và như vậy, khả năng
tiêu thụ sản phẩm diễn ra thuận lợi hơn.
2.2. TRUYỀN THƠNG ĐĨNG VAI TRỊ TUN TRUYỀN NHẬN THỨC VỀ CƠNG
NGHIỆP VĂN HĨA

Bàn đến vấn đề này, chúng ta khơng tránh khỏi những khó khăn. Bởi về
phương diện nhận thức, khái niệm cơng nghiệp văn hố cũng chỉ mới bước đầu
được bàn thảo. Về phương diện thực tiễn, một số lĩnh vực của đời sống văn hoá
nước ta mới bước đầu bước chập chững vào quá trình hoạt động theo phương
thức cơng nghiệp văn hố. Song xuất phát từ thực tiến phát triển ngành công
nghiệp này của nhiều nước trên thế giới và từ nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội,
văn hố của nước ta, cơng nghiệp văn hóa có vai trị, ý nghĩa to lớn đối với phát
triển kinh tế-xã hội và hiện đại hóa nền văn hóa dân tộc.
2.2.1. Nhận thức về sự phát triển cơng nghiệp văn hóa với phát triển kinh

tế-xã hội
Trên thế giới từ giữa thế kỷ XX, sự phát triển mạnh mẽ của các nền cơng
nghiệp văn hóa đã tạo ra một xu thế mới của sự gắn kết của kinh tế và văn hóa.
Có thể nói cơng nghiệp văn hóa là biểu hiện tập trung mối quan hệ giữa văn hóa
và kinh tế trong phát triển kinh tế thị trường. Vai trị của cơng nghiệp văn hóa
đối với phát triển kinh tế kinh tế-xã hội ở nước ta có thể thấy trên 2 phương
diện:
Thứ nhất, phát triển cơng nghiệp văn hóa với phát triển kinh tế-xã hội, ở
nước ta, chính là giải quyếtmối quan hệ giữa văn hoá và kinh tếtrong phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.


Quan niệm của Đảng ta tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung
ương khoá X về “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta”
nhấn mạnh: “Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại được phát
triển tới trình độ cao dưới chủ nghĩa tư bản nhưng tự bản thân kinh tế thị trường
không đồng nghĩa với chủ nghĩa tư bản. Thực tiễn đổi mới ở nước ta đã chứng
minh đầy sức thuyết phục về việc sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là nền kinh tế trong đó các thiết chế, cơng cụ và nguyên tắc vận hành kinh tế thị
trường được tự giác tạo lập và sử dụng để giải phóng triệt để sức sản xuất, từng
bước cải thiện đời sống của nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo, kinh tế nhà
nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân. Khuyến khích làm giầu hợp pháp đi đơi với xố đói, giảm nghèo; từng
bước làm cho mọi thành viên xã hội đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát
triển; tăng trưởng kinh tế đi đơi với phát triển văn hố, y tế, giáo dục, bảo vệ ...,
giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.

Quan niệm về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như vậy
là xuất phát từ mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế mà thực tiễn lịch sử phát
triển kinh tế xã hội của nhân loại trong thời đại mới đòi hỏi.Tuyên bố của Liên
hợp quốc trong buổi lễ phát động Thập kỷ văn hoá thế giới vì phát triển (19881997) đã chỉ ra rằng: phát triển kinh tế “phải đem lại cuộc sống phồn vinh và có
chất lượng” , “văn hố đứng ở vị trí trung tâm và điều tiết phát triển” và phát
triển phải được “khởi đầu và truyền bá bởi văn hoá”. Văn hoá vừa là mục tiêu,
vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế (kinh tế thị trường) làm cho nó trở nên
có tính nhân văn, nhân bản.
Mặt khác mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế đã được đặt ra ngay trong
bản thân nền kinh tế thị trường dưới chủ nghĩa tư bản. Trong Tuyên ngôn Đảng


cộng sản (1848) C. Mác và Ph.ăngghen đã cho rằng kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa đã biến tất cả những sản phẩm mà con người sáng tạo ra “thành giá trị trao
đổi mà sản xuất vật chất đã như thế thì sản phẩm tinh thần cũng khơng kém như
thế”. Những người hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo văn hoá đều là người làm
thuê được trả lương: “Bác sỹ, luật gia, tu sỹ, thi sỹ, bác học đều bị giai cấp tư
sản biến thành người làm thuê được trả lương của nó”. Như vậy, văn hố (hoạt
động văn hoá, sản phẩm văn hoá) trở thành hàng hoá trong nền kinh tế thị
trường từ khi chủ nghĩa tư bản xuất hiện. Do khoa học và công nghệ phát triển,
phương thức cơng nghiệp hố sản xuất ngày càng cao các sản phẩm vật chất và
tinh thần ngày càng dồi dào, mặt khác thị trường tiêu thụ được mở rộng khắp thế
giới đã thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển. “Những sản phẩm làm ra
không những được tiêu thụ ngay trong xứ mà còn được tiêu thụ ở tất cả các nơi
trên trái đất nữa”. Những đánh giá của C.Mác và Ph.ăngghen về mối quan hệ
giữa văn hoá và kinh tế trong sự phát triển của kinh tế thị trường dưới chủ nghĩa
tư bản cách đây hơn 160 năm, đến nay vẫn hồn tồn đúng và cịn có sự tác
động mạnh mẽ hơn gấp bội.
Mối quan hệ này trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
cơ bản giống như trong nền kinh tế thị trường dưới chủ nghĩa tư bản, song có

những biểu hiện khác. Văn hố khơng chỉ là nguồn cung cấp sản phẩm hàng hố
cho kinh tế thị trường mà cịn giữ vai trò định hướng giá trị cho hoạt động của
kinh tế thị trường. Hoạt động kinh tế thị trường càng hướng tới mục tiêu văn hố
càng mang tính xã hội chủ nghĩa - vì sự phát triển của con người, của xã hội.
Sản phẩm văn hoá trở thành hàng hoá nhưng khơng phải bất cứ sản phẩm nào
cũng là hàng hố trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sản
phẩm hàng hố văn hố khơng thuần t về lợi nhuận kinh tế mà trước hết vì lợi
ích tinh thần, thoả mãn nhu cầu nâng cao năng lực tinh thần của con người. Như
vậy, mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa phát triển về lượng (giá trị kinh tế) mà cả về chất (giá trị tinh thần


cao đẹp). Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng không tự phát
triển nếu thiếu nền tảng văn hố và văn hố khơng phải là sản phẩm thụ động
của kinh tế. Phát triển trên cơ sở kết hợp hài hồ kinh tế với văn hố là sự phát
triển năng động có hiệu quả và vững chắc nhất.
Thứ hai, cơng nghiệp văn hố là ngành kinh tế mới, đặc biệt, góp phần
to lớn vào sự tăng trưởng kinh tế.
Trước hết, xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hóa sẽ giải
phóng một lực lượng sản xuấttinh thần to lớn và tiềm ẩn hiện nay. Trong lĩnh
vực hoạt động văn hoá (sản xuất tinh thần) chúng ta đang có hàng chục vạn lao
động có trình độ chun mơn, với hàng ngàn cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp
đang hoạt động theo phương châm tạo ra sản phẩm văn hoá phục vụ có tính
phúc lợi cho xã hội. Nếu tồn bộ lực lượng sản xuất đó được chuyển sang sản
xuất sản phẩm hàng hoá văn hoá một cách hợp lý thì sẽ tạo ra một nguồn thu
nhập về kinh tế to lớn cho đất nước như ở Nhật Bản, Hàn Quốc…
Để làm rõ điều này, chúng tơi xin trình bày khái lược về lực lượng sản
xuất tinh thần tiềm năng của chúng ta hiện có:
Lĩnh vực xuất bản in: hiện chúng ta có gần 50 nhà xuất bản, cơng ty và

nhà sách phát hành với tốc độ cơng nghiệp hố khá cao, phát triển đa dạng, cụ
thể về lĩnh vực xuất bản: Số lượng xuất bản tăng nhanh, nếu như năm 1990 chỉ
đạt 2.923 đầu sách với 38.208 triệu bản thì năm 2003 đã lên tới 18.641 đầu sách
với 243.830 triệu bản, chủ yếu do dân bỏ vốn, trong thời gian tới con số này có
thể tăng gấp 3 lần năm 2010.
- Về lĩnh vực in: Cả nước gần 10 ngàn cơ sở in (in lụa) hộ kinh doanh cá
thể, phơ tơ copy, đánh máy vi tính, đóng xén gần 600 cơ sở in công nghiệp, 12
cơ sở in đã cổ phần hoá, 12.500 điểm mua bán, cho thuê sách tư nhân.
- Về lĩnh vực phát hành sách: Cả nước có 04 cơng ty phát hành sách Nhà
nước đã được cổ phần hố, có tới 10 ngàn điểm mua bán cho thuê sách tư nhân,
khoảng 16 công ty trách nhiệm hữu hạn.


Trong thời gian tới về lĩnh vực in và phát hành sách có thể tăng mạnh. Mở
rộng các hình thức liên kết theo hướng chủ sở hữu tác phẩm, cá nhân có giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh về in và phát hành xuất bản và các tổ chức có tư
cách pháp nhân được liên kết với các nhà xuất bản dưới hình thức đầu tư vốn, tổ
chức bản thảo in và phát hành xuất bản phẩm (cá nhân, các tổ chức liên kết với
nhà xuất bản phải đứng tên trên xuất bản phẩm và liên đới chịu trách nhiệm
trước pháp luật đối với xuất bản phẩm liên kết). Mở rộng chức năng cho cơ sở in
tư nhân, ngoài in bao bì được hoạt động chế bản in, in catalog, tờ rơi, tờ gấp giới
thiệu sản phẩm hàng hoá, hướng dẫn sử dụng thiết bị, in biểu mẫu giấy tờ giao
dịch hành chính của các doanh nghiệp in giấy kẻ vở học sinh. Đối với các cơ sở
in nội bộ có đủ điều kiện hoạt động sự nghiệp có thu theo quy định tại Nghị
định số 10/2002/NQ – CP được mở rộng chức năng in như doanh nghiệp cho
phép cơ sở in Nhà nước và tư nhân được nhập khẩu trực tiếp thiết bị ngành in
không phải qua nhập uỷ thác. Cổ phần hoá một số cơ sở in tiếp nhận cơng nghệ
tiên tiến đón đầu cơng nghệ mới nhằm hiện đại hố ngành in. Thành lập cơng ty
cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn về phát hành xuất bản phẩm.
Lĩnh vực điện ảnh: Hàng năm tư nhân bỏ vốn sản xuất được nhiều bộ

phim phục vụ xã hội. Đặc biệt có năm sản xuất được 60 phim video, 3-4 bộ
phim nhựa với tổng giá trị gần 10 tỷ đồng và giải quyết công ăn việc làm cho
văn nghệ sĩ. Trong những năm tới, lĩnh vực điện ảnh sẽ phát triển:
- Về sản xuất: Khuyến khích tổ chức cá nhân thành lập hãng phim tư
nhân, hãng phim cổ phần tại các trung tâm tỉnh, thành phố và tuân thủ những
quy định của Bộ Văn hố - Thơng tin (nay là Bộ Văn hoá, thể thao và du lịch).
Các hãng phim này được phép hoạt động như các hãng phim của nhà nước theo
ngành nghề đã đăng ký kinh doanh (hợp tác, cung cấp làm phim với nước ngoài,
được sản xuất phim đặt hàng, tự định giá).
- Về nhập khẩu phát hành phim: khuyến khích các tổ chức cá nhân thành
lập cơ sở phát hành phim, nếu có rạp thì được phép nhập phim nhựa, băng, đĩa
hành trình duyệt phát hành tại rạp trong toàn quốc.


- Về chiếu phim: khuyến khích tổ chức, cá nhân xây rạp, cùng rạp chiếu
phim kết hợp kinh doanh chiếu phim với các dịch vụ khác, được thuê lại rạp
hoặc kinh doanh cải tạo, nâng cấp, xây lại các rạp chiếu phim hiệu có do nhà
nước quản lý, được thành lập điểm chiếu, đội chiếu phim lưu động phục vụ nông
thôn, miền núi, hải đảo… ở những khu vực mà nhà nước chưa có đơn vị phục vụ
(Nhà nước khơng đầu tư ban đầu, chỉ tài trợ theo định mức buổi chiếu) được mở
cửa hàng kinh doanh bán và cho thuê băng hình.
Trong thời gian tới số hãng phim tư nhân được thành lập đến năm 2010 là
8 hãng phim, số rạp, cụm rạp, chiếu phim do tư nhân đầu tư vốn 100% là 43 số
điểm chiếu video ngồi cơng lập là 3.311. Số vốn tư nhân đầu tư trong lĩnh vực
điện ảnh chiếm 62%.
Lĩnh vực thư viện: Công nghiệp văn hố được thực hiện chủ yếu thơng
qua các hình thức liên kết, phối hợp với các cơ quan, ban ngành, các tổ chức
trong nước từ trung ương đến địa phương và sự tham gia góp phần của nhân
dân, các tổ chức nước ngoài nhằm huy động các nguồn lực (sách báo, trang thiết
bị, tiền của và công sức). Để tổ chức các hoạt động thư viện, xây dựng các mơ

hình thư viện cơ sở. Hiện nay cả nước có gần 7000 thư viện, phòng đọc sách ở
cơ sở do ngành văn hố thơng tin quản lý, gần 7000 điểm bưu điện – văn hoá xã,
10.000 tủ sách pháp luật, 400 tủ sách đồn biên phòng.
Vận động thành lập các thư viện, hoặc phòng đọc sách dân lập ở cộng
đồng dân cư, đề nghị thành lập thư viện tư nhân phục vụ cộng đồng. Thành lập
câu lạc bộ bạn đọc hay câu lạc bộ những người thích sách. Thành lập hội thư
viện Việt Nam nhằm tập hợp những người làm công tác thư viện thuộc mọi
ngành trong cả nước, cũng góp cơng sức trí tuệ phát triển sự nghiệp này.
Lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn: Cả nước khoảng 100 đoàn, nhóm tư nhân
gồm đủ các thể loại ca múa nhạc, sân khấu, xiếc, cải lương, rối nước, 150 rạp tư
nhân. Đến năm 2010 số đơn vị biểu diễn ngồi cơng lập lên tới 180 đơn vị, vốn
đầu tư của tư nhân liên doanh chiếm 60% loại hình sân khấu nhỏ, câu lạc bộ
3061. Cần có cơ chế quản lý thúc đẩy các đơn vị này hoạt động như những


doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận hành trong cơ chế thị trường một cách
lành mạnh.
Lĩnh vực mỹ thuật: Cả nước có khoảng 150 galery mỹ thuật tư nhân. Đến
năm 2010 số câu lạc bộ mỹ thuật nhiếp ảnh do tư nhân thành lập là 180, số
gallery tư nhân là 47, triển lãm mỹ thuật nhiếp ảnh do tư nhân thực hiện chiếm
60%, tư nhân đầu tư vốn xây dựng các cơng trình mỹ thuật là 59% - Xu thế này
cần được khuyến khích
Lĩnh vực đào tạo: Cả nước có khoảng 15 trường văn hoá nghệ thuật đào
tạo trên cơ sở Nhà nước cấp kinh phí và đóng góp kinh phí của người dân.
Đến năm 2010 số trường lớp ngồi công lập lên đến 43 trường, tỷ lệ học
sinh tự đóng góp kinh phí đào tạo chiếm 40%, quỹ đào tạo tài năng huy động so
với ngân sách đào tạo của Nhà nước chiếm 20%. Cần đẩy mạnh chủ trương xã
hội hoá hoạt động đào tạo này như các lĩnh vực đào tạo khác của nền giáo dục đào tạo.
Lĩnh vực bảo tồn di sản văn hố: Tính từ năm 1999 đến 2003 cả nước
huy động được nguồn vốn ngoài ngân sách để chống xuống cấp di tích

khoảng trên 460 tỷ đồng, dân đóng góp chủ yếu vào di tích mang tính tơn
giáo. Nên cho phép thành lập các viện bảo tàng tư nhân, các cơ sở bảo tồn di
tích, di sản của tư nhân nhằm cung cấp dịch vụ văn hoá cho xã hội.
Lĩnh vực bản quyền tác giả: Cả nước có 32 tổ chức tư vấn dịch vụ quyền
tác giả (phần lớn là của tư nhân) trong đó có 04 văn phịng luật sư có hoạt động
tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, tính từ năm 1999-2003 trung bình mỗi năm có
30,65% (năm 2003 là 38,12%). Số hồ sơ đăng ký bản quyền được thực hiện
thông qua các tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả có 01 trung tâm bảo vệ
quyền tác giả âm nhạc Việt Nam ra đời sau 02 năm hoạt động đã ký được 460
hợp đồng uỷ thác với các nhạc sỹ với tổng số tiền thu được là: 447.576.678 từ
hoạt động thu bản quyền về biểu diễn, sản xuất băng, xuất bản. Hiệp hội công


nghiệp ghi âm Việt Nam đã được thành lập từ tháng 8/2003 đến nay đã có 45 tổ
chức, cá nhân nộp đơn tự nguyện tham gia.
Trong thời gian tới thành lập Hiệp hội bản quyền tác giả nhạc, Hiệp hội
xuất bản và tiến tới thành lập Hiệp hội bản quyền trong lĩnh vực văn hố thơng
tin cho phép các tổ chức, thành lập các tổ chức cơ sở về hoạt động tư vấn và
dịch vụ bản quyền tác giả tìm sự hỗ trợ về đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ, tài chính của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước.
Lĩnh vực sản xuất kinh doanh dịch vụ văn hố:
Cả nước hiện có 20 trung tâm sản xuất băng nhạc ngoài đơn vị Nhà nước
với vốn đầu tư ban đầu là 20 tỷ đồng, 25.020 cơ sở cho th băng đĩa hình đĩa
nhạc, karaoke, vũ trường trong đó có 2.102 cơ sở karaoke, vũ trường và 4000 cơ
sở cà phê Internet. Đến năm 2010 cửa hàng bằng đĩa, karaoke, vũ trường,
internet, photo lên tới 35.000, sản phẩm văn hố lưu thơng qua mạng tư nhân
chiếm 60%. Phải tiếp tục quản lý chặt chẽ, khuyến khích hoạt động theo cơ chế
thị trường nhưng phải tuân thủ các quy định của pháp luật.
Q trình cơng nghiệp hố đối với các doanh nghiệp Nhà nước: Tổng số
các doanh nghiệp trực thuộc Bộ Văn hố thơng tin là 33 doanh nghiệp được xếp

theo các khối: khối điện ảnh (7 đơn vị), khối cơng nghệ truyền hình (1), khối in
(7), khối mỹ thuật tu bổ di tích – thiết bị văn hố (3), khối phát hành (6), khối
xây dựng cơ bản – thiết kế cơng trình văn hố (3), khối xuất bản (5). Các doanh
nghiệp văn hố thơng tin địa phương 200 đơn vị (trong đó có 13 doanh nghiệp là
đơn vị thành viên của tổng công ty sách Việt Nam).
Ngành công nghiệp văn hố phát triển chẳng những giải phóng sức lao
động (lao động văn hố), mà cịn tạo ra cơng ăn việc làm, phân bố lại lao động
một cách đa dạng hơn, hợp lý hơn. Ngành cơng nghiệp văn hố phát triển cũng
tạo điều kiện cho sự ra đời của ngành kinh tế dịch vụ, kinh tế du lịch phát triển,
tăng tỉ trọng kinh tế dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của đất nước, thực sự góp phần
vào sự nghiệp cơng nghiệp hố đất nước.


Xây dựng và phát triển ngành cơng nghiệp văn hố sẽ thúc đẩy việc sử
dụng và phát huy tài nguyên văn hoá của đất nước: các di vật văn hoá vật chất,
di sản văn hoá tinh thần, cảnh quan thiên nhiên, công nghệ truyền thông, tri thức
bản địa và sự sáng tạo văn hố của lực lượng trí thức văn nghệ sỹ và quần chúng
nhân dân. Đồng thời, công nghiệp văn hoá phát triển sẽ tạo ra một thị trường
lớn về tiêu thụ các sản phẩm văn hoá (86 triệu người) ngay chính trên đất nước
ta. Thị trường sản phẩm khoa học công nghệ phục vụ cho tiêu dùng văn hố
(máy nghe nhìn, ghi âm, ghi hình, photo, sản xuất băng đĩa..). Mặt khác, ngành
công nghiệp này phát triển cũng sẽ thúc đẩy, hỗ trợ các ngành kinh tế khác phát
triển, như cơng nghiệp máy móc; cơng nghiệp sản xuất trang, thiết bị; ngành thủ
cơng mỹ nghệ, trang trí và các dịch vụ ăn uống, du lịch...
Phát triển công nghiệp văn hoá cũng thúc đẩy cho hoạt động ngoại
thương, giao lưu văn hoá quốc tế mở ra trên nhiều phương diện: trao đổi sản
phẩm, dịch vụ và các hoạt động văn hoá; hợp tác đầu tư sản xuất hàng hoá văn
hoá; hợp tác đào tạo nhân lực văn hoá; hợp tác xây dựng các thiết chế văn hoá,
đầu tư khai thác du lịch văn hoá; hợp tác bảo tồn và phát huy di sản văn hố…
Đây chính là xây dựng một nền văn hố đối ngoại dựa trên nền cơng nghiệp văn

hố phát triển, vừa góp phần phát triển kinh tế đối ngoại, vừa góp phần tăng
cường hợp tác kinh tế, chính trị, nâng cao vị thế của đất nước.
Tóm lại, ngành cơng nghiệp văn hố phát triển sẽ đóng góp to lớn vào sự
phát triển của đất nước trên mọi phương diện: kinh tế, chính trị, xã hội, ngoại
giao...cả trong hiện tại và tương lai.
2.2.2. Nhận thức về phát triển cơng nghiệp văn hố với xây dựng nền văn
hố tiên tiến, đậm đà bản sắc
Phát triển ngành công nghiệp văn hóa là thực hiện chính sách kinh tế
trong văn hoá của Đảng từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khoá VIII.


×