Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

QUÁ TRÌNH HOÀN CHỈNH ĐƯỜNG lối CÁCH MẠNG dân tộc dân CHỦ NHÂN dân từ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ đầu TIÊN đến CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (788.15 KB, 61 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH

BÀI TẬP LỚN MƠN LỊCH SỬ ĐẢNG
ĐỀ TÀI

Q TRÌNH HỒN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN TỪ CƯƠNG LĨNH CHÍNH
TRỊ ĐẦU TIÊN ĐẾN CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG
VIỆT NAM
LỚP L12 ––– NHÓM 17 ––– HK 212
NGÀY NỘP
Giảng viên hướng dẫn: Trần Thị Kim Oanh
Sinh viên thực hiện
Hoàng Trọng Khang
Huỳnh Hữu Khương
Trần Ngọc Mai
Trần Thanh Nhân
Nguyễn Văn Hiệp

Thành phố Hồ Chí Minh – 2022
1


BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHĨM 17 VÀ BẢNG ĐIỂM BTL
Mơn: LỊCH SỬ ĐẢNG (MSMH:SP1039 )
Nhóm/Lớp: L12, Tên nhóm: Nhóm 17, HK 212, Năm học 2021 – 2022

STT

MSSV



1

1913688

2

1913851

3

1914114

4

1914460

5

1913397
Họ và tên nhóm trưởng: Huỳnh Hữu Khương, Số ĐT: 0938793172, Email:
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
………………………………………………………………………..
………………………………………………………………


quả

Điểm
BTL



BTL LỊCH SỬ ĐẢNG NHÓM 17

GVHD:TRẦN THỊ KIM LOAN

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................ 5
PHẦN NỘI DUNG............................................................................................. 7
I.

Bố i cả nh lịch sự Việt Nam dưới chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của

thực dân Pháp và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng................................. 7
1.1. Bối cảnh lịch sử........................................................................................... 7
1.1.1 Việt Nam từ nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa:............... 7
1.1.2. Giai cấp địa chủ phong kiến bị phân hố, giai cấp cơng nhân ra đời:.........8
1.1.3. Cuộc khủng hoảng đường lối giải phóng dàn tộc, nhiều đảng phái xuất hiện:

10
1.2 Cương lĩnh chính trị đầu tiên..................................................................... 13
II.

Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng từ 10-1930 đến tháng 5-1941. Đặc điểm

dân tộc Việt Nam .........................................................................................................
2.1. Luận cương chính trị ............................................................................................
2.2. Q trình khắc phục hạn chế và hồn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng
dân tộc từ tháng 3-1935 đến tháng 5-1941 ................................................................
2.2.1. Những năm 1935 – 1939 ...................................................................................

2.2.1.1. Bối cảnh lịch sử ...............................................................................................
2.2.1.2. Khắc phục hạn chế và hoàn chỉnh đường lối cách mạng ..........................
2.2.2. Những năm 1939 – 1941 ....................................................................................
2.2.2.1. Bối cảnh lịch sử ...............................................................................................
2.2.2.2. Chuyển hướng chỉ đạo đường lối cách mạng của Đảng .............................
2.2.2.3. Ý nghĩa của việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược .....................................
III. Chính cương Đảng Lao động Việt Nam và sự hoàn chỉnh đường lối cách mạng

Dân tộc Dân chủ Nhân dân


BTL LỊCH SỬ ĐẢNG NHÓM 17

GVHD:TRẦN THỊ KIM LOAN

3.1. Những yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng Việt Nam và nội dung Chính
cương Đảng Lao động Việt Nam..................................................................... 47
3.1.1. Nhiệm vụ mới của Cách mạng Việt Nam................................................. 47
3.1.2. Nội dung chính cương của Đảng Lao động Việt Nam.............................. 48
3.2. Sự bổ sung, hoàn chỉnh của Đảng so với Cương lĩnh và Luận cương chính trị
54
PHẦN KẾT LUẬN........................................................................................... 57

4


BTL LỊCH SỬ ĐẢNG NHÓM 17

GVHD:TRẦN THỊ KIM LOAN


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời kỳ nước ta bị thực dân Pháp đô hộ khoảng từ 1858 đến 1945, nhân dân
ta phải chịu sự bóc lột hết sức nặng nề. Thực dân Pháp đã biến nước ta thành nước nửa
thuộc địa, nửa phong kiến, tiến hành khai thác thuộc địa, bóc lột lao động, đồng hố dân tộc,
thực hiện chính sách ngu dân, tuyên truyền tệ nạn xã hội để làm thối hố tính dân tộc và
giống nịi Việt Nam. Xã hội Việt Nam bắt đầu có sự thay đổi khi có những tầng lớp mới là
cơng nhân, tư sản, tiểu tư sản. Với việc bị bóc lột, chèn ép của thực dân Pháp, nhân dân ta
đã nhiều lần đứng lên đấu tranh giành lại độc lập nhưng các cuộc đấu tranh đều lẻ tẻ, thiếu
tổ chức, không có mục đích, người lãnh đạo rõ ràng nên đều thất bại. Lúc này nước ta rất
cần một đường lối đấu tranh đúng đắn với mục tiêu rõ ràng và sự lãnh đạo với các chiến
lược sáng suốt mới có thể so sánh được với sức mạnh về lực lượng và vũ khí quân sự áp
đảo của quân địch. Để đáp ứng mong muốn này, Nguyễn Ái Quốc đã đi chu du, học hỏi ở
nhiều quốc gia trên thế giớ và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân ta đấu
tranh giành lại chính quyền.
Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi
quá trình hình thành đường lối chiến lược giải phóng dân tộc là q trình vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX

- một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp,
Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần túy biến thành một xã hội thuộc địa, dù tính
chất phong kiến cịn được duy trì một phần nhưng các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội đều chuyển động trong quỹ đạo của xã hội thuộc địa. Trong lòng xã hội Việt Nam
thời kỳ này đã hình thành nên những mâu thuẫn giai cấp, dân tộc đan xen rất phức
tạp Để hình thành đường lối cách mạng đúng đắn nghĩa là phải vận dụng lý luận cách
mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam để nhận thức đúng
mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội Việt Nam, xác định đúng kẻ thù, quyết định
nhiệm vụ chiến lược, các chủ trương chính sách để tập hợp lực lượng và phương
pháp cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn
Nhờ vào “Cương lĩnh chính trị đầu tiên tháng 2/1930”, “Luận cương lĩnh chính

trị tháng 10/1933” và “Chính cương Đảng Lao động Việt Nam 2/1951” dần hoàn thiện

5


BTL LỊCH SỬ ĐẢNG NHÓM 17

GVHD:TRẦN THỊ KIM LOAN

đường lối cách mạng dẫn dắt cuộc đấu tranh đi đúng hướng và từng bước tiến
đến thắng lợi, độc lập cho dân tộc.
Bởi lẻ đó mà chúng em chọn đề tài này là để tìm hiểu lý do vì sao mà
nhờ các văn kiện trên mà chúng ta mới có cơ hội chiến thắng quân xâm lược và
cùng với đó là phân tích cũng như so sánh chi tiết nội dung, ưu, nhược điểm
của các văn kiện trên để hiểu rõ tình hình thời cuộc lúc bấy giờ và nguyên nhân
dẫn đến sự thay đổi giữa các văn kiện trên. Làm rõ con đường mà Đảng ta thực
hiện để đi lên Chủ nghĩa xã hội, những khó khăn mà cha ơng ta đã trải qua và
sự sáng suốt của Đảng trong việc giúp đất nước ta có ngày hơm nay.
2. Nhiệm vụ của đề tài
Để hiểu rõ và tìm hiểu sâu vào chủ đề mà nhóm đã chọn. chúng em đặt ra
3 nhiệm vụ cần thiết cho đề tài:
Một là, làm rõ hoàn cảnh nước ta lúc bấy giờ dưới ách thống trị của
thực dân Pháp trước khi cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ra đời
Hai là, làm rõ hoàn cảnh nước ta và chủ trương của Đảng từ 10-1930
đến tháng 5-1941. Đặc điểm dân tộc Việt Nam
Ba là, làm rõ chính cương Đảng Lao động Việt Nam và sự hoàn chỉnh
đường lối cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân

6



BTL LỊCH SỬ ĐẢNG NHÓM 17

GVHD:TRẦN THỊ KIM LOAN

PHẦN NỘI DUNG
I. Bố i cả nh lịch sự Việt Nam dưới chính sách thống trị và khai thác thuộc địa
của thực dân Pháp và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
1.1. Bối cảnh lịch sử
1.1.1 Việt Nam từ nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa:
Dân tộc Việt Nam sớm hình thành trong quá trình dựng nước và giữ nước. Với
truyền thống đoàn kết và bất khuất, dân tộc ta từng đánh bại nhiều kẻ thù xâm lược lớn
mạnh. Từ đâu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây, trong đó có đế quốc Pháp, đã
nhịm ngó, xâm lược nước ta, mở đâu bằng việc khai thông buôn bán và truyền giáo. Nǎm
1858, đế quốc Pháp vũ trang xâm lược nước ta. Vua quan triều đình nhà Nguyễn từng bước
đầu hàng chúng. Ngày 6 tháng 6 nǎm 1884, triều đình nhà Nguyên đã ký Hiệ p ước
Patơnốt, hoàn toàn dâng nước ta cho đế quốc Pháp. Từ đó, Việt Nam trở thành thuộc địa
của đế quốc Pháp. Dưới chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai của chúng, xã hội
Việt Nam có nhiều thay đổi. Về chính tri thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên. Mọi
quyền hành đêu nằm trong tay người Pháp, vua quan nhà Nguyễn chỉ đóng vai trị bù nhìn.
Chúng thi hành chính sách chia để trị. Chúng chia rẽ giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông
Dương, rồi lập ra xứ Đơng Dương thuộc Pháp nhằm xố tên các nước Việt Nam, Lào,
Campuchia trên bản đồ thế giới. Đánh giá về chính sách này, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã
viết: "Chủ nghĩa thực dân Pháp không hề thay đổi cái châm ngơn "chia để trị" của nó.
Chính vì thế mà nước An Nam, một nước có chung một dân tộc, chung một dòng máu,
chung một phong tục, chung một lịch sử, chung một truyền thống, chung một tiếng nói, đã bị
chia nǎm sẻ bảy. Lợi dụng một cách xảo trá sự chia cắt ấy, người ta hy vọng làm nguội
được tình đồn kết, nghĩa đồng bào trong lịng người An
Nam và tạo ra những mối xung khắc giữa anh em ruột thịt với nhau. Sau khi đẩy họ chống lại
nhau, người ta lại ghép một cách giả tạo các thành phần ấy lại, lập nên một "Liên bang"

gọi là Liên bang Đông Dương"... Về kinh tế tư bản Pháp không phát triển công nghiệp ở
nước ta, mà chỉ mở mang một số ngành trực tiếp phục vụ cho bộ máy thống trị và khai thác
tài nguyên để cung cấp ngun liệu cho nền cơng nghiệp của nước Pháp. Chính sách độc
quyền kinh tế Pháp đã biến Việt Nam thành thị trường của chính quốc, nơi vơ vét tài
nguyên và bóc lột nhân cơng rẻ mạt. Bên cạnh sự bóc lột nhân công và cướp đoạt tài
nguyên, đất đai, bọn thực dân Pháp cịn duy trì chế độ phong kiến để

7


BTL LỊCH SỬ ĐẢNG NHÓM 17

GVHD:TRẦN THỊ KIM LOAN

giúp chúng bóc lột địa tơ, lợi tức và các hình thức thuế khoá rất nặng nề. Các mâu thuẫn xã
hội ngày càng trở nên sâu sắc. Mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân, với giai
cấp phong kiến địa chủ chưa được giải quyết, thì mâu thuần giữa dân tộc ta với bọn đế quốc
Pháp thống trị và phong kiến tay sai của chúng lại phát sinh, càng đẩy nhanh quá trình cách
mạng của nhân dân ta. Đánh giá về hiện tượng xã hội nói trên, đồng chí Nguyễn ái Quốc
viết: "Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ cịn phải
làm cái việc là gieo hạt giống của cơng cuộc giải phóng nữa thơi" Phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa của tư bản Pháp trùm lên phương thức sản xuất phong kiến lỗi thời đã làm
phân hoá các giai cấp cũ, tạo ra kết cấu giai cấp mới.

1.1.2. Giai cấp địa chủ phong kiến bị phân hoá, giai cấp công nhân ra đời:
Giai cấp địa chủ phong kiến trong những thế kỷ trước đã từng giữ vai trò tiến bộ nhất
định trong lịch sử. Từ khi triều đình nhà Nguyễn đầu hàng đế quốc Pháp thì bản thân giai
cấp này cũng bị phân hóa. Một bộ phận can tâm làm tay sai cho đế quốc Pháp để duy trì
quyền lợi của bản thân, một bộ phận khơng ít tiếp tục truyền thống dân tộc, đề xướng và
lãnh đạo các phong trào Vǎn thân, Cần vương chống đế quốc Pháp xâm lược, khơi phục

triều đình phong kiến. Một số trở thành những lãnh tụ của phong trào quần chúng nông
dân, vừa đấu tranh chống đế quốc Pháp, vừa chống lại triều đình bán nước. Một bộ phận
nhỏ chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa. Giai cấp tư sản Việt Nam xuất hiện từ
trong thời gian Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), vừa ra đời đã bị sự chèn ép của
tư bản Pháp và phân hố thành hai bộ phận. Một số ít ơm chân đế quốc, tham gia vào các
cơ quan chính trị và kinh tế của đế quốc Pháp, trở thành lớp tư sản mại bản. Một bộ phận
khác tuy có mâu thuẫn nhất định với tư bản Pháp và triều đình phong kiến, nhưng thế lực
kinh tế yếu ớt, què quặt, phụ thuộc, khuynh hướng chính trị cải lương. Do vậy, giai cấp tư
sản dân tộc Việt Nam tuy có tinh thần yêu nước, chống phong kiến và đế quốc, nhưng họ
không có khả nǎng lãnh đạo cách mạng. Họ chỉ có thể tham gia cuộc đấu tranh ấy trong điều
kiện nhất định. Tầng lớp trí thức và tiểu tư sản là những người vốn được chế độ phong kiến
và thực dân đào tạo. Nhưng do truyền thống yêu nước chi phối, họ khao khát độc lập, tự
do, dân chủ, nên cũng bị phân hố. Một số ít cam tâm làm tay sai. Số đồng vẫn giữ được
khí tiết dù ở hồn cảnh nào cũng khơng ngi lịng cứu nước. Khi có điều kiện, những trí
thức u nước thường đóng vai trị truyền bá những tư tưởng mới và là ngòi pháo của các
cuộc đấu tranh chống

8


BTL LỊCH SỬ ĐẢNG NHÓM 17

GVHD:TRẦN THỊ KIM LOAN

thực dân, phong kiến. Giai cấp nông dân khao khát độc lập và ruộng đất, hǎng hái chống
đế quốc và phong kiến. Sau phong trào Vǎn thân, Cần vương, nhất là sau thất bại của cuộc
khởi nghĩa Yên thế (1913), phong trào nông dân bị phân tán. Nông dân là một lực lượng
đông đảo, yêu nước, nhưng không thể tự vạch ra đường lối đúng đắn để tự giải phóng và
khơng thể đóng vai trị lãnh đạo cách mạng. Giai cấp cơng nhân Việt Nam là sản phẩm trực
tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Lớp công nhân đầu tiên xuất

hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một số cơ sở công nghiệp, đôn trại
và thành phố phục vụ cho cuộc xâm lược và binh định nước ta. Trước Chiến tranh thế giới
lần thứ nhất (1914-1918), giai cấp cơng nhân cịn ít, chỉ 10 vạn người và trình độ cịn thấp.
Qua thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ hai (1924-1929), số lượng cơng nhân chun nghiệp
đã có 22 vạn người, chiếm 1,2% số dân. Nếu tính số người làm thuê trong các hãng kinh
doanh tư nhân vừa, nhỏ và số người vô sản, nửa vô sản sống ở thành thị và nơng thơn, thì
đội qn vơ sản ở Việt Nam trước nǎm 1930 có đến hàng triệu người. Sinh trưởng trong
một nước thuộc địa, nửa phong kiến, cũng như nông dân và các tầng lớp lao động khác,
giai cấp công nhân Việt Nam bị ba tầng áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến và tư sản,
phần lớn xuất thân từ nơng dân. Đó là cơ sở khách quan thuận lợi cho hai giai cấp cơ bản
này có sự liên minh tự nhiên từ khi ra đời và phát triển trong quá trình đấu tranh cách
mạng. Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, khơng có cơ sở xã hội cho chủ nghĩa cơng
đồn và chủ nghĩa cải lương thâm nhập, lũng đoạn từ bên trong, do vậy, giai cấp cơng
nhân Việt Nam) tuy cịn trẻ, số lượng ít, trình độ vǎn hố, kỹ thuật cịn thấp, nhưng ở nước
ta đó là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiến bộ nhất, sống tập trung, có ý thức kỷ
luật, có nǎng lực cách mạng triệt để và có tinh thần quốc tế vơ sản. Là con đẻ của một dân
tộc anh hùng, lớn lên trong thời đại mới, khi mà giai cấp công nhân Nga dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Bơnsêvích đã giành được chính quyền, Quốc tế cộng sản đã thành lập,
lại được lãnh tụ Nguyễn ái Quốc giác ngộ, giai cấp công nhân Việt Nam đã từ giác ngộ dân
tộc đến giác ngộ giai cấp, nhanh chóng phát triển từ tự phát đến tự giác. Tháng 11 nǎm
1922, 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn (Nam Bộ) đã bãi công. Từ nǎm 1920 đến nǎm 1925, có
đến 25 cuộc bãi cơng trong cả nước. Nổi bật nhất là cuộc bãi công của công nhân Ba Son
nổ ra từ ngày 4 tháng 8 đến ngày 28 tháng 11 nǎm 1925 để "kìm chân" chiếc tàu J.Misơlê
của đế quốc Pháp chuẩn bị đưa quân sang đàn áp cách mạng Trung Quốc. Cuộc đấu tranh
này có tổ chức, chỉ đạo

9


BTL LỊCH SỬ ĐẢNG NHÓM 17


GVHD:TRẦN THỊ KIM LOAN

và biểu hiện tinh thần quốc tế cao cả. Tuy vậy, chỉ đến những nǎm 1928-1929, khi Việt
Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội chủ trương "vơ sản hố" mới tạo điều kiện
cho phong trào cơng nhân chóng trưởng thành, phát triển lên trình độ tự giác.
1.1.3. Cuộc khủng hoảng đường lối giải phóng dàn tộc, nhiều đảng phái xuất hiện:
Lịch sử nước ta từ khi đế quốc Pháp xâm lược đến những nǎm hai mươi của thế kỷ
này đã chứng kiến hơn 300 cuộc đấu tranh hết sức anh dũng của dân tộc ta chống đế
quốc Pháp xâm lược. Nhưng cuối cùng đều khơng giành được thắng lợi vì khơng có một
đường lối cứu nước đúng đắn. Trước kia, chế độ phong kiến khi đang ở giai đoạn hưng
thịnh, giai cấp phong kiến đã từng lãnh đạo dân tộc đánh thắng bọn phong kiến phương bắc
lớn mạnh xâm lược. Nhưng khi chế độ phong kiến đã suy tàn và phải đối phó với một kẻ
thù mới, một đế quốc thuộc loại cường quốc thế giới, thì giai cấp phong kiến bất lực và trở
thành phản động. Thất bại của phong trào Cần vương là do thiếu đường lối đúng, thiếu một
tổ chức cách mạng có khả nǎng dắt dẫn dân tộc đến thắng lợi. Thất bại của phong trào này
đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ dấu tranh chống ngoại xâm trong khuôn khổ hệ tư tưởng phong
kiến. Thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Thế dưới sự lãnh đạo của cụ Hồng Hoa Thám cũng
chứng tỏ đó khơng phải là con đường giành thắng lợi. Khi các phong trào trên chấm dứt thì
cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước ở nước ta bộc lộ sâu sắc. Sau khi từng bước ly khai
con đường giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng phong kiến, nhiều người yêu nước Việt Nam
hướng ra nước ngồi, tìm đến nhưng con đường mới để mưu sự nghiệp giải phóng dân
tộc như: con đường Duy Tân của Nhật Bản (1860), con đường Cách mạng tư sản Pháp
(1789), con đường Cách mạng Tân Hợi của Trung Quốc (1911)... Vào đâu thế kỷ này, nước
Nhật từ sau cuộc vãn động Duy Tân đã trở thành nước đế quốc chủ nghĩa, đã đánh bại Nga
Hồng trong cc chiến tranh Nga - Nhật (1905). Cách mạng 1905 ở Nga nổ ra nhưng không
thắng lợi. Cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc (nǎm 1911) đã đánh đổ triều đình Mãn Thanh,
lập ra nước Trung Hoa dân quốc. Những sự kiện trên đây đã ảnh hưởng đến phong trào
yêu nước Việt Nam. ý thức hệ tư sản phương Tây đã thâm nhập vào Việt Nam. Một số sĩ
phu tiến bộ tiếp thu tràn lưu tư tưởng này, mong muốn nước mạnh, dân giàu theo con

đường tư bản chủ nghĩa. Họ muốn noi theo con đường phát triển của Nhật Bản, dựa vào
Nhật để đánh Pháp. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là hội Duy Tân do cụ Phan Bội Châu
sáng lập, với mục đích cổ động phong trào, tổ chức lực lượng chống Pháp theo tôn chỉ "mở
mang

10


BTL LỊCH SỬ ĐẢNG NHĨM 17

GVHD:TRẦN THỊ KIM LOAN

dân trí, chấn hưng dân khí, vun trồng nhân tài". Số khác như các cụ: Lương Vǎn Can,
Nguyễn Quyền... mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội nhằm cổ động tinh thần yêu
nước, bài xích chính sách cai trị của thực dân Pháp, khuyến khích cải cách, chế diễu lũ
phong kiến, cường hào v.v.. Là một nhà yêu nước nhiệt thành, nhưng chủ trương của cụ
Phan Chu Trinh khác hẳn với cụ Phan Bội Châu. Cụ Phan Chu Trinh tiêu biểu cho xu hướng
cải cách dân chủ tư sản (1789), phản đối việc vũ trang bạo động chống Pháp. Cụ nói: "Bất
bạo động, bạo động tắc tử, bất vọng ngoại, ngoại vọng tất vong". Đó là lời tuyên bố của cụ
Phan Chu Trinh sau khi đi Nhật về (15-8-1906). Sau này trong thư "thất trảm" gửi vua Khải
Định khi y sang Pháp (1922), cụ Phan Chu Trinh viết: "Mau mau quay đâu lại mà thối vị đi,
đem chính quyền trả lại cho quốc dân để quốc dân được trực tiếp với chính phủ Pháp mà
làm việc đặng mưu lợi ích sau này". Phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, chống đi
phu, nộp thuế ở Trung Kỳ là kết quả của khuynh hướng tư tưởng tư sản. Tính chất phong
trào dân tộc ở thời kỳ này có chuyển biến khác trước Một số tổ chức yêu nước ra đời như
hội Duy Tân (1904), trường Đông Kinh Nghĩa Thục (1907), hội Đông á đồng minh (1908),
Việt Nam quang phục Hội (1912-1924) v.v.. Song, vì đường lối chính trị của các tổ chức này
không rõ ràng, nhất là không dựa vào quần chúng lao động, mà dựa vào uy tín cá nhân,
nên khơng tạo ra được sự thống nhất trong những người đề xướng phong trào. Vì vậy, khi
những người thủ lĩnh bị đế quốc Pháp bắt thì phong trào cũng tan rã theo. Cách mạng

tháng Mười Nga thành công (1917) đánh dấu bước phát triển mới trong lịch sử nhân loại.
Quốc tế cộng sản, bộ tham mưu của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức toàn thế giới
được thành lập. ở Trung Quốc, sau phong trào Ngũ Tứ, Đảng cộng sản Trung Quốc ra đời
(1921). ở Pháp, Đảng cộng sản Pháp được thành lập (1920), sự kiện lịch sử này không chỉ là
thắng lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp, mà còn là thắng lợi của các
dân tộc thuộc địa Pháp. Đồng thời, với những chuyển biến trên thế giới, cách mạng Việt
Nam lúc này cũng bắt đâu có những chuyển biến mới. Đồng chí Nguyễn ái Quốc thay mặt tổ
chức những người Việt Nam yêu nước ở Pháp đưa bản "yêu sách 8 điểm" đến Hội nghị
các nước đế quốc thắng trận ở thành phố Vécxây (6-1919); đồng chí Nguyễn ái Quốc bỏ
phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp

ở thành Tua và tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp (1920). Đồng chí Nguyễn ái
Quốc được bầu vào đồn chủ tịch Hội nông dân Quốc tế (l0-1923), và dự Đại hội lần

11


BTL LỊCH SỬ ĐẢNG NHÓM 17

GVHD:TRẦN THỊ KIM LOAN

thứ V Quốc tế cộng sản (1924). Tiếng bom Phạm Hồng Thái mưu sát toàn quyền Méclanh (61924) ở Quảng Châu (Trung Quốc) v.v.. Tất cả như sự báo hiệu bước chuyển biến mới về
chất của phong trào cách mạng Việt Nam. Tháng 4 nǎm 1921, trên Tạp chí Cộng sản của
Đảng cộng sản Pháp, đồng chí Nguyễn ái Quốc viết: "Người Đơng Dương giấu một cái gì
đang sơi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến". Đúng như
nhận xét của đồng chí Nguyễn ái Quốc, từ những nǎm 1920 trở đi, phong trào cách mạng
Việt Nam có những chuyển biến mạnh mẽ. Bên cạnh những đảng cách mạng theo xu hướng
tư tưởng tư sản, đã xuất hiện những tổ chức yêu nước tiếp thu tư tưởng tiến bộ mới. Đặc
biệt là chủ nghĩa Mác-Lênin - hệ tư tưởng của giai cấp công nhân ngày càng có tác động
mạnh mẽ vào phong trào yêu nước và phong trào công nhân. ở Việt Nam, giai cấp tư sản

dân tộc chưa bao giờ giương được ngọn cờ giải phóng dân tộc. Đảng lập hiến của Bùi
Quang Chiêu (1919) về cǎn bản là một tập đoàn địa chủ "tư sản hoá". Nǎm 1926, họ đưa
ra thuyết "Pháp Việt đề huề" thì mặt nạ làm tay sai cho đế quốc Pháp lộ rõ. "Thuyết trực trị"
của Nguyễn Vǎn Vĩnh, "Thuyết bảo hoàng lập hiến" của Phạm Quỳnh đã bộc lộ chân tướng
ôm chân đế quốc Pháp. Xu hướng quốc gia cải lương của nhóm Huỳnh Thúc Kháng cũng ít
tiếng vang. Phong trào đấu tranh trong những nǎm 1923-1927, đòi tự do, dân chủ theo kiểu
cách mạng tư sản, nhưng động lực của nó là những người tiểu tư sản chứ không phải do
đảng của giai cấp tư sản lãnh đạo. Biểu hiện của phong trào này là nhiều hội, đảng yêu
nước của thanh niên trí thức kế tiếp nhau ra đời: Tân Việt thanh niên đoàn - tức Tâm tâm
xã (1923-1925), hội Phục Việt (1925), Đảng thanh niên của Trần Huy Liệu (1926), Thanh
niên cao vọng đảng của Nguyễn An Ninh (1926-1929), Tân Việt cách mạng đảng (19261930), Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội (1925-1929), Việt Nam quốc dân đảng
(1925-1930) v.v...
Những tổ chức yêu nước cách mạng nói trên đã có tác dụng nhất định trong việc truyền bá
tư tưởng mới, giáo dục lòng yêu nước và tập hợp số quần chúng thanh niên trí thức, tiểu tư
sản. Nhưng, họ chưa vạch ra được một đường lối cách mạng phù hợp với yêu cầu của dân
tộc. Tâm tâm xã nêu cao quyết tâm "khôi phục quyền làm người của người Việt Nam",
nhưng "chưa bàn đến chính thể". Tân Việt cách mạng đang nhận rõ mục đích giả i phóng
dân tộc, nhưng chưa thấy vị trí lịch sử của giai cấp công nhân, Việt Nam quốc dân đảng chủ
trương chống đế quốc, chống phong kiến, nhưng lại sao chép rập khuôn chủ nghĩa Tam dân
của Tôn Dật Tiên (Trung Quốc). Nhìn chung, các hội và đảng yêu

12


BTL LỊCH SỬ ĐẢNG NHĨM 17

GVHD:TRẦN THỊ KIM LOAN

nước nói trên có tinh thần chống đế quốc, nhưng chưa nhận thức được xu thế phát triển
khách quan của thời đại sau Cách mạng tháng Mười Nga, nên không thấy được giải

phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng xã hội, chủ nghĩa
yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản, chưa thấy độc lập dân
tộc phải gắn liền với chế độ mới để đi đến xoá bỏ mọi sự bất cơng và áp bức bóc lột. Những
người trong các tổ chức này cũng không thấy hết bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa
đế quốc, không nhận thức được vai trị lãnh đạo của giai cấp cơng nhân, vai trò của quần
chúng nhân dân, trước hết là nơng dân trong cách mạng. Bởi những hạn chế đó, những
người yêu nước trong các tổ chức này chưa thể xác định được một đường lối cách mạng
đúng đắn. Riêng Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội do đồng chí Nguyễn ái
Quốc sáng lập, là một tổ chức cách mạng, phần lớn gồm những người trí thức, tiểu tư sản,
sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, sớm có khuynh hướng cộng sản chủ nghĩa. Đảng Tân
Việt, sau những nǎm 1926-1927 đã chịu ảnh hưởng về đường lối của Việt Nam thanh niên
cách mạng đồng chí Hội. Cuộc đấu tranh về ý thức hệ và về đường lối cứu nước giữa Việt
Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội và các tổ chức yêu nước nói trên đã diễn ra từ
những ngày đầu đồng chí Nguyễn ái Quốc trực tiếp chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ
chức cho việc thành lập đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam, từng bước khắc phục sự khủng
hoảng về đường lối cứu nước.

1.2 Cương lĩnh chính trị đầu tiên
Chính cương vắn tắt của Đảng nhận định rằng, Việt Nam là một xứ thuộc địa, nửa
phong kiến, công nghiệp không phát triển "vì tư bản Pháp hết sức ngǎn trở sức sinh sản,
làm cho nghành công nghiệp bản xứ khổng thể mở mang được". Kinh tế nông nghiệp chiếm
ưu thế, "nông nghệ ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nơng dân thất
nghiệp nhiều". Tình hình đó đưa đến mâu thuẫn ngày càng kịch liệt giữa một bên là dân tộc
ta trong đó có cơng nhân, nơng dân và toàn thể dân tộc với một bên là đế quốc Pháp và
tay sai của chúng. Đánh giá hai giai cấp tư sản và địa chủ là những đối tượng cần xố bỏ,
Đảng ta đã có sự phân biệt: "Tư bản bản xứ khơng có thế lực gì ta khơng nên nói cho họ
đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ
nghĩa". Muốn giải quyết mâu thuẫn đó, nhân dân Việt Nam phải làm "tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Đây là một thể loại cách mạng
vô sản ở các nước thuộc địa mà sinh thời Mác,


13


BTL LỊCH SỬ ĐẢNG NHÓM 17

GVHD:TRẦN THỊ KIM LOAN

Lênin và ngay cả Quốc tế cộng sản cũng chưa nói đến. Sau này, Đang ta hoàn chỉnh tên
gọi của thể loại cách mạng này, và được gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu chủ yếu lúc này là đánh đổ ách thống trị của đế quốc xâm
lược và tay sai của chúng, giành độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân. Mục đích cuối
cùng là xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Theo tư
tưởng của đồng chí Nguyễn ái Quốc thì cuộc cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản bao gồm hai cuộc vận động là cuộc vận động giải phóng dân
tộc và cuộc vận động xây dựng đất nước độc lập tự do hạnh phúc, phần lớn coi giai đoạn
cách mạng là giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Hai cuộc vận
động này liên quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng và thúc đẩy lẫn nhau, cuộc vận động
trước thành công tạo điều kiện cho cuộc vận động sau giành thắng lợi, Vì vậy, giữa hai giai
đoạn cách mạng này: giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội khơng có bức
tường ngǎn cách, không phải tiến hành một cuộc cách mạng chính trị lân thứ hai để giải
quyết vấn đê chính quyền như cách mạng Nga và cách mạng Trung Quốc. Điều đó chứng
tỏ rằng, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã nǎm vững nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cách mạng thế giới, thấu suốt con đường phát triển
tất yếu của cách mạng Việt Nam, nhận rõ mối quan hệ biện chứng giữa cách mạng dân tộc
dân chủ với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh đâu tiên của Đảng là cương lĩnh
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ cách mạng mà Cương
lĩnh vạch ra là "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam
được hồn tồn độc lập tổ chức ra qn đội cơng nông" thâu hết sản nghiệp lớn... của tư
bản đế quốc,..thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày
nghèo, bỏ sưu thuế cho dân nghèo mở mang công nghiệp và nông nghiệp thi hành luật

ngày làm 8 giờ" Các nhiệm vụ đó bao hàm cả nội dung dân tộc dân chủ và nội dung xã hội
chủ nghĩa. Song, nổi bật là nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai của chúng (đại địa chủ, đại
tư sản phản cách mạng và vua quan phong kiến) giành lại độc lập, tự do, dân chủ cho toàn
dân tộc. Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh của Đảng chủ trương đoàn kết tất cả các giai
cấp cách mạng, các lực lượng tiến bộ và cá nhân yêu nước, tập trung lực lượng đánh đổ
kẻ thù chủ yếu của dân tộc là chủ nghĩa đế quốc Pháp và tay sai, mở đường cho cách
mạng phát triển đến thắng lợi hồn tồn. Để bảo đảm vai trị lãnh đạo của đảng tiên phong
của giai cấp công

14


BTL LỊCH SỬ ĐẢNG NHÓM 17

GVHD:TRẦN THỊ KIM LOAN

nhân, Đảng chủ trương giải quyết hài hoà từng bước quyền lợi của các giai cấp cách mạng
dù cịn có những mâu thuẫn nhất định về quyền lợi. Vê vấn đê ruộng đất, "xương sống của
cách mạng thuộc địa", Đảng chủ trương tiến hành từng bước với những nội dung thích hợp
với từng thời kỳ cách mạng. ở giai đoạn giải phóng dân tộc thì quốc hữu hố tồn bộ đồn
điền và đất đai của đế quốc và địa chủ phản cách mạng Việt Nam để chia cho nông dân
nghèo, "phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa
chủ và phong kiến" Đối với chủ nghĩa tư bản thì "thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp,
vận tải, ngân hàng v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ cơng
nơng binh". Cịn đối với các tầng lớp "phú nơng, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà
chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ trung lập". Sau khi
cách mạng giải phóng dân tộc giành được thắng lợi, chính quyền đã về tay công nông,
Đảng sẽ lãnh đạo tiến hành những cải cách nhằm sửa đổi lại những bất công và phân phối
lợi nhuận giữa những nhà tư sản và những người vô sản một cách công bằng hơn. Trong
khi khẳng định "công nông là gốc cách mạng", Sách lược vắn tắt của Đảng vạch rõ, "phải

hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nơng Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi
vào phe vô sản giai cấp" Về nguyên tắc liên minh, Sách lược vắn tắt đã viết: "Trong khi liên
lạc với các giai cấp phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của cơng
nơng mà đi vào đường thoả hiệp" Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến
hành bằng bạo lực cách mạng của quần chúng, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn
phong kiến, rồi dựng ra chính phủ cơng nơng binh chứ khơng phải bằng con đường cải
lương. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, đứng trong mặt
trận cách mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới mà đội quân tiên
phong của mặt trận này là Liên Xô. Sách lược vắn tắt ghi rõ: "Trong khi tuyên truyền cái
khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp
bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp" Cương lĩnh đầu tiên
khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Đảng "thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho
giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng... phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và
phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và
phong kiến", đồng thời phải liên minh với các giai cấp cách mạng và tầng lớp

15


BTL LỊCH SỬ ĐẢNG NHÓM 17

GVHD:TRẦN THỊ KIM LOAN

yêu nước khác, đoàn kết họ, tổ chức họ đấu tranh cho giai phóng dân tộc và để đi tới chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Đảng cộng sản Việt Nam kết nạp đảng viên không những
trong công nhân tiên tiến, mà cịn kết nạp những người tiên tiến trong nơng dân lao động,
trí thức cách mạng và trong các tầng lớp khác. Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong
của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng. Đảng là một khối
thống nhất ý chí và hành động. Đảng viên phải "tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình

Đảng và Quốc tế cộng sản, hǎng hái tranh đấu và dám hy sinh, phục tùng mệnh lệnh Đảng
và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng". Trong tôn chỉ của mình, Đảng chỉ
rõ phải "lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ
nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản". Do sớm nhận thức được sự thống nhất giữa giải
phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội trong cách mạng vô sản ở nước
thuộc địa, coi trọng độc lập tự chủ, tự lực tự cường của từng quốc gia, Hội nghị hợp nhất chủ
trương thành lập Đảng cộng sản Việt Nam; đồng thời có kế hoạch giúp những người cách
mạng ở Lào và ở Campuchia sáng lập ra đảng tiên phong của dân tộc mình. Sau ngày
Đảng cộng sản Việt Nam thành lập, tháng 4 nǎm 1930, một số chi bộ cộng sản đầu tiên của
giai cấp vô sản và nhân dân lao động Lào đã ra đời ở Viên Chǎn, Thà Khẹt, Bò Neng. Đầu
nǎm 1930, một số nhóm cộng sản
ở Campuchia được thành lập ở Phnômpênh và ở Côngpôngchàm. Chi bộ cộng sản đâu
tiên ở Campuchia được thành lập ở trường trung học Xixôvát (Phnômpênh). Đảng cộng sản
Việt Nam ra đời ở một nước thuộc địa, giai cấp công nhân chỉ chiếm 1,2% dân số, đã có
Cương lĩnh cách mạng đúng đắn nguy từ đâu. Điều đó chứng minh rằng, Đảng đã nắm
vững bản chất khoa học và cách mang của chủ nghĩa Mác - Llênin, giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp, sớm kết hợp yếu tố giai cấp với yếu tố dân tộc
một cách sáng tạo, gắn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vơ sản, phát
huy được truyền thống yêu nước, đánh giá đúng vị trí của từng giai cấp cách mạng, đoàn
kết được các lực lương yêu nước, nhờ đó mà Đảng đã nắm được quyền lãnh đạo cách
mang. Cương lĩnh đâu tiên là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết
Mác - Lênin, đường lối của Quốc tế cộng sản và kinh nghiệm cách mạng thế giới vào hoàn
cảnh cụ thể nước ta, là sự thể hiện tập trung tư tưởng cơ bản của đồng chí Nguyễn ái Quốc
về cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa



nước thuộc địa nửa phong kiến.

Nhưng không phải những giá trị tư

tưởng, đường lối 16


BTL LỊCH SỬ ĐẢNG NHÓM 17

GVHD:TRẦN THỊ KIM LOAN

đúng đắn trên đã được mọi người nhận thức, quán triệt. Hội nghị Ban chấp hành trung
ương Đảng tháng 10 nǎm 1930 đã phê phán những "sai lầm" của Hội nghị hợp nhất và
quyết định "thủ tiêu Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ" của Đảng, thông
qua Luận cương chính trị theo tinh thần chỉ thị củaQuốc tế cộng sản, đổi tên đảng là "Đảng
cộng sản Đông Dương ". Sở dĩ có vấn đề chưa thống nhất giữa Cương lĩnh đầu tiên do Hội
nghị thành lập Đảng vạch ra với Luận cương chính trị và các vǎn kiện của Hội nghị trung
ương Đảng tháng l0-1930 là vì khơng chỉ do kết hợp hay tách rời yếu tố giai cấp với yếu tố
dân tộc, mà còn do xác định đúng hay chưa đúng vị trí của mỗi yếu tố đó trong điều kiện cụ
thể của nước ta. Đồng chí Nguyễn ái Quốc đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin,
đánh giá đúng hơn và đầy đủ hơn yếu tố dân tộc trong cách mạng Việt Nam. Tuy bị phê
phán, nhưng thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh cho sự đúng đắn, sáng tạo của
Cương lĩnh đầu tiên. Sau 30 nǎm đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch
Hồ Chí Minh; (tức đồng chí Nguyễn ái Quốc) đã viết: "Cương lĩnh ấy rất phù hợp với
nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta...
Vì vậy, Đảng ta đã đồn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp
mình. Cịn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cơ lập. Do đó,
quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân không ngừng củng cố và tǎng
cường". Đảng cộng sản Việt Nam ra đời phản ánh sự phát triển tất yếu khách quan của xã
hội Việt Nam. Điều kiện quốc tế cho sự ra đời của Đảng là thắng lợi của Cách mạng tháng
Mười Nga, sự thành lập Quốc tế cộng sản và nhiều đảng cộng sản ở khắp các lục địa. ở
nước ta, giai cấp công nhân đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập, phong trào yêu
nước đã chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đường lối cứu nước theo chủ nghĩa
Mác - Lênin, đã chiến thắng đường lối cải lương và quốc gia cách mạng. Phong trào giải

phóng dân tộc phát triển dưới sự chỉ đạo của tư tưởng, đường lối, phương pháp cách
mạng của đồng chí Nguyễn ái Quốc. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và xác lập vai trò lãnh
đạo cách mạng; đồng thời, với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái (9-2-1930), đánh
dấu sự chấm dứt ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản, xác lập ảnh hưởng của hệ tư tưởng vô
sản trong cách mạng Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời mở đâu thời đại mới trong
lịch sử nước ta, thời đại giai cấp công nhân và đảng tiên phong của nó đứng vị trí trung tâm,
kết hợp mọi phong trào yêu nước và cách mạng, quyết định nội dung, phương hướng phát
triển của xã hội Việt Nam. Đây là thời đại nhân

17


BTL LỊCH SỬ ĐẢNG NHÓM 17

GVHD:TRẦN THỊ KIM LOAN

dân Việt Nam không chỉ làm nên lịch sử vẻ vang của mình, mà cịn góp phần vào
sự nghiệp chung của các dân tộc bị áp bức là xoá bỏ hệ thống thuộc địa của chủ
nghĩa đế quốc, giành độc lập, dân chủ, hồ bình và tiến bộ xã hội. Nắm vững chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Nguyễn ái Quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách
mạng Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với phong trào cách mạng các nước, kết
hợp nhân tố dân tộc với nhân tố giai cấp, dân tộc với quốc tế, dân tộc với thời đại,
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tạo thành sức mạnh tổng hợp để chiến thắng
chủ nghĩa đế quốc xâm lược và xây dựng đất nước giàu mạnh. Quá trình chuẩn
bị và thành lập Đảng cộng sản cho ta những kết luận:
Thứ nhất, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sản phầm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Học
thuyết Mác - Lênin khẳng định rằng, Đảng công sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Quy luật chung này được đồng chí
Nguyễn ái Quốc vận dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam, nơi giai cấp cơng nhân

cịn ít về số lượng, nhưng người vơ sản bị áp bức, bóc lột thì đồng. Sự kết hợp chủ
nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nông và phong trào yêu nước dẫn đến sự ra
đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Muốn xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, phải coi trọng đầy đủ cả ba yếu tố trên.
Thứ hai, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự phát triền cao và
thống nhất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đảng ta là con đẻ của
phong trào cách mạng của công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động và trưởng
thành thông qua đấu tranh chống đế quốc, chống phong kiến. Muốn củng cố và phát
triển Đảng, đòi hỏi phải củng cố và phát triển phong trào cách mạng của quần chúng.
Đảng mật thiết liên hệ với quần chúng, hướng dẫn, lãnh đạo phong trào quần chúng,
thông qua thực tiễn phong trào cách mạng mà củng cố và phát triển Đảng.
Thứ ba, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả thống nhất của phong trào cách
mạng trong cả nước, là sự đồng tâm nhất trí của những chiến sĩ tiên phong. Những người
cộng sản Việt Nam dù ở trong Đông Dương cộng sản đảng, An Nam cộng sản đảng hay
Đông Dương cộng sản liên đồn, lúc bấy giờ tuy có những vấn đề bất đồng, nhưng đã biết
đề cao trách nhiệm của đội tiên phong, đặt lợi ích dân tộc, lợi ích

18


BTL LỊCH SỬ ĐẢNG NHÓM 17

GVHD:TRẦN THỊ KIM LOAN

giai cấp lên trên hết nên đã sớm thống nhất vào một đảng duy nhất để lãnh đạo
cách mạng Việt Nam.
Thứ tư, đường lối chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng được thể
hiện trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tãt là phù hợp với yêu cầu của toàn
Đảng và toàn dân. Cương lĩnh đâu tiên trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết các lực
lượng và lãnh đạo phong trào cách mạng từ khi Đảng được thành lập. Thực tiễn cách

mạng nước ta ngày càng khẳng định sự đúng đắn và sáng tạo của những tư tưởng
chiến lược và sách lược trên đây của đồng chí Nguyễn ái Quốc. Đại hội đại biểu toàn
quốc lân thứ VII của Đảng đã khẳng định: "lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động" của toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân ta trong giai đoạn hiện nay.

II. Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng từ 10-1930 đến tháng 5-1941. Đặc
điểm dân tộc Việt Nam
2.1. Luận cương chính trị
1.

Luận cương chính trị năm 1930 của Đảng Cộng sản Đơng Dương đã trình bày

một cách cụ thể, khá chi tiết, mang hơi thở của xứ Đông Dương thuộc địa. Nếu Nghị
quyết Đại hội VI Quốc tế Cộng sản (1928) nói tới việc tiến hành cách mạng dân chủ tư
sản, thì Luận cương chính trị năm 1930 lại khẳng định làm tư sản dân quyền, trong đó hai
mặt tranh đấu đánh đổ các di tích phong kiến để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để
và tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đơng Dương hồn tồn độc
lập liên lạc mật thiết với nhau. Đây là một vận dụng sáng tạo so với Đại hội VI Quốc tế
Cộng sản. Sự sáng tạo này bắt nguồn từ việc xác định tính chất xã hội. Nếu xã hội hồn
tồn phong kiến thì phải làm cách mạng dân chủ tư sản. Nếu xã hội tư sản thì phải làm
cách mạng vơ sản (ở đây cần phân biệt với một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh bàn về
cách mạng vô sản ở thuộc địa, mà chúng tơi khơng phân tích ở bày viết này). Luận cương
chính trị năm 1930 khẳng định “Xứ Đông Dương (Việt Nam, Cao Miên và Lào) là một xứ
thuộc địa để khai khẩn của đế quốc chủ nghĩa Pháp”, nên cuộc cách mạng Đông Dương
sẽ là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền (có tính chất thổ địa và phản đế) tiến lên con
đường cách mạng vô sản.

19



BTL LỊCH SỬ ĐẢNG NHÓM 17

GVHD:TRẦN THỊ KIM LOAN

Xuất phát từ việc khẳng định tính chất xã hội thuộc địa với hai đặc điểm lớn là
“không phát triển độc lập được” và “mâu thuẫn giai cấp ngày càng kịch liệt”, nên
Luận cương đã có sự phân tích mối liên hệ mật thiết giữa hai mặt đấu tranh chống
phong kiến và chống đế quốc, giữa hai mục tiêu “thổ địa cách mạng” và “Đơng
Dương hồn tồn độc lập”. Sự phân tích mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ này, tuy có
những chỗ khơng phù hợp với hồn cảnh một nước thuộc địa nhưng là cần thiết, vì
sự cấu kết giữa đế quốc với phong kiến là một đặc trưng của chế độ thuộc địa.
2.

Điều quan trọng nhất là nhiều nội dung cơ bản giữa Luận cương chính trị tháng

10/1930 và Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt tháng 2/1930 hoàn toàn thống nhất
với nhau. Các văn kiện này đều khẳng định, để đưa cách mạng đến thắng lợi, cần có một
đảng cộng sản lãnh đạo. Đảng là đội tiên phong của vơ sản giai cấp. Vơ sản có cầm
quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được. Vơ sản giai cấp và nơng dân là hai
động lực chính. Luận cương và Chính cương đều đề ra việc đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp và bọn phong kiến, lập chánh phủ công nông. Luận cương đã khẳng định mối quan
hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, khơng chỉ vai trị của Đảng, mà cả
giai cấp vơ sản và quần chúng cách mạng…

Nhìn chung, Luận cương chính trị đã khẳng định lại nhiều vấn đề cơ bản thuộc
về chiến lược cách mạng ở nước ta mà Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn
tắt đã nêu lên, trong đó sợi chỉ đỏ xuyên suốt là sau khi làm cách mạng tư sản
dân quyền (tức cách mạng dân tộc dân chủ) thắng lợi, tiếp tục thẳng lên cách
mạng XHCN bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa.

Thống nhất, khẳng định lại và nhấn mạnh những vấn đề thuộc về đại cục, về chiến lược
cách mạng là điều quan trọng nhất. Điều này, trong tổng kết 30 năm hoạt động của Đảng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng đã đề ra
đường lối cách mạng đúng đắn. Trong bản Cương lĩnh cách mạng tư sản dân quyền năm
1930, Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, thực hiện dân tộc
độc lập, người cày có ruộng. Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại
đa số nhân dân ta là nơng dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách
mạng to lớn chung quanh giai cấp mình” (1).

20


BTL LỊCH SỬ ĐẢNG NHÓM 17

3.

GVHD:TRẦN THỊ KIM LOAN

Cần phải khẳng định những điểm mới có giá trị trong Luận cương chính trị

tháng 10/1930 mà chưa có điều kiện nêu trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt.

Trước hết là luận điểm “bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con
đường XHCN”. Phân tích mối quan hệ giữa cách mạng tư sản dân quyền và xã hội
cách mạng (cách mạng XHCN), Luận cương đã khẳng định: “Tư sản dân quyền cách
mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”. “Thời kỳ dự bị” ta hiểu như là tiền
đề, điều kiện, nghĩa là phải đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, phong kiến và địa chủ
rồi tiến lên con đường cách mạng vô sản. Luận cương đã nhấn mạnh tới Đảng phải
tổ chức ra những đồn thể độc lập (cơng hội, nơng hội, v.v…).
Trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, luận điểm “bỏ qua thời kỳ tư bổn mà

tranh đấu thẳng lên con đường XHCN” là một đóng góp lớn về mặt lý luận, là một
luận điểm cách mạng và khoa học được trình bày sớm nhất trong các văn kiện của
Đảng. Tuy chưa có một sự phân tích sâu về mối quan hệ giữa cách mạng dân tộc
dân chủ và cách mạng XHCN, nhưng cách đặt vấn đề của Luận cương “Tư sản dân
quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng” chính là phản ánh một
phần rất quan trọng về mối quan hệ đó. Ở một xứ thuộc địa thì cách mạng tư sản
dân quyền là nhiệm vụ hàng đầu, mục tiêu trực tiếp, tiền đề để đi tới CNXH. Luận
cương đề cập tới “thời kỳ dự bị”, ta hiểu đây là tạo tiền đề cả về chính trị, KT-XH.
Tiền đề chính trị là quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản, giai cấp công nhân và
giai cấp nơng dân là hai lực lượng chính, là chính phủ cơng nơng và các tổ chức vơ
sản, là sự ủng hộ của giai cấp vô sản thế giới. Tiền đề kinh tế là công nghiệp trong
nước được phát triển; quyền sở hữu ruộng đất thuộc về chính phủ công nông, sung
công các sản nghiệp lớn của bọn tư bản ngoại quốc; ngày làm công tám giờ… Tiền
đề xã hội như nam nữ bình quyền, thừa nhận dân tộc tự quyết…
Những yếu tố “dự bị” mang tính chất tiền đề đó từ một nước vốn là thuộc địa, tuy
rất nhỏ, nhưng khơng vì thế mà chấp nhận trải qua giai đoạn phát triển tư bản. Ngược lại,
Luận cương khẳng định bỏ qua thời kỳ tư bản. Năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“khơng phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Văn kiện Đại hội IX

21


BTL LỊCH SỬ ĐẢNG NHÓM 17

GVHD:TRẦN THỊ KIM LOAN

của Đảng (tháng 4/2001) khẳng định, “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. Bản chất
của các khái niệm đó là một, tức là chúng ta không đi theo con đường “đầy máu và
nước mắt” của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa.
Thực tiễn và lý luận cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua tiếp tục được bổ sung,

phát triển đã và đang chứng minh tính đúng đắn của luận điểm này, tức là khẳng định trí
tuệ và bản lĩnh của Đảng, mà từ tháng 10/1930, Luận cương đã nêu lên.
Điều cần nhấn mạnh là Luận cương còn xác định thêm một cách đúng đắn cách
đấu tranh. Theo Luận cương, vấn đề này phải xét kỹ tình hình trong nước và thế giới, thái
độ các hạng người… từ đó mà định ra chiến lược. Phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa
khẩu hiệu “phần ít” và “khẩu hiệu chánh” của Đảng, tức là giải quyết tốt mối quan hệ giữa
nhiệm vụ trước mắt và nhiệm vụ lâu dài. Luận cương viết: “Không chú ý đến những nhu
yếu và sự tranh đấu hàng ngày của quần chúng là rất sai lầm. Mà nếu chỉ chú

ý đến những nhu yếu hàng ngày mà không chú ý đến những mục đích lớn của Đảng
cũng là rất sai lầm”. Từ đó, Luận cương phân tích các yếu tố về thời cơ cách mạng:
“Đến lúc sức cách mạng lên rất mạnh, giai cấp thống trị đã rung động, các giai cấp
đứng giữa đã muốn bỏ về phe cách mạng, quần chúng cơng nơng thì sơi nổi cách
mạng, quyết hy sanh phấn đấu, thì Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh
đổ Chính phủ của địch nhân và giành lấy chính quyền cho cơng nơng”.
Liên quan tới q trình giành chính quyền là vấn đề võ trang bạo động. Khi
bàn tới võ trang bạo động, Luận cương trình bày ngắn gọn, rõ ràng những vấn đề
cốt tủy trong lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về khởi nghĩa vũ trang. Thực chất
đây là con đường tiến lên giành chính quyền bằng bạo lực của quần chúng. Điều này
hồn toàn phù hợp trong hoàn cảnh nước thuộc địa. Luận cương hồn tồn đúng khi
phân tích mối quan hệ giữa tình thế cách mạng trực tiếp và quá trình chuẩn bị các
điều kiện để đi tới tình thế đó. Tức là khơng ngồi chờ tình thế trực tiếp cách mạng
mà vẫn phải thường xuyên kịch liệt đấu tranh – tất nhiên không phải manh động hay
võ trang bạo động sớm – mà để “suy động đại quần chúng ra thị oai, biểu tình bãi
cơng v.v… để dự bị họ về cuộc võ trang bạo động sau này”.

22


BTL LỊCH SỬ ĐẢNG NHÓM 17


GVHD:TRẦN THỊ KIM LOAN

Lịch sử cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến lúc giành được chính
quyền cách mạng năm 1945 diễn ra theo đúng quy luật nêu trên.
Tóm lại, Luận cương chính trị năm 1930 – nhìn từ hơm nay nhưng phải đặt
mình vào bối cảnh ra đời của Luận cương, thì chúng ta mới đánh giá được một cách
khách quan và đúng đắn giá trị, ý nghĩa to lớn cũng như những hạn chế lịch sử của
nó. Có hiểu đầy đủ tình hình quốc tế, đặc biệt là hoạt động của Quốc tế Cộng sản và
tình hình trong nước là sự cấu kết giữa thực dân Pháp và tay sai để đàn áp cách
mạng, thì mới thấy hết cái được và chưa được của Luận cương trong bước ngoặt
lịch sử giải phóng dân tộc khi Đảng vừa ra đời nắm ngọn cờ lãnh đạo cách mạng.

Tám mươi tư năm qua, chúng ta thấy thành tựu lớn nhất mà cách mạng
Việt Nam đã đạt được dưới ánh sáng của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt và Luận cương chính trị là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã
trở thành lẽ sống chi phối tình cảm, ý nghĩ và hành động của nhân dân ta. Đó
cũng là quan điểm có tính ngun tắc của Đảng ta trong cơng cuộc đổi mới.
2.2. Q trình khắc phục hạn chế và hồn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng
dân tộc từ tháng 3-1935 đến tháng 5-1941
2.2.1. Những năm 1935 – 1939
Cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 1930-1931 đã gây hậu quả nặng nề ở
các nước đế quốc chủ nghĩa, làm cho mâu thuẫn xã hội ở các nước đó vốn đã gay
gắt càng gay gắt thêm. Phong trào cách mạng của nhân dân ở các nước tư bản lên
cao. Bọn tư bản lũng đoạn ở một số nước ra sức thủ tiêu các quyền tự do dân chủ
tư sản và thi hành chính sách độc tài phát xít. Bọn phát xít ở các nước Đức, Ý, Nhật
đã tạo được một thực lực mạnh mẽ, thiết lập chế độ phát xít ở các nước đó và ráo
riết chuẩn bị chiến tranh thế giới. Ở một số nước khác như Mỹ, Anh, Pháp, Tây Ban
Nha, Hy Lạp v.v... chủ nghĩa phát xít đang hình thành và phát triển.
Chiến tranh phát xít có nguy cơ đe dọa loài người, phong trào đấu tranh chống chủ

nghĩa phát xít, chống chiến tranh dâng cao ở Pháp, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Trung Quốc và
trên toàn thế giới. Giai cấp công nhân tất cả các nước đều mong muốn thống nhất hàng
ngũ giai cấp mình, động viên tất cả các lực lượng dân chủ và hịa bình đoàn

23


BTL LỊCH SỬ ĐẢNG NHÓM 17

GVHD:TRẦN THỊ KIM LOAN

kết đấu tranh, đi đầu trong cuộc đấu tranh này là Liên Xô và các Đảng cộng sản
dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III).
Trước tình hình ấy, tháng 7 năm 1935 Đại hội lần thứ 7 của Quốc tế Cộng sản
được triệu tập tại Mátxcơva. Đồn đại biểu Đảng Cộng sản Đơng Dương do đồng chí Lê
Hồng Phong dẫn đầu. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc lúc này đang học tập và nghiên cứu tại
Trường Đại học phương Đông ở Mátxcơva cũng được mời dự đại hội.

Đại hội vạch rõ kẻ thù trước mắt của nhân dân thế giới lúc này không phải là
chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phát xít; nhiệm
vụ trước mắt của giai cấp công nhân chưa phải là đấu tranh đánh đổ tồn bộ chủ
nghĩa tư bản, thiết lập chun chính vô sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội mà là đấu
tranh chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, giành dân chủ và hịa bình, bảo
vệ Liên Xơ (thành trì của cách mạng thế giới)... Đại hội chủ trương Đảng Cộng sản
các nước phải thống nhất lực lượng giai cấp công nhân và lập mặt trận nhân dân
rộng rãi bao gồm các đảng phải yêu nước và dân chủ, các tầng lớp nhân dân để
thống nhất hành động chống kẻ thù chủ yếu trước mắt là chủ nghĩa phát xít.
Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội lần thứ 7 Quốc tế Cộng sản, trong lúc phong
trào chống phát xít lên cao, Mặt trận nhân dân Pháp mà nòng cốt là Đảng Cộng sản Pháp
đã giành được thắng lợi vang dội trong cuộc tổng tuyển cử tháng 5 năm 1936. Sau đó một

Chính phủ Mặt trận bình dân lên cầm quyền. Chính phủ này vẫn là đại diện cho quyền lợi
của giai cấp tư sản. Khi ra đời, cao trào nhân dân chống phát xít lên cao, buộc. Chính phủ
Pháp phải thi hành một số quyền lợi cho quần chúng lao động trong nước và

ở các thuộc địa. Cương lĩnh của Mặt trận bình dân nêu ra việc thành lập phái
đồn của Quốc hội Pháp điều tra tình hình các thuộc địa, đặc biệt là Bắc Phi và
Đơng Dương, tồn xá tù chính trị, ban hành các quyền tự do dân chủ, tự do
nghiệp đoàn, cải thiện điều kiện làm việc cho giới lao động....
Những sự kiện chính trị ở Pháp đã cổ vũ mạnh mẽ nhân dân Đông Dương. Căn cứ
vào đường lối của Quốc tế Cộng sản và căn cứ vào điều kiện cụ thể của cách mạng Đông
Dương, hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 7 năm 1936 (sau đó được hội
nghị Trung ương các năm 1937 và 1938 bổ sung, phát triển) vạch rõ: nhiệm vụ cách mạng
Đông Dương lúc này phải đứng trong Mặt trận dân chủ và hịa bình thế

24


×