Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Bài thu hoạch diễn án hồ sơ hành chính số 09ĐTC Trần Trung Cử Năm 2022

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.28 KB, 37 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Người khởi kiện: Ông Trần Trung Cử
Người bị kiện: UBND huyện Vĩnh Bảo, Thành phố Hải Phòng
Hồ sơ: ĐTC/09-HC

TP Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 12 năm 2022


A. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. Tên vụ án
Khiếu kiện quyết định hành chính về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất.
II. Kết quả nghiên cứu hồ sơ
2.1. Tóm tắt nội dung vụ án
Theo nội dung đơn khởi kiện, bản tự khai của người khởi kiện là ông Trần
Trung Cử như sau:
Ơng Trần Văn Đồi và bà Nguyễn Thị Hin có thửa đất thổ cư diện tích 851m2,
thửa số 11, tờ bản đồ số 41 tọa lạc tại Kênh Trang, xã Tân Hưng, huyện Vĩnh Bảo,
thành phố Hải Phịng.
Ơng Trần Văn Đoài mất năm 1974.
Ngày 19/01/1997, bà Nguyễn Thị Hin được UBND huyện Vĩnh Bảo cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số 07 / QSDĐ với diện tích 851 m2 tại thửa 11, tờ bản
đồ số 41 thuộc thôn Kênh Trang, Tân Hưng, Vĩnh Bảo, Hải Phòng.
Bà Nguyễn Thị Hin mất năm 1997. Sau khi bà Hin chết, bà Minh là người trực
tiếp trông coi mảnh đất của bà Hin.
Năm 2011, ơng Trần Trung Cử phát hiện diện tích đất ở của bố mẹ ông đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 123/QSDĐ ngày 14/3/2005 và mang


tên hộ ông Bùi Trọng Trang và bà Nguyễn Thị Thúy. Em gái ông là bà Trần Thị Minh
đã tự ý chuyển nhượng cho ông Trang và bà Thúy nhưng chưa được sự đồng ý của
các anh chị em còn lại.
Ngày 05/9/2017, ơng Cử đã có đơn gửi các cơ quan chức năng đề nghị xem xét
việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Trang và bà Thúy đồng thời
yêu cầu trả lại thửa đất trên cho gia đình ơng.
Ngày 04/7/2012, ơng Cử có đơn khiếu nại đến UBND huyện Vĩnh Bảo về việc
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Trang và bà Thúy là trái pháp luật.
Ngày 31/5/2013, Phòng tài nguyên và mơi trường huyện Vĩnh Bảo đã có văn
bản trả lời về việc giải quyết đơn khiếu nại về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cấp cho ông Trang và bà Thúy.
Ngày 01/10/2013 ông Cử nhận được văn bản trả lời số 762/UBND - TTr ngày
24/9/2013 của UBND huyện Vĩnh Bảo về việc trả lời đơn của ông Trần Trung Cử .


Ngày 05/6/2014, ông Cử tiếp tục làm đơn khiếu nại gửi tới UBND huyện Vĩnh
Bảo, để giải quyết đơn khiếu nại.
Ngày 02/12/2015, qua đường bưu điện ông Cử nhận được quyết định số
2895/QĐ - UBND ngày 18/11/2015 của UBND huyện Vĩnh Bảo với nội dung: Không
chấp nhận đề nghị của ông Trần Trung Cử về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số 123/QSDĐ diện tích 851m2 thửa số 11, tờ bản đồ số 41 đã cấp cho ông
Bùi Trọng Trang và bà Lê Thị Thúy ở Kênh Trang, Tân Hưng, Vĩnh Bảo, Hải Phịng.
Khơng đồng ý với quyết định trên, ơng Cử đề nghị Tịa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo
hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 123/QSDĐ ngày 04/3/2005 của UBND
huyện Vĩnh Bảo, Hải Phịng đã cấp cho hộ ơng Bùi Trọng Trang và bà Lê Thị Thúy ở
Kênh Trang, Tân Hưng, Vĩnh Bảo, Hải Phòng.
Người bị kiện - UBND huyện Vĩnh Bảo trình bày khơng đồng ý với u cầu
huyển Giấy chứng nhận của ông Cử và khẳng định việc Giấy chứng nhận cho hộ ông
Trang và bà Thúy là đúng như sau:
Theo hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất đang lưu trữ, năm 1997, bà

Nguyễn Thị Hin mất, không để lại di chúc. Sau khi bà Hin chết, bà Trần Thị Minh con gái bà Hin là người trực tiếp trông coi mảnh đất này.
Ngày 13/9/1999, bà Trần Thị Minh viết giấy biên nhận 5.500.000 đồng (năm
triệu năm trăm ngàn đồng) của ông Bùi Trọng Trang, trú tại: Bàm 1, Kênh Trang, Tân
Hưng, Vĩnh Bảo với nội dung: “Tôi chuyển nhượng đất thổ cư cũ của gia đình tơi ở
Bàm l".
Ngày 09/7/2002 , bà Minh viết giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở cho
ông Trang và đề nghị UBND xã Tân Hưng, Phịng Nơng nghiệp và phát triển nơng
thơn huyện Vĩnh Bảo làm thủ tục chuyển nhượng. Bà Minh và ông Trang đã ký vào
Giấy chuyển nhượng trên.
Ngày 09/7/2002, bà Trần Thị Tú có viết Giấy chuyển nhượng thừa kế cho em
gái – bà Trần Thị Minh cho quyền sử dụng đất thổ cư của bà Nguyễn Thị Hin – mẹ đẻ
bà. Chủ tịch UBND xã Tân Hưng đã xác nhận bà Trần Thị Tú, bà Trần Thị Minh đều
là con đẻ của bà Nguyễn Thị Hin vào ngày 2/2/2004. Ngày 24/01/2005, Ban địa chính
xã Tân Hưng xác nhận “Bà Nguyễn Thị Hin có khu đất thổ cư số 11, bản đồ số 41 ,
đã đăng ký vào sổ địa chính thừa kế cho con gái là bà Trần Thị Minh”.
Ngày 26/01/2005, ơng Bùi Trọng Trang có đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất.
Căn cứ vào đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất của ông Trang và các tài liệu, UBND
xã Tân Hưng đã lập hồ sơ và làm thủ tục cấp Giấy CNQSDĐ trình UBND huyện


Vĩnh Bảo phê duyệt cấp GCNQSDĐ cho ông Trang. Hồ sơ cấp Giấy chứng nhận của
ông Trang đảm bảo quy định của Luật đất đai năm 2003.
Tại thời điểm bà Minh chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà Hin cho ơng
Trang và bà Thúy thì UBND xã Tân Hưng khơng biết bà Hìn có 4 người con là bà
Minh, bà Tú, ông Cử và một người con riêng của bà Hin là bà Vân vì thực tế ơng Cử
và bà Vân đã khơng cịn sinh sống tại địa phương xã Tân Hưng từ nhỏ. Năm 1999, bà
Minh là người quản lý sử dụng diện tích đất của bà Hin, bà Minh đã chủ động chuyển
nhượng đất và đã nhận đầy đủ tiền của ơng Trang. Vì vậy, tại thời điểm cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Trang, bà Thúy, UBND huyện Vĩnh Bảo đã
thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật.

Nay ơng Cử có đơn đề nghị Tịa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
mang tên ông Bùi Trọng Trang và bà Lê Thị Thúy, đề nghị Tòa án giải quyết theo
quy định pháp luật.
Ngày 23/02/2016, Ông Trần Trung cử có đơn khởi kiện u cầu Tịa án nhân
dân huyện Vĩnh Bảo hủy Giấy chứng nhận đã cấp cho ông Trang và Bà Thúy.
Ngày 25/02/2016, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo ra thông báo thụ lý vụ án
số 01/2016/TB-TLVA.
Ngày 24/6/2016, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo ra quyết định gia hạn thời
hạn chuẩn bị xét xử số 01/2016/QĐST-GHXX.
Ngày 01/7/2016, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo ra thông báo về phiên họp
kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và đối thoại số 01/TB-TA.
Ngày 12/8/2016, Tịa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo ra thơng báo về phiên họp
kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và đối thoại số 02/TB-TA.
2.2. Quan hệ pháp luật tranh chấp
Ông Trần Trung Cử khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, Hải
phòng Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 123/QSDĐ do hộ ông Bùi Trọng
Trang và bà Lê Thị Thúy đứng tên sử dụng. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo
quy định tại Điều 3 Luật đất đai 2013 là "Chứng thu pháp lý" hay còn gọi là quyết
định hành chính nên theo quy định tại Khoản 1 Điều 30 Luật tố tụng hành chính 2015
đây là quan hệ tranh chấp Khiếu kiện Quyết định hành chính thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án nhân dân.
2.3. Người tham gia tố tụng
Người khởi kiện: Ông Trần Trung Cử


Địa chỉ: 76/4c Bùi Đình Túy, phường 24, quận Bình Thạnh, TP.HCM
Người bị kiện: UBND huyện Vĩnh Bảo, Thành phố Hải Phòng
Địa chỉ: Đường 20/8, Thị trấn Vĩnh Bảo, huyện Vĩnh Bảo, Thành phố Hải
Phịng
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Trần Thị Minh;
- Bà Nguyễn Thị Vân;
- Bà Trần Thị Tú;
- Ông Bùi Trong Trang;
- Bà Lê Thị Thúy;
- Ông Phạm Văn Quyết;
- Ông Phạm Quang Hồng;
- Bà Bùi Thị Quýt.
Người làm chứng:
- Ông Phạm Văn Thúy;
- Bà Dương Thị Biểu;
- Ông Phạm Hồng Vân;
- Bà Bùi Thị Ngát.
2.4. Những vấn đề người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết
Đề nghị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số 123/QSDĐ do UBND huyện Vĩnh Bảo cấp ngày 04/3/2005 của ông
Bùi Trọng Trang và Lê Thị Thúy do việc cấp này là sai và ảnh hưởng đến quyền lợi
ích của ông Cử và các đồng thừa kế của bà Hin.
2.5. Người khởi kiện nộp các tài liệu, chứng cứ sau:
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà Hin;
- Hồ sơ nhân thân của ông Trang và bà Tú, bà Minh, bà Vân;
- Các tài liệu chứng cứ liên quan đến việc ông Cử khiếu nại và giải quyết khiều
nại;
- Các chứng cứ chứng minh thời điểm bà Hin mất;


- Hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Trang bà Thúy.
2.6. Ý kiến của người bị kiện
Không không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Cử.
2.7. Thẩm quyền của Tòa án

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 30 Luật tố tụng hành chính 2014 khiếu kiện
yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án. Theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị quyết về việc thi hành Luật
TTHC 2015 quy định “Đối với những khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành
chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện đã được
Tòa án nhân dân cấp huyện thụ lý giải quyết trước ngày 01 tháng 7 năm 2016 thì Tịa
án đã thụ lý tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không chuyển cho Tòa án nhân
dân cấp tỉnh giải quyết”. Trong vụ án này, ông Trần Trung Cử khởi kiện yêu cầu Tòa
án nhân dân huyện Vĩnh Bảo hủy Giấy chứng nhận đã cấp cho ông Trang và Bà Thúy
vào ngày 23/02/2016, ngày 25/02/2016, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo ra thơng
báo thụ lý vụ án số 01/2016/TB-TLVA. Do đó, Tịa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo thụ
lý giải quyết là đúng thẩm quyền.
2.8. Thời hiệu khởi kiện
Theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính 2015 thì
thời hiệu khởi kiện là 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành
chính đó hoặc biết được hành chính đó.
Ngồi ra, Chánh án TANDTC có Giải đáp số 02/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2016
giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính, tố tụng dân sự; trong đó, có giải thích:
“Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là quyết định hành chính. Như vậy, khi cơ quan
có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho một chủ thể nào đó, mà
đương sự trong vụ án dân sự cho rằng việc cấp giấy đó là khơng đúng quy định, ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích của họ thì họ có quyền u cầu Tòa án hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đó trong cùng một vụ án dân sự theo Điều 34 BLTTDS năm
2015”.
Ngày 18/11/2015, UBND huyện Vĩnh Bảo đã ban hành Quyết định số
2895/QĐ-UBND với nội dung không chấp nhận u cầu của ơng Cử, ngày
23/02/2016, Ơng Trần Trung cử có đơn khởi kiện u cầu Tịa án nhân dân huyện
Vĩnh Bảo hủy Giấy chứng nhận đã cấp cho ông Trang và Bà Thúy. Tòa án thụ lý giải
quyết là trong thời hiệu khởi kiện theo quy định của pháp luật.



III. DỰ KIẾN KẾ HOẠCH HỎI:
1. Hỏi người khởi kiện:
Hỏi: Ông cho biết mối quan hệ giữa ông và cụ Nguyễn Thị Hin, bà Trần Thị
Minh, bà Trần Thị Tú?
Hỏi: Ngồi ơng bà ra, cụ Nguyễn Thị Hin cịn người con nào khác không?
Hỏi: Cụ Nguyễn Thị Hin chết năm nào?
Hỏi: Khi cụ Hin mất, có để lại di chúc khơng?
Hỏi: Khi cịn sống, cụ Hin có tạo lập được tài sản gì khơng?
Hỏi: Khi cịn sống, cụ Hin có tặng cho thửa đất cho bà Trần Thị Minh khơng?
Có giấy tờ chứng minh việc tặng cho không?
Hỏi: Sau khi mẹ ơng mất, các anh chị em ơng có lập thủ tục kê khai di sản thừa
kế khơng?
Hỏi: Ơng có biết việc bà Minh viết giấy biên nhận và giấy chuyển nhượng QSD
đất cho ơng Trang khơng?
Hỏi: Ơng biết việc ông Trang được cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất
mảnh mất của mẹ ông từ khi nào?
Hỏi: Sau khi biết được ơng đã làm gì?
Hỏi: Đơn khiếu nại của ông đã được trả lời như thế nào?
Hỏi: Lý do vì sao UBND khơng chấp nhận u cầu khiếu nại của ông?
Hỏi: Tại sao ông cho rằng Giấy chứng nhận cấp cho ơng Trang là sai?
Hỏi: Tại phiên tịa ngày hơm nay, ơng có u cầu gì?
2. Hỏi người bị kiện:
Hỏi: Ông cho biết nguồn gốc thửa đất số 11, tờ bản đồ 41, diện tích 815m2? Ai
là người đứng tên GCNQSD đất?
Hỏi: Ông cho biết cụ Hin mất năm nào??
Hỏi: Cụ Hin có bao nhiêu người con?
Hỏi: UBND huyện Vĩnh Bảo căn cứ vào đâu để cấp Giấy chứng nhận Quyền sử
dụng đât cho ông Trang?
Hỏi: Các hồ sơ kèm theo đó là gì?



Hỏi: Hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất của ông Trang nộp ngày
nào?
Hỏi: Việc cấp Giấy chứng nhận QSD đất có tiến hành đo đạc về hiện trạng sử
dụng đất khơng? Có xác định vị trí thửa đất khơng? Có ký giáp ranh đất khơng?
Hỏi: Khi thẩm tra về đất, có xem xét nguồn gốc đất không?
Hỏi: Tại thời điểm ông Trang nộp hồ sơ, Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất
mang tên ai?
Hỏi: Sau khi UBND huyện Vĩnh Bảo nhận hồ sơ đề nghị cấp GCN, UBND có
tiến hành thẩm tra hồ sơ khơng?
Hỏi: Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Thị Hin, nhưng trên
hợp đồng chuyển nhượng Quyền sử dụng đất lại là bà Trần Thị Minh, UBND có xác
minh vấn đề này không?
Hỏi: Hồ sơ liên quan đến việc thừa kế, UBND xã Tân Hưng có trình cho
UBND huyện Vĩnh Bảo khơng?
Hỏi: UBND huyện Vĩnh Bảo có u cầu UBND xã cung cấp không?
Hỏi: UBND huyện Vĩnh Bảo xác nhận vào Hợp đồng chuyển nhượng giữa bà
Minh và ông Trang vào ngày nào?
Hỏi: Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất của ông Trang và bà Thúy được cấp
vào ngày nào?
Hỏi: Tại sao ngày 15/04/2005, UBND huyện Vĩnh Bảo mới xác nhận vào Hợp
đồng chuyển nhượng nhưng giấy chứng nhận lại cấp ngày 04/03/2005?
Hỏi: UBND huyện Vĩnh Hảo đã căn cứ văn bản pháp luật để cấp Giấy chứng
nhận cho ông Trang
Hỏi: Tại phiên tịa ngày hơm nay, ơng ý kiến như thế nào về yêu cầu khởi kiện
của người khởi kiện?
3. Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:



IV. Dự thảo bài phát biểu
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHỊNG
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN HUYỆN VĨNH BẢO

CỢNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Vĩnh Bảo, ngày ....... tháng ........ năm 2022

Số: .......................

PHÁT BIỂU
Của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm
Căn cứ khoản 4 Điều 27 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014;
Căn cứ các Điều 43, 190 và 249 Luật tố tụng hành chính năm 2015.
Hơm nay, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo mở phiên tòa sơ thẩm giải quyết vụ
án hành chính yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giữa:
Người khởi kiện: Ông Trần Trung Cử, sinh năm: 1948
Địa chỉ: 76/4c Bùi Đình Túy, phường 24, quận Bình Thạnh, TP.HCM
Người bị kiện: UBND huyện Vĩnh Bảo, Thành phố Hải Phòng
Địa chỉ: Đường 20/8, Thị trấn Vĩnh Bảo, huyện Vĩnh Bảo, Thành phố Hải
Phịng
Người đại diện của UBND huyện Vĩnh Bảo:
Ơng Trịnh Khắc Tiến – Phó Chủ tịch UBND huyện Vĩnh Bảo
Giấy ủy quyề số 1056/UQ-UBND ngày 15/8/2016
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Nguyễn Thị Vân, sinh năm 1938
Địa chỉ: Số nhà 54, Đường 208, Thôn Cái Tắt, xã An Đồng, huyện An Dương,

TP. Hải Dương
- Bà Trần Thị Minh, sinh năm 1957


Địa chỉ: Thôn Kênh Trang, Tân Hưng, Vĩnh Bảo, Hải Phòng
- Bà Trần Thị Tú, sinh năm 1949
Địa chỉ: KDC Tiền Hải, Thị trấn Vĩnh Bảo, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phịng
- Ơng Bùi Trọng Trang, sinh năm 1964
Địa chỉ: Thơn Kênh Trang, Tân Hưng, Vĩnh Bảo, Hải Phòng
- Bà Lê Thị Thúy, sinh năm 1965
Địa chỉ: Thôn Kênh Trang, Tân Hưng, Vĩnh Bảo, Hải Phịng
- Ơng Phạm Văn Quyết, sinh năm 1976
Địa chỉ: Thôn Kênh Trang, Tân Hưng, Vĩnh Bảo, Hải Phịng
- Ơng Phạm Quang Hồng, sinh năm 1960
Địa chỉ: Thơn Kênh Trang, Tân Hưng, Vĩnh Bảo, Hải Phịng
- Bà Bùi Thị Quýt, sinh năm 1976
Địa chỉ: Thôn Kênh Trang, Tân Hưng, Vĩnh Bảo, Hải Phịng
Người làm chứng:
- Ơng Phạm Văn Thúy
- Bà Dương Thị Biểu
- Ông Phạm Hồng Vân
- Bà Bùi Thị Ngát.
Qua kết quả kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án nhân dân trong quá trình
giải quyết vụ án, tham gia phiên tịa sơ thẩm hôm nay. Tôi kiểm sát viên
……………………..Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Bảo phát biểu ý kiến về việc
tuân theo pháp luật tố tụng hành chính trong q trình giải quyết vụ án như sau:
I. Việc tuân theo pháp luật tố tụng
1. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Tòa án:
a) Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán:
Thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến thời điểm này

thấy rằng:
- Thời hạn sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện kéo dài là vi phạm thời hạn theo quy
định Điều 122 Luật tố tụng hành chính 2015;


- Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo thụ lý giải quyết vụ án không đúng thời hạn
quy định tại Điều 123 BLTTHC2015;
Đề nghị Tòa án khắc phục để yêu cầu sửa đổi, bổ sung và thụ lý các vụ án khác
đúng quy định.
- Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định theo Điều 38 Luật tố tụng hành chính,
như thông báo cho đương sự biết về việc thụ lý vụ án hành chính, thơng báo nộp tiền tạm
ứng án phí theo quy định tại Điều 125, Điều 126 Luật Tố tụng Hành chính;
- Yêu cầu đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ, thông báo và mở phiên họp kiểm
tra việc giao nộp chứng cứ và đối thoại theo Điều 133, 136, 138 Luật Tố tụng hành
chính;
- Tổ chức đối thoại giữa các đương sự được quy định tại Điều 20;
- Ngày 24/6/2016 Tòa án nhân dân ra Quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử
theo quy định tại khoản 3 Điều 130, ngày 24/8/2016, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo
ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử là đúng thời hạn quy định tại Điều 130 và gửi quyết
định cho các đương sự và Viện kiểm sát đúng quy định tại Điều 146;
- Hồ sơ vụ án chuyển cho Viện kiểm sát nghiên cứu đúng quy định tại Điều 147
Luật tố tụng hành chính.
b) Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử tại phiên tịa:
Tại phiên tịa hơm nay, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định tại Điều 39
Luật tố tụng hành chính như nghiên cứu hồ sơ, tham gia phiên tòa đúng thành phần quy
định, phần tham gia hỏi tại phiên tòa được thực hiện đúng quy định tại điều 177 Luật tố
tụng hành chính, phần ý kiến tại phiên tòa của Hội thẩm nhân dân đảm bảo theo quy định
của pháp luật.
c) Việc tuân theo pháp luật của Thư ký tại phiên tịa:
Tại phiên tịa hơm nay Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định tại Điều 41

Luật tố tụng Hành chính như: Phổ biến nội quy phiên tòa theo Điều 153 Luật tố tụng
hành chính, kiểm tra và báo cáo với Hội đồng xét xử danh sách những người được triệu
tập đến phiên tòa cũng như sự có mặt, vắng mặt của các đương sự.
Nhìn chung phần thủ tục tại phiên tịa được tiến hành đầy đủ đúng theo quy định
về trình tự của Luật tố tụng Hành chính về thủ tục phiên tịa sơ thẩm như:
- Chuẩn bị khai mạc phiên tòa theo Điều 167 Luật tố tụng hành chính;


- Khai mạc phiên tòa theo Điều 169 Luật tố tụng hành chính, hỏi các đương sự về
thực hiện sửa, đổi bổ sung rút đơn khiếu kiện theo Điều 172 Luật tố tụng hành chính;
- Việc hỏi các đương sự được thực hiện đúng thứ tự và nguyên tắc hỏi theo quy
định tại Điều 177;
- Kết thúc việc hỏi Thẩm phán đã cho đương sự tiến hành tranh luận, trình tự phát
biểu khi tranh luận cũng được thực hiện đầy đủ theo đúng quy định tại Điều 188 và Điều
189 Luật tố tụng hành chính.
Qua cơng tác kiểm sát từ khi thụ lý vụ án đến khi được Hồi đồng xét xử không
phát hiện vi phạm.
2. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng:
a) Việc tuân theo pháp luật của người khởi kiện
Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tịa hơm nay ông Trần Trung Cử đã thực
hiện đúng quy định tại điều 55, 56 Luật tố tụng hành chính như cung cấp tài liệu, chứng
cứ có liên quan đến vụ kiện theo Điều 9, Điều 78 Luật tố tụng hành chính; Tham gia
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, tham gia đối thoại và
chấp hành tốt nội quy phiên tòa theo Điều 153, Điều 157 Luật tố tụng hành chính.
b) Việc tuân theo pháp luật của người bị kiện
UBND huyện Vĩnh Bảo đã ủy quyền cho cơng chức thuộc cơ quan của mình là
ơng Trịnh Khắc Tiến, Phó Chủ tịch UBND huyện Vĩnh Bảo tham gia tố tụng, ủy quyền
này đúng quy định tại khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính. Ơng Tiến cung cấp các
tài liệu chứng cứ, chứng minh có liên quan đến việc giải quyết vụ án theo Điều 9 Luật tố
tụng hành chính, Ơng Tiến cũng thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người bị kiện

theo đúng quy định tại Điều 55, Điều 57 Luật tố tụng hành chính, giao nộp tài liệu chứng
cứ theo Điều 83 Luật tố tụng hành chính; tham gia đối thoại, tham gia phiên họp kiểm tra
việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; có mặt theo giấy triệu tập của và chấp nhận
tốt nội quy tại phiên tòa theo Điều 153, Điều 157 Luật tố tụng hành chính.
Đối chiếu với các quy định tại Điều 55; Điều 58; Điều 128; Điều 153; Điều 157
Luật tố tụng hành chính.
Qua cơng tác kiểm sát từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử không
phát hiện vi phạm.
II. Về việc giải quyết vụ án
1. Về thẩm quyền thụ lý vụ án của Tòa án nhân dân:


Theo quy định tại Khoản 1 Điều 30 Luật tố tụng hành chính 2014 khiếu kiện
yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án. Theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị quyết về việc thi hành Luật
TTHC 2015 quy định “Đối với những khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành
chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện đã được
Tòa án nhân dân cấp huyện thụ lý giải quyết trước ngày 01 tháng 7 năm 2016 thì Tịa
án đã thụ lý tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà khơng chuyển cho Tịa án nhân
dân cấp tỉnh giải quyết”. Trong vụ án này, ông Trần Trung Cử khởi kiện yêu cầu Tòa
án nhân dân huyện Vĩnh Bảo hủy Giấy chứng nhận đã cấp cho ông Trang và Bà Thúy
vào ngày 23/02/2016, ngày 25/02/2016, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo ra thông
báo thụ lý vụ án số 01/2016/TB-TLVA. Do đó, Tịa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo thụ
lý giải quyết là đúng thẩm quyền.
2. Về thời hiệu khởi kiện:
Theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính 2015 thì
thời hiệu khởi kiện là 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành
chính đó hoặc biết được hành chính đó.
Ngồi ra, Chánh án TANDTC có Giải đáp số 02/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2016
giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính, tố tụng dân sự; trong đó, có giải thích:

“Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là quyết định hành chính. Như vậy, khi cơ quan
có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho một chủ thể nào đó, mà
đương sự trong vụ án dân sự cho rằng việc cấp giấy đó là khơng đúng quy định, ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích của họ thì họ có quyền u cầu Tịa án hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đó trong cùng một vụ án dân sự theo Điều 34 BLTTDS năm
2015”.
Ngày 18/11/2015, UBND huyện Vĩnh Bảo đã ban hành Quyết định số
2895/QĐ-UBND với nội dung không chấp nhận yêu cầu của ông Cử, ngày
23/02/2016, Ơng Trần Trung cử có đơn khởi kiện u cầu Tòa án nhân dân huyện
Vĩnh Bảo hủy Giấy chứng nhận đã cấp cho ơng Trang và Bà Thúy. Tịa án thụ lý giải
quyết là trong thời hiệu khởi kiện theo quy định của pháp luật.
3. Về yêu cầu khởi kiện của ơng Trần Trung Cử
a) Về nguồn gốc đất
Ơng Trần Văn Đồi và bà Nguyễn Thị Hin có thửa đất thổ cư diện tích 851m2,
thửa số 11, tờ bản đồ số 41 tọa lạc tại Kênh Trang, xã Tân Hưng, huyện Vĩnh Bảo,
thành phố Hải Phòng.


Ông Trần Văn Đoài mất năm 1974.
Theo Sổ mục kê, tờ bản đồ giải thửa xã Tân Hưng đo vẽ năm 1995, diện tích
đất thể hiện tại tờ bản đồ số 41, thửa 11, diện tích 851m2, mang tên chủ sử dụng là bà
Nguyễn Thị Hin.
Ngày 19/01/1997, bà Nguyễn Thị Hin được UBND huyện Vĩnh Bảo cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số 07/QSDĐ với diện tích 851 m2 tại thửa 11, tờ bản
đồ số 41 thuộc thôn Kênh Trang, Tân Hưng, Vĩnh Bảo, Hải Phòng.
Theo quy định Luật đất đai 1993, cá nhân được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất là người sử dụng hợp pháp theo quy hoạch kế hoạch sử dụng đất của nhà
nước.
Từ đó có cơ sở khẳng định nguồn gốc đất là của bà Nguyễn Thị Hin.
Bà Nguyễn Thị Hin mất năm 1997. Sau khi bà Hin chết, bà Minh là người trực

tiếp trơng coi mảnh đất của bà Hin.
b) Về q trình chuyển nhượng thửa đất số 11, tờ bản đồ 41 thuộc thơn Kênh
Trang, Tân Hưng, Vĩnh Bảo, Hải Phịng
Các đương sự có lời khai thể hiện trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tịa
ngày hơm nay, bà Nguyễn Thị Hin mất năm 1997, nhận thấy có cơ sở chấp nhận để
giải quyết vụ án. Theo quy định tại Điều 637 Bộ luật dân sự 1995 "Di sản bao gồm
tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với
người khác; Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và được để lại thừa kế
theo quy định tại Phần thứ năm của Bộ luật này". Như vậy, kể từ khi bà Hin mất thì
thửa đất 851 m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 07/QSDĐ tại thửa 11, tờ
bản đồ số 41 thuộc thôn Kênh Trang, Tân Hưng, Vĩnh Bảo, Hải Phòng trở thành di
sản thửa kế của bà Hin.
Bà Hin mất không để lại di chúc nên áp dụng quy định tại Điều 678 Bộ luật dân
sự 1995, di sản thừa kế được xác định phân chia theo pháp luật.
Căn cứ khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự 1995 "Hàng thừa kế thứ nhất gồm:
vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết" xác
định hàng thừa kế thứ nhất của bà Hin gồm: ông Trần Trung Cử, bà Nguyễn Thị Vân,
bà Trần Thị Tú và bà Trần Thị Minh. Như vậy, kể từ thời điểm mở thừa kế năm 1997
thì quyền đối với di sản của bà Hin thuộc về bốn người đồng thừa kế nói trên.
Trên Giấy chuyển nhượng đất ở ngày 9/7/2002 và Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất số 456 ngày 26/01/2005 chỉ có một mình bà Trần Thị Minh ký với


ông Trần Trọng Trang và bà Lê Thị Thúy là không đúng quy định về thừa kế theo Bộ
luật dân sự 1995, việc này làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của các đồng thừa kế cịn lại là ơng Cử, bà Vân và bà Tú.
c) Về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử đất cho ông Trần Trọng Trang và bà
Lê Thị Thúy
Thời điểm ông Trang và bà Thúy thực hiện việc nhận chuyển nhượng và xin
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là ngày 07/3/2005, thời điểm này Luật đất

đai 2003 đang phát sinh hiệu lực nên việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
phải tuân theo trình tự thủ tục được quy định trong Luật đất đai 2003 và các văn bản
hướng dẫn thi hành.
Theo Điều 127 Luật đất đai 2003 và hướng dẫn bởi các điều 117 và Điều 148
Nghị định 181/2004/NĐ-CP quy định hồ sơ chuyển nhượng gồm có: Hợp đồng
chuyển nhượng và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thể hiện tên bà Hin, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng thể
hiện bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất là bà Hin (chết năm 1997) và thể hiện tên
bà Minh (thừa kế), theo Điều 146 Nghị định 181/2004/NĐ-CP "Hợp đồng chuyển
nhượng, thuê, thuê lại quyền sử dụng đất; hợp đồng hoặc văn bản tặng cho quyền sử
dụng đất; hợp đồng thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất thuộc quyền
sử dụng chung của nhóm người sử dụng đất phải được tất cả các thành viên trong
nhóm thống nhất và ký tên hoặc có văn bản uỷ quyền theo quy định của pháp luật về
dân sự”. Tuy nhiên khi UBND xã Tân Hưng tiếp nhận hồ sơ đã không làm rõ và
hướng dẫn bà Minh thực hiện thủ tục kê khai di sản thừa kế theo quy định của Bộ
Luật dân sự 1995 và Luật đất đai 2003 mà UBND xã Tân lập tiến hành cập nhật thừa
kế vào sổ địa chính cho bà Minh là khơng có cơ sở và trái quy định của pháp luật.
Điều 129 Luật đất đai 2003 về quy trình kê khai thừa kế đối đất đai như sau:
"Việc nộp hồ sơ thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất được quy định như sau: "a) Hồ
sơ thừa kế quyền sử dụng đất nộp tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất; b) Hồ sơ
thừa kế quyền sử dụng đất gồm di chúc hoặc biên bản phân chia thừa kế hoặc bản án,
quyết định giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất của Tồ án nhân dân
đã có hiệu lực pháp luật và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; trường hợp người
được nhận thừa kế là người duy nhất thì hồ sơ thừa kế gồm đơn đề nghị và giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Hồ sơ tặng cho quyền sử dụng đất gồm văn bản cam
kết tặng cho hoặc hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Văn bản cam kết tặng cho hoặc hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất của
hộ gia đình, cá nhân phải có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn



nơi có đất hoặc chứng nhận của cơng chứng nhà nước" và theo quy định chi tiết tại
Điều 151 Nghị định 181/2004/NĐ-CP. Như vậy, việc không kê khai thừa kế mà bà
Minh 1 mình chuyển nhượng cho ơng Trang, bà Thúy là trái quy định của pháp luật.
Theo Luật đất đai 2003 và hướng dẫn bởi Nghị định 181/2004/NĐ-CP quy
định khi tiến hành cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải tiến hành thẩm định
hiện trạng và ký giáp ranh với các hộ dân tư cận. Tuy nhiên, trong Biên bản xác định
ranh giới, mốc giới và hiện trạng thửa đất ngày 20/01/2005 chỉ có 03 hộ dân liền kề
ký giáp ranh cịn hộ bà Biểu liền kề khơng ký là thiếu sót và trái với quy định về thủ
tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
4. Yêu cầu của người bị kiện và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan:
Người bị kiện và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại phiên Tòa yêu cầu
giữ nguyên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do đã cấp theo đúng quy định của
pháp luật là khơng có cơ sở chấp nhận.
Từ những phân tích trên, Căn cứ vào điểm b Khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng
hành chính 2015 đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
ông Trần Trung Cử, tuyên:
Hủy Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số 123/QSDĐ do UBND huyện Vĩnh
Bảo cấp cho hộ ông Trần Trọng Trang và bà Lê Thị Thúy ngày 07/3/2005
III. Kiến nghị khắc phục vi phạm: Khơng
Viện kiểm sát đề nghị Tịa án có phương hướng khắc phục để giải quyết các vụ
án sắp tới đúng theo quy định của pháp luật.
Trên đây là ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật tố tụng của
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng và quan điểm
của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.

Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo;
- Lãnh đạo;
- Lưu; VT; HSKS


KIỂM SÁT VIÊN


V. KỊCH BẢN ĐIỀU HÀNH PHIÊN TÒA DÂN SỰ SƠ THẨM
Vào hồi

giờ 00 phút ngày

tháng

năm 2022 .

Tại trụ sở Tòa án nhân dân thành huyện Vĩnh Bảo
Mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hành chính thụ lý số
/20 /TLST- DS
ngày 11/x/20 ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số xx/20
/QĐ – XX ngày
…./…./2020 về việc: “khiếu kiện về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Vụ án được xét xử công khai.
* Những người tham gia tố tụng:
- Người khởi kiện: Ông Trần Trung Cử, sinh năm: 1948.
Địa chỉ: 76/4c Bùi Đình Túy, Phường 24, Quận Bình Thạnh, Tp HCM.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Vũ Văn Vinh
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện: Luật sư
………………….. của Công ty Luật …………….., thuộc Đồn luật sư Thành phố Hồ
Chí Minh
- Người bị kiện: Ủy ban Nhân dân Huyện Vĩnh Bảo.
Địa chỉ: Đường 20/8 Thị trấn Vĩnh Bảo, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ơng Trịnh Khắc Tiến – Phó Chủ tịch

UBND Huyện Vĩnh Bảo
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện: Luật sư
…………………………của Cơng ty Luật…………………..thuộc Đồn Luật sư Thành
phố Hồ Chí Minh.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Trần Thị Minh, sinh năm 1957
+ Bà Trần Thị Tú
+ Ông Bùi Trọng Trang, sinh năm 1964 và vợ là bà Lê Thị Thúy, sinh năm 1965
+ Ông Phạm Văn Quyết, sinh năm 1976
+ Ông Phạm Quang Hồng
+ Bà Bùi Thị Quýt


Đều trú tại: Thôn Kênh Trang, xã Tân Hưng, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng
+ Bà Nguyễn Thị Vân
Địa chỉ: 54 đường 208 thôn Cái Tắt, xã An Đồng, huyện An Dương, Hải
Phòng.
* Những người tiến hành tố tụng
Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa: .
Các hội thẩm nhân dân:
1/ ……………………….. - Hưu trí.
2/ …………………………- Hưu trí.
Thư kí phiên tịa: ……………… – cán bộ tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo.
Đại diện viện kiểm sát huyện Vĩnh Bảo tham gia phiên tòa:
……………………. – Kiểm sát viên
A. Phần thủ tục bắt đầu phiên tòa.
- Chủ tọa phiên tòa tuyên bố khai mạc phiên tòa và đọc Quyết định đưa vụ án
ra xét xử.
- Thư ký Tòa án báo cáo với Hội đồng xét xử về sự có mặt, vắng mặt của
những người tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập, giấy báo của Tòa án và lý do vắng

mặt
- Chủ tọa phiên tịa kiểm tra lại sự có mặt của đương sự theo giấy triệu tập,
giấy báo của Tòa án và kiểm tra căn cước của các đương sự; giải thích quyền, nghĩa
vụ của đương sự tại phiên tòa.
- Chủ tọa phiên tòa giới thiệu họ, tên những người tiến hành tố tụng.
- Chủ tọa phiên tịa hỏi đương sự có đề nghị thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm,
Kiểm sát viên, Thư ký Tịa án hay khơng.
Đương sự khơng u cầu thay đổi ai trong Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên; Thư
ký phiên tịa.
- Chủ tọa hỏi đương sự có cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ tại phiên tịa hay
khơng.
Chủ tọa hỏi ngun đơn:
Hỏi: Tại phiên tịa hơm nay ơng có bổ sung, thay đổi, rút một phần, hoặc rút


tồn bộ u cầu khởi kiện khơng?
Chủ tọa hỏi các đương sự:
Hỏi: Tại Tịa hơm nay các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải
quyết vụ án hay không?
Chủ tọa tuyên bố kết thúc phần thủ tục bắt đầu phiên tịa, phiên tồ chuyển
sang phần tranh tụng tại phiên tịa.
B. Phần xét hỏi tại phiên tịa
1. Trình bày của đương sự, Người đại diện theo ủy quyền của đương sự, Người
bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự:
2. Phần hỏi và trả lời tại phiên tòa.
- Đương sự hỏi lẫn nhau theo thứ tự: người khởi kiện; đại diện người khởi kiện;
người bị kiện; đại diện người bị kiện;
- Chủ toạ hỏi:
+ Người khởi kiện
+ Người bị kiện

+ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
- Hội thẩm nhân dân hỏi:
+ Người khởi kiện
+ Người bị kiện
+ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
- Viện kiểm sát hỏi:
+ Người khởi kiện
+ Người bị kiện
+ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
- Chủ toạ hỏi:
+ Người khởi kiện
+ Người bị kiện
+ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan


C. Phần tranh luận tại phiên tòa.
Đại diện người khởi kiện trình bày phần tranh luận:
Đại diện người bị n tranh luận
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến
Hội đồng xét xử vào phòng nghị án để nghị án.
D. Phần tuyên án
Hội đồng xét xử tuyên án theo bản án đã được Hội đồng xét xử thông qua tại
phịng nghị án.
Phiên tồ kết thúc vào lúc

giờ 00 ngày xx/x/2022 .


VI. DỰ THẢO BẢN ÁN
CỢNG HỊA XÃ HỢI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN VĨNH BẢO

Độc lập – Tự Do – Hạnh phúc

Bản án số: ……./20…/HC-ST
Ngày: ……-……….-20…
V/v khiếu kiện Hủy giấy chứng nhận
Quyền sử dụng đất

NHÂN DANH
NƯỚC CỢNG HỊA XÃ HỢI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỊA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH BẢO
I.

Với Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

Thẩm phán – Chủ tọa phiên tịa: …………………………………
Các Hội thẩm nhân dân:
1. …………………………………….
2. …………………………………….
II.
Thư ký phiên tòa: …………………………., Thư ký Tòa án nhân dân
Huyện Vĩnh Bảo.
III. Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Huyện Vĩnh Bảo tham gia phiên tòa:
…………………………… – Kiểm sát viên.
Ngày ….. tháng …… năm ……., tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo,
Thành phố Hải Phịng, xét xử sơ thẩm cơng khai vụ án hành chính thụ lý số
01/2016/TLST-HC ngày 25 tháng 02 năm 2016, về việc “Kiện hủy Giấy chứng nhận

Quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số ……./2017/QĐXXSTHC ngày ….. tháng ….. năm ….., giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Trần Trung Cử, sinh năm: 1948.
Địa chỉ: 76/4c Bùi Đình Túy, Phường 24, Quận Bình Thạnh, Tp HCM.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Vũ Văn Vinh


Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện: Luật sư
………………….. của Công ty Luật …………….., thuộc Đồn luật sư Thành phố Hồ
Chí Minh
- Người bị kiện: Ủy ban Nhân dân Huyện Vĩnh Bảo.
Địa chỉ: Đường 20/8 Thị trấn Vĩnh Bảo, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng.
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Trịnh Khắc Tiến – Phó Chủ
tịch UBND Huyện Vĩnh Bảo
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện: Luật sư
…………………………của Cơng ty Luật…………………..thuộc Đồn Luật sư
Thành phố Hồ Chí Minh.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Trần Thị Minh, sinh năm 1957
- Bà Trần Thị Tú
- Ông Bùi Trọng Trang, sinh năm 1964 và vợ là bà Lê Thị Thúy, sinh năm 1965
- Ông Phạm Văn Quyết, sinh năm 1976
- Ông Phạm Quang Hồng
- Bà Bùi Thị Quýt
Đều trú tại: Thôn Kênh Trang, xã Tân Hưng, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng
- Bà Nguyễn Thị Vân
Địa chỉ: 54 đường 208 thôn Cái Tắt, xã An Đồng, huyện An Dương, Hải
Phịng.

NỢI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa ngày hôm nay, người

khởi kiện và người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện trình bày:
Cụ Trần Văn Đồi và cụ Nguyễn Thị Hin, nguyên quán Tân Hưng, Vĩnh Bảo,
Hải Phòng sinh được 04 người con gồm: bà Nguyễn Thị Vân, ông Trần Trung Cử, bà
Nguyễn Thị Tú và bà Nguyễn Thị Minh. Cụ Đồi và cụ Hin có diện tích đất ở 815m2
tại Kênh Trang, Tân Hưng, Vĩnh Bảo, Hải Phịng.
Cụ Đồi chết năm 1974, cụ Hin chết năm 1997 đều không để lại di chúc. Ngày
19/01/1997, cụ Hin được UBND huyện Vĩnh Bảo cấp Giấy chứng nhận Quyền sử


dụng đất số 07/QSDD với diện tích 815m2 tại thửa 11, tờ bản đồ số 41 thuộc thôn
Kênh Trang, Tân Hưng, Vĩnh Bảo, Hải Phịng. Do đi cơng tác và ở xa gia đình đến
năm 2011, ơng Trần Trung Cử phát hiện diện tích đất ở của bố mẹ ơng đã được cấp
giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số 123/QSDD ngày 04/03/2005 và mang tên hộ
ông Bùi Trọng Trang và bà Lê Thị Thúy.
Ngày 05/09/2011, ơng Cử có đơn gửi các cơ quan chức năng đề nghị xem xét
việc cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất cho hộ ông Bùi Trọng Trang và bà Thúy
đồng thời yêu cầu trả lại mảnh đất trên cho gia đình ơng.
Ngày 04/07/2012, ông Cử có đơn khiếu nại gửi đến UBND huyện Vĩnh Bảo về
việc cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất cho ông Trang và bà Thúy là trái phấp
luật.
Ngày 31/05/2013, Phịng Tài ngun và mơi trường huyện Vĩnh Bảo đã có văn
bản trả lời về việc giải quyết đơn khiếu nại về việc cấp giấy chứng nhận Quyền sử
dụng đất cho ông Trang và bà Thúy.
Ngày 24/09/2013, UBND huyện Vĩnh Bảo có cơng văn số 762/UBND-TTr trả
lời đơn của ông Trần Trung Cử.
Ngày 05/06/2014, ông Cử tiếp tục làm đơn khiếu nại gửi tới UBND huyện
Vĩnh Bảo.
Ngày 02/12/2015, ông Cử nhận được Quyết định số 2895/QĐ-UBND ngày
18/11/2015 của UBND huyện Vĩnh Bảo với nội dung: Không chấp nhận đề nghị của
ông Trần Trung Cử về việc thu hồi Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số

123/QSDD diện tích 851m2 thửa số 11, tờ bản đồ số 41 đã cấp cho ông Bùi Trọng
Trang và bà Lê Thị Thúy ở Kênh Trang, tân Hưng, Vĩnh Bảo, Hải Phịng.
Khơng đồng ý với Quyết định trên, ơng Cử đề nghị Tịa án Nhân dân huyện
Vĩnh Bảo hủy Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số 123/QSDD ngày 04/03/2005
của UBND huyện Vĩnh Bảo, Hải Phịng đã cấp cho hộ ơng Bùi Trọng Trang và bà Lê
Thị Thúy.
Đại diện người bị kiện Ủy ban Nhân dân Huyện Vĩnh Bảo trình bày:
Việc ơng Cử có đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đã được UBND huyện
Vĩnh Bảo chủ trì hịa giải nhiều lần, đồng thời đã ra các văn bản trả lời ông Trần
Trung cử. Nay ơng Cử có đơn u cầu hủy Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất cấp
cho hộ ông Bùi Trọng Trang, bà Lê Thị Thúy, quan điểm của UBND huyện như sau:


Theo hồ sơ chuyển nhượng Quyền sử dụng đất, năm 1997, cụ Nguyễn Thị Hin
chết không để lại di chúc. Sau khi cụ Hin chết, bà Trần thị Minh – con gái của cụ Hin
là người trực tiếp trong coi mảnh đất trên. Ngày 13/09/1999, bà Trần Thị Minh viết
giấy biên nhận số tiền 5.500.000 đồng của ông Bùi Trọng Trang trú tại Cụm 1, Kênh
Trang, Tân Hưng, Vĩnh Bảo, Hải Phịng với nội dung “Tơi chuyển nhượng đất thổ cư
của gia đình tơi ở Cụm I”.
Ngày 09/07/2002, bà Minh viết giấy chuyển nhượng Quyền sử dụng đất ở cho
ông Bùi Trọng Trang và đề nghị UBND xã Tân Hưng, Phịng Nơng nghiệp và Phát
triển nơng thơn huyện Vĩnh Bảo làm thủ tục chuyển nhượng với nội dung “mẹ tôi là
bà Nguyễn Thị Hin có thửa đất thổ cư diện tích là 851m2. Năm 1997, mẹ tơi mất có
để lại thửa đất đó cho tơi sử dụng. Nay tơi xét thấy điều kiện sinh hoạt không phù
hợp, tôi nhượng lại cho anh Bừi Trọng Trang và bà Lê Thị Thúy với số tiền 6.000.000
đồng…” Hai bên đã ký vào giấy chuyển nhượng trên. Ngày 09/07/2002, bà Trần Thị
Tú có viết Giấy chuyển nhượng thừa kế cho em gái – bà Minh được quyền sử dụng
đất thổ cư của cụ Nguyễn Thị Hin là mẹ đẻ của bà. Chủ tịch UBND xã tân Hưng đã
xác nhận bà Trần Thị Tú, bà Trần Thị Minh đều là con đẻ của cụ Nguyễn Thị Hin vào
ngày 22/02/2004. Ngày 24/01/2005, ban địa chính xã Tân Hưng xác nhận “Bà

Nguyễn Thị Hin có thửa đất thổ cư số 11, tờ bản đồ số 41, đã đăng ký vào sổ địa
chính thừa kế cho con gái là bà Trần Thị Minh”. Ngày 26/01/2005, ông Bùi Trọng
Trang có đơn xin đăng ký Quyền sử dụng đất. Căn cứ vào đơn xin đăng ký Quyền sử
dụng đất của ông Trang và các tài liệu, UBND xã Tân Hưng đã lập hồ sơ và làm thủ
tục cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất cho ông Trang. Hồ sơ cấp Giấy chứng
nhận Quyền sử dụng đất cho ông Trang đã đảm bảo quy định của Luật đất đai năm
2003.
Tại thời điểm bà Minh chuyển nhượng Quyền sử dụng đất của cụ Hin cho ơng
Trang và bà Thúy thì UBND xã Tân Hưng khơng biết cụ Hin có 04 người con là bà
Minh, bà tú, ông Cử và bà Vân vì thực tế ơng Cử và bà Vân đã khơng còn sinh sống ở
địa phương từ nhỏ. Năm 1999, bà Minh là người quản lý sử dụng diện tích đất của cụ
Hin, bà Minh đã chủ động chuyển nhượng đất và đã nhận đầy đủ tiền của ơng Trang.
Vì vậy, tại thời điểm cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất cho ông Trang và bà
Thúy, UBND huyện Vĩnh Bảo đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định pháp
luật. Nay ơng Cử có đơn đề nghị Tịa án hủy Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất
mang tên ông Trang và bà Thúy, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
Ý kiến của Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (bà Trần Thị Minh) trình
bày:


Cụ Trần Văn Đoài và cụ Nguyễn Thị Hin, nguyên quán Tân Hưng, Vĩnh Bảo,
Hải Phòng sinh được 04 người con gồm: bà Nguyễn Thị Vân, ông Trần Trung Cử, bà
Nguyễn Thị Tú và bà Nguyễn Thị Minh. Cụ Đoài và cụ Hin có diện tích đất ở 815m2
tại Kênh Trang, Tân Hưng, Vĩnh Bảo, Hải Phịng. Cụ Đồi chết năm 1974, cụ Hin
chết năm 1997 đều không để lại di chúc. Ngày 19/01/1997, cụ Hin được UBND
huyện Vĩnh Bảo cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số 07/QSDD với diện tích
815m2 tại thửa 11, tờ bản đồ số 41 thuộc thơn Kênh Trang, Tân Hưng, Vĩnh Bảo, Hải
Phịng. Do đất ở của bố mẹ bà khơng có người trơng coi nên bà có nhờ ơng Trang
trơng coi giúp. Sau đó, ơng Trang đã bảo bà viết giấy chuyển nhượng đất cho ông để
mọi người khỏi phá phách. Mặt khác, bà có nợ tiền ơng Trang nên bà đã viết giấy bán

cho ơng Trang ½ mảnh đất của bố mẹ. Bà chỉ xác định bán ½ mảnh đất nhưng ông
Trang đã lừa bà viết giấy bán cả mảnh đất. Khi ông Cử về nhà mới phát hiện đất ở
của bố mẹ mang tên ông Trang và yêu cầu UBND các cấp giải quyết. bà nhận thấy sai
vì đã tự ý bán đất của bố mẹ không được sự đồng ý của anh em trong gia đình và đề
nghị Tịa án giải quyết theo quy định pháp luật.
Ý kiến của Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (ơng Bùi Trọng Trang và bà
Lê Thị Thúy) trình bày:
Năm 1999, ơng bà có mua của bà Trần Thị Minh mảnh đất 851m2 với giá
6.000.000 đồng, có lập giấy chuyển nhượng Quyền sử dụng đất. Sau khi mua đất, ông
bà đã san lấp trồng cây trên diện tích đất đó. Đến năm 2005, và Minh và vợ chồng
ơng Trang, bà Thúy có đến UBND xã Tân Hưng để hoàn thiện thủ tục cấp Giấy
chứng nhận Quyền sử dụng đất. Tại UBND xã Tân Hưng, bà Minh và ông Trang đã
ký Hợp đồng chuyển nhượng Quyền sử dụng đất theo đúng quy định pháp luật. Đến
tháng 03/2005, ông bà được cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất mang tên Bùi
Trọng Trang và bà Lê Thị Thúy. Quá trình làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận Quyền
sử dụng đất, bà Trần Thị Tú là em giá của bà Minh cũng đồng ý bán đất cho ơng. Ơng
bà chỉ biết mua đất của bà Minh, khơng biết cụ Hin cịn có 02 người con khác là ông
Trần Trung Cử và bà Nguyễn Thị Vân. Sau khi được cấp Giấy chứng nhận Quyền sử
dụng đất, vào tháng 07/2005, ơng bà đã bán diện tích đất 109m2 cho ông Phạm Văn
Quyết với giá 75.000.000 đồng, năm 2007, ơng bà tiếp tục bán diện tích đất 230m2
cho ông Phạm Quang Hồng với giá 460.000.000 đồng. Đến năm 2009, ơng bà bán
tiến diện tích đất 135m2 cho bà Bùi Thị Quýt với giá 330.000.000 đồng. Đến nay,
ông Hồng, bà Quýt, ông Quyết chưa làm thủ tục sang tên chuyển nhượng. Nay ông
Cử yêu cầu hủy Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất của ông bà, ông bà không đồng
ý, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.


×