Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Đánh giá quy định về điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.84 KB, 12 trang )

MỤC LỤC


MỞ BÀI
Hôn nhân là mối quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hơn. Do đó, kết hơn là sự
kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ hôn nhân, làm phát sinh các quyền, nghĩa vụ của vợ,
chồng với nhau. Hiện nay, Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 đang có hiệu lực thi
hành có quy định khá chặt chẽ về các điều kiện kết hôn, để hiểu rõ hơn về các điều kiện
này em xin phân tích Đề bài 5: “Đánh giá quy định về điều kiện kết hôn theo quy định
của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014” làm bài tập, do hiểu biết cịn hạn chế nên
khó tránh khỏi những sai sót mong thầy, cơ góp ý để những bài làm sau được hồn thiện
hơn !
NỘI DUNG
I, Cơ sở lý luận:
1, Khái niệm kết hôn:
Theo quy định tại Khoản 5 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình 2014: “Kết hơn là
việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật Hơn nhân và
gia đình 2014 về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”.
2, Điều kiện kết hôn:
- Theo quy định tại Điều 8 Luật hơn nhân gia đình 2014, có quy định Điều kiện
đăng ký kết hôn như sau:
“Điều 8. Điều kiện kết hôn:
1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định
tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.
2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.”
“Điều 5. Bảo vệ chế độ hơn nhân và gia đình
…2. Cấm các hành vi sau đây:


a) Kết hơn giả tạo, ly hôn giả tạo;
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hơn hoặc chung sống như vợ chồng với
người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hơn hoặc chung sống như vợ chồng
với người đang có chồng, có vợ;
2


d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về
trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi;
giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con
rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;..”1
- Ngoài ra để việc kết hơn có giá trị pháp lí Khoản 1 Điều 9 Luật Hơn nhân và gia
đình 2014 qui định “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch.Việc kết hôn không
được đăng ký theo quy định tại khoản này thì khơng có giá trị pháp lý..”
3. Điều kiện kết hôn ở một số nước trên thế giới:
Độ tuổi kết hơn ở mỗi quốc gia, thậm chí là từng vùng trong một lãnh thổ có sự đa
dạng và khác biệt rõ rệt.Ở Trung Quốc, độ tuổi kết hôn ở nữ và nam lần lượt là 20 và 22.
Trong khi đó, tại Yemen và Ả-rập Xê-út, cô dâu trẻ nhất chỉ mới lên 8 tuổi.Khơng có
một khn khổ chung về độ tuổi kết hôn dành cho tất cả các quốc gia trên thế giới. Mỗi
đất nước, khu vực đều có những quy định riêng về điều này và thậm chí, có những nước
khơng hề có một độ tuổi cụ thể nào cả mà hễ những ai đến độ tuổi dậy thì đồng nghĩa
với việc họ có thể kết hơn hợp pháp.
Khi bàn về độ tuổi kết hơn, việc tìm hiểu về tôn giáo, quan điểm xã hội ở một quốc
gia là vơ cùng quan trọng vì chính những cách nhìn khác nhau dẫn đến những ý kiến về
sự trưởng thành và khả năng lập gia đình khơng giống nhau. Đó chính là lý giải vì sao ở
một số quốc gia, kết hơn ở độ tuổi cịn q nhỏ vẫn được chấp nhận, và kết quả là trên
thế giới có rất nhiều "cô dâu 8 tuổi" được gả đi hằng năm. Việc tìm hiểu về độ tuổi kết
hơn đa dạng như thế nào ở các quốc gia trên thế giới sẽ giúp chúng ta có cái nhìn mới

mẻ và sâu sắc hơn về văn hố của quốc gia đó.
Những tưởng "cơ dâu 8 tuổi" chỉ có trên phim ảnh nhưng nó thực sự xuất hiện ở
Yemen, quốc gia Tây Á lớn thứ nhì trên bán đảo Ả Rập này. Ở đây, các bé gái khi đủ 8
tuổi sẽ có thể được gả đi. Tục tảo hôn này đã ăn sâu trong tiềm thức và văn hoá của
người Yemen do ảnh hưởng của sự nghèo đói và tơn giáo. Khơng có một hơn nhân nào
được pháp luật công nhận ở quốc gia này cả. Chính ba mẹ sẽ là người quyết định con cái
của mình có được kết hơn hay khơng. Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF) ước
tính rằng tại Yemen, có khoảng 32% các bé gái kết hôn trước khi đủ 18 tuổi. Phụ nữ
Trung Quốc có thể kết hơn ở tuổi 20, trong khi đàn ông Trung Quốc được phép kết hôn
ở tuổi 22.2
II, Đánh giá quy định về điều kiện kết hôn:
1, Ưu điểm:
- Thứ nhất: Nâng độ tuổi kết hơn
1 Luật Hơn nhân và gia đình 2014
2 ngày đăng 05/05/2017, ngày
truy cập 18/03/2020

3


Về độ tuổi kết hôn Luật hôn nhân và gia đình 2014 (Khoản 1, Điều 8) đã nâng độ
tuổi kết hơn của nữ thành đủ 18 tuổi thay vì vừa bước sang tuổi 18 (17 tuổi + 1 ngày)
như quy định tại Luật hơn nhân và gia đình năm 2000 và đủ 20 trở lên đối với nam. Như
vậy, Luật mới quy định tuổi kết hôn đối với nữ là từ đủ 18 tuổi trở lên và với nam là từ
đủ 20 tuổi trở lên. Từ sự thay đổi tiến bộ này, Luật Hơn nhân và gia đình 2014 đã khắc
phục nhiều điểm khơng hợp lí về độ tuổi kết hơn của Luật Hơn nhân và gia đình năm
2000, như:
+ Về tâm sinh lí: khi người phụ nữ đủ 18 tuổi thì cơ thể hồn thiện, việc mang thai
và sinh con sẽ an toàn hơn, mặt khác khi này tâm lí đã hồn thiện nên việc tiếp nhận
khối lượng kiến thức và kinh nghiệm trong cuộc sống sẽ tốt hơn, xử lý được các vấn đề

trong cuộc sống.
+ Về mặt lập pháp: thiếu sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống văn bản pháp luật.
Theo quy định của Bộ luật dân sự thì người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên.
Người từ đủ 16 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải
được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh
hoạt hoặc pháp luật có quy định khác. Đồng thời, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự thì đương sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên mới có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng
dân sự. Như vậy, nếu cho phép người chưa đủ 18 tuổi kết hôn không những tạo ra sự
thiếu thống nhất, đồng bộ trong hệ thống văn bản pháp luật mà còn hạn chế một số
quyền của người nữ khi xác lập giao dịch, hạn chế quyền u cầu ly hơn (phải có người
đại diện). Luật hơn nhân và gia đình 2014 quy định tuổi kết hôn từ đủ 18 tuổi giúp đồng
bộ hóa hệ thống pháp luật, đảm bảo đầy đủ quyền, nghĩa vụ dân sự của người nữ.
- Thứ hai: Không cấm kết hôn đồng giới
Về hôn nhân đồng giới, luật hơn nhân và gia đình 2000 quy định cấm kết hơn đồng
giới, và vì cấm nên đi kèm sẽ có chế tài, xử phạt, nếu hai người cùng giới tính kết hơn
với nhau thì trái với quy luật tự nhiên và quy luật xã hội, đồng thời dẫn tới việc đi ngược
lại một chức năng cơ bản của gia đình là duy trì nịi giống
Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, do áp lực của cuộc sống, mục tiêu được con người
kỳ vọng nhất trước ngưỡng cửa hôn nhân là gia đình trở thành một “mái ấm”, là nơi an
tồn, yên ổn, là nơi con người được thỏa mãn nhất những nhu cầu tâm lý tình cảm. Mỗi
con người, dù với những bản dạng tình dục khác nhau, đều có quyền kiếm tìm hạnh
phúc. Nay, theo luật mới, từ 01/01/2015, Luật hơn nhân và gia đình 2014 bỏ quy định
“cấm kết hơn giữa những người cùng giới tính” nhưng vẫn “khơng thừa nhận hơn nhân
giữa những người cùng giới tính - Khoản 2 Điều 8”. Đây cũng được coi là một bước
tiến nhỏ trong việc nhìn nhận hơn nhân giữa những người cùng giới tính của nhà nước ta
trong tình hình xã hội hiện nay.
- Thứ ba, điều kiện về ý chí:

4



Pháp luật quy định hai bên nam nữ tự nguyện quyết định hôn nhân nhằm đảm bảo
việc tự nguyện thực hiện các nghĩa vụ của vợ, chồng, hạnh phúc gia đình và đảm bảo
quyền tự chủ của cơng dân nói riêng và con người nói chung. Tự nguyện kết hơn được
hiểu là việc hai bên nam, nữ tự mình quyết định việc kết hơn và thể hiện ý chí là mong
muốn trở thành vợ, chồng của nhau. Mỗi bên nam, nữ không bị tác động bởi bên kia hay
của bất kỳ người nào khác khiến họ phải kết hôn trái với nguyện vọng của họ. Sự thể
hiện ý chí phải thống nhất với ý chí. Hai bên nam, nữ mong muốn trở thành vợ, chồng
xuất phát từ tình yêu thương giữa họ và nhằm mục đích là cùng xây dựng gia đình sự tự
nguyện của bên nam, nữ trong việc kết hôn phải thể hiện rõ là họ mong muốn được gắn
bó với nhau, cùng nhau chung sống suốt đời nhằm thỏa mãn nhu cầu tình cảm giữa hai
người. Sự tự nguyện của các bên trong việc kết hôn là yếu tố quan trọng đảm bảo cho
hơn nhân có thể tồn tại lâu dài bền vững. Sự tự nguyện của các bên phải xuất phát từ tình
u chân chính giữa họ, đồng thời sự tự nguyện nam nữ trong việc kết hơn là nhằm xây
dựng gia đình và cùng nhau chung sống lâu dài, vì vậy trong trường hợp các bên có sự
tự nguyện, nhưng khơng vì mục đích hơn nhân mà nhằm mục đích vi phạm pháp luật,
đạo đức xã hội thì sẽ khơng được Nhà nước cơng nhận và sẽ bị xử hủy. Việc kết hôn do
hai bên nam nữ tự quyết định, không chịu tác động của bên kia hoặc bất kỳ người nào.
Việc kết hôn do bị cưỡng ép, lừa dối thì khơng được pháp luật công nhận.
Sự tự nguyện của các bên phải được biểu hiện thơng qua thủ tục đăng kí kết hơn, để
đảm bảo việc kết hơn hồn tồn tự nguyện, hai bên nam nữ phải cùng có mặt tại cơ quan
có thẩm quyền về đăng kí kết hơn, nộp tờ khai đăng ký kết hơn, ngày mà cơ quan nhà
nước có thẩm quyền tiến hành đăng kí kết hơn và trao giấy chứng nhận kết hơn thì cả hai
bên nam và nữ vẫn phải có mặt. Việc kết hơn cũng có thể bị cản trở, cản trở hôn nhân là
hành vi của người thứ ba, thông thường hành vi cản trở được thực hiện bởi gia đình,
những người mà bản thân bên nam nữ kết hơn có sự lệ thuộc, với hành vi cản trở hôn
nhân phải lên án đồng thời và kịp thời ngăn chặn nếu cấu thành tội cưỡng ép kết hôn
hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện
- Thứ tư, không bị mất năng lực hành vi dân sự:
Những người bị mất năng lực hành vi dân sự thuộc những trường hợp quy định tại

Khoản 1 Điều 22 BLDS “1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà
không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo u cầu của người có quyền, lợi ích
liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này
là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm
thần..”Qui định này nhằm đảm bảo sự tự nguyện khi kết hôn và quyền và nghĩa vụ của
hai người khi muốn kết hôn, khi kết hơn quy định này cịn nhằm để đảm bảo quyền của
con cái họ.
- Thứ năm, các trường hợp cấm kết hôn: Các trường hợp cấm kết hôn gồm:
+ Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo: Điểm a khoản 2 điều 5 Luật Hơn nhân và gia đình
2014 quy định cấm kết hôn giả tao. Kết hôn giả tạo là việc lợi dụng kết hôn để nhập
5


cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của
Nhà nước hoặc để đạt mục đích khác mà khơng nhằm mục đích xây dựng gia đình. Có
thể thấy, kết hơn giả tạo là việc kết hơn nhằm mục đích khác mà khơng hề hướng tới
mục đích xây dựng gia đình. Bởi lẽ, hôn nhân là việc xác lập quan hệ vợ chồng với nhau
theo quy định của Luật này về điều kiện kết hơn và đăng kí kết hơn. Vì vậy, đây là
trường hợp pháp luật cấm kết hôn.3
+ Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn: Điểm b khoản 2 điều
5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định cấm tảo hơn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết
hôn, cản trở kết hôn. Một trong những nguyên tắc cơ bản trong Luật Hôn nhân và gia
đình là hơn nhân tự nguyện, tiến bộ: tự nguyện hồn tồn trong việc là hai bên tự mình
quyết định việc kết hơn và thể hiện ý chí mong muốn của mình. Sự tự nguyện của các
bên trong việc kết hôn là yếu tố quan trọng đảm bảo cho hơn nhân có thể tồn tại lâu dài
và bền vững. Ngoài ra, để đảm bảo nguyên tắc tự nguyện tiến bộ, Nhà nước cấm việc
cưỡng ép, lừa dối kết hôn. Bởi lẽ, trong thực tiễn hiện tượng thiếu sự tự nguyện vẫn xảy
ra. Hiện tượng này gây ảnh hưởng xấu đến cuộc sống và quyền lợi của những người kết
hôn, gây hậu quả xấu cho gia đình và xã hội. Vì vậy, Nhà nước nghiêm cấm các trường
hợp vi phạm.4

+ Người đang có vợ, có chồng mà kết hơn hoặc chung sống như vợ chồng với
người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hơn hoặc chung sống như vợ chồng
với người đang có chồng, có vợ: điểm c, Khoản 2, Điều 5 luật Hôn nhân và gia đình
2014 quy định cấm người đang có vợ hoặc có chồng kết hôn với người khác.
Xuất phát từ bản chất hôn nhân xã hội chủ nghĩa là hôn nhân một vợ một chồng,
tình yêu nam nữ được lấy làm cơ sở để xác lập hơn nhân, chỉ có hơn nhân một vợ một
chồng mới đảm bảo được sự hạnh phúc, bền vững trong gia đình, Luật Hơn nhân và gia
đình cấm người đang có vợ hoặc có chồng kết hơn với người khác.
Tuy nhiên ở nước ta vẫn tồn tại trường hợp một chồng có hai vợ, một vợ hai chồng.
Đó là trường hợp cán bộ, bộ đội đã có vợ hoặc chồng ở miền nam, tập kết ra bắc năm
1954 và lại lấy vợ, chồng khác. Năm 1975, khi đất nước đã thống nhất thì họ trở về đồn
tụ với gia đình và tồn tại hai quan hệ hơn nhân. Việc kết hôn trên tuy đã vi phạm nguyên
tắc một vợ một chồng nhưng do hoàn cảnh đất nước có chiến tranh nên được pháp luật
cơng nhận và bảo vệ.
Ngoài ra, việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà khơng đăng kí kết
hơn cũng khơng được pháp luật cơng nhận là vợ, chồng. Người đang có vợ hoặc có
chồng mà chung sống hoặc kết hơn với người khác hoặc chưa có chồng mà kết hơn hoặc
chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ là vi phạm nghiêm trọng
3 />ngày đăng 21/03/2018, ngày truy cập 22/3/2O2O.
4 ngày truy cập 22/3/2O2O

6


nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng – nguyên tắc cơ bản của chế độ hơn nhân và gia
đình được ghi nhận trong Hiến pháp và Luật Hôn nhân và gia đình.
+ Kết hơn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực
hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa
người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể,
cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng: Quy định này nhằm

làm ổn định các mối quan hệ trong gia đình, đồng thời ngăn chặn được hiện tượng lợi
dụng mối quan hệ phụ thuộc mà có thể xảy ra hành vi cưỡng ép kết hôn giữa cha mẹ
nuôi với con ni. Do đó, Luật Hơn nhân và gia đình 2014 tiếp tục kế thừa quy định này
và có điểm tiến bộ hơn. Điểm mới này góp phần phát huy truyền thống tốt đẹp của gia
định Việt Nam và xây dựng chế độ hơn nhân và gia đình lành mạnh, tiến bộ.
- Thứ sáu, đăng kí kết hơn: Khoản 1 Điều 9 Luật Hơn nhân và gia đình 2014:“ Việc
kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy
định của Luật này và pháp luật về hộ tịch.Việc kết hôn không được đăng ký theo quy
định tại khoản này thì khơng có giá trị pháp lý.”
+ Điều kiện kết hơn là việc hai bên nam nữ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
xác nhận việc họ lấy nhau thành vợ chồng. Đây là sự kiện pháp lý làm phát sinh quyền
và nghĩa vụ của vợ chồng để từ đó Nhà nước có biện phải bảo hộ quyền lợi cho vợ và
chồng. Về mặt quản lý nhà nước thì đăng kí kết hơn là biện pháp để Nhà nước kiểm sốt
việc tuân theo pháp luật trong việc kết hôn và ngăn chặn các hiện tượng vi phạm các
điều kiện kết hôn. Nếu các bên nam nữ mong muốn thành vợ chồng nhưng khơng đăng
kí kết hơn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà chỉ tổ chức lễ cưới theo phong tục,
tập qn thì về ngun tắc hơn nhân đó khơng được pháp luật thừa nhận. Như vậy, đăng
kí kết hôn là nghi thức duy nhất làm phát sinh quan hệ hôn nhân.
Khi Nhà nước công nhận quan hệ vợ chồng, Giấy chứng nhận kết hôn sẽ được cấp
cho hai bên nam nữ. Đây là căn cứ làm phát sinh quan hệ vợ chồng mà nội dung là
quyền và lợi ích hợp pháp của hai bên vợ chồng. Luật Hôn nhân và gia đình 2014 ghi
nhận sự tự nguyện kết hôn giữa công dân nam và nữ nhưng Nhà nước bằng pháp luật
quy định các điều kiện kết hôn để đảm bảo hôn nhân hợp pháp và chỉ khi tuân thủ theo
các điều kiện kết hơn đó thì nam – nữ mới thực sự được ghi nhận là vợ chồng. Trong xã
hội trước đây ở nước ta, chỉ cần tuân thủ theo lễ cưới truyền thống mà không cần điều
kiện kết hôn là pháp luật đã công nhận việc kết hơn đó. Các nghi thức kết hơn là: chạm
ngõ, ăn hỏi, lễ cưới mà theo đó, lễ cưới là phần quan trọng nhất, được tiến hành trong sự
chứng kiến của bà con, hàng xúm…Nhưng hiện nay, điều kiện kết hôn được coi là một
thủ tục pháp lý bắt buộc trong việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng, đảm bảo xây dựng
một trật tự pháp lý ổn định, xóa bỏ tư tưởng lạc hậu đã tồn tại lâu đời, đảm bảo chế độ

hôn nhân tự nguyện và tiến bộ.
+ Về thẩm quyền đăng ký kết hôn: hiện nay, thẩm quyền đăng ký kết hôn được quy
định tại Luật Hộ tịch năm 2014.
7


Đăng ký kết hôn cho công dân Việt Nam với nhau: Theo Khoản 1, Điều 17, Mục 2,
Chương 2 thì Uỷ bân nhân dân cấp xã nơi cư trú của một trong hai bên nam, nữ kết hôn
là cơ quan đăng kí kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với nhau tại Việt Nam.5
Đăng kí kết hơn có yếu tố nước ngoài: Theo Điều 37 Mục 2 chương 3: “1. Ủy ban
nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam thực hiện việc đăng kí kết hơn
giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi; giữ cơng dân Việt Nam cư trú ở trong
nước với công dân Việt Nam định cư ở nước ngồi; giữa cơng dân Việt Nam định cư ở
nước ngồi với nhau; giữa cơng dân Việt nam đồng thời có quốc tịch nước ngồi với
cơng dân Việt Nam hoặc với người nước ngồi.2.Trường hợp người nước ngồi cư trú
tại Việt nam có u cầu đăng ký kết hơn tại Việt Nam thì Uỷ ban nhân dân cấp huyện nơi
cư trú của một trong hai bên thực hiện việc đăng kí kết hơn”.
Thơng qua các quy định trên cho thấy, tùy từng trường hợp kết hơn mà có cơ
quan đăng kí kết hơn khác nhau. Trong trường hợp việc đăng kí kết hơn khơng đúng
thẩm quyền thì việc đăng kí kết hơn đó khơng có giá trị pháp lý.
2, Nhược điểm:
Mặc dù khoản 1 Điều 8 Luật hơn nhân và gia đình nam 2014 quy định cụ thể về
điều kiện kết hôn nhưng trong thực tiễn thi hành cịn gặp phải những khó khăn, vướng
mắc:
- Về điều kiện tuổi kết hôn:
Điều kiện về tuổi kết hôn, được quy định tại Điều 8, nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ
từ đủ 18 tuổi trở lên, một số nước và vùng lãnh thổ quy định về tuổi kết hôn thấp hơn so
với Việt Nam; nếu áp dụng pháp luật nước ngồi đối với quan hệ Hơn nhân và gia đình
có yếu tố nước ngồi tại Việt Nam thì có được áp dụng hay khơng? Ngồi ra, thực tiễn
thi hành quy định về tuổi kết hơn cịn rất nhiều bất cập giữa quy định của pháp luật và

tập quán về tuổi kết hôn. Ở một số địa phương, cộng đồng, người dân vẫn kết hôn theo
độ tuổi trong tập qn dẫn tới tình trạng tảo hơn vẫn cịn tồn tại ở các nhóm cộng đồng
này đặc biệt tỷ lệ kết hôn trước tuổi luật định ở vùng cao, nơi đồng bào dân tộc ít người
sinh sống cịn khá cao. Nhưng trên thực tế khá nhiều nam, nữ chung sống với nhau như
vợ chồng chưa tới độ tuổi này và Pháp luật về hộ tịch vẫn thừa nhận quyền làm mẹ của
người chưa đủ 18 tuổi, vẫn được đăng ký khai sinh cho con ngoài giá thú.
- Điều kiện về sự tự nguyện của nam, nữ:
Trong luật Hôn nhân và gia đình cũng như các văn bản hướng dẫn cũng hướng dẫn
về những trường hợp bị coi là một bên lừa dối nhưng là dưới dạng liệt kê hành vi
như:lừa dối là nếu kết hôn sẽ xin việc cho, nếu kết hơn thì bảo lãnh ra nước ngồi,... chứ
khơng có những tiêu chí như thế nào là " lừa dối", không khái quát được hết các trường
hợp lừa dối khiến cho việc xác định hành vi lừa dối trong hơn nhân có nhiều vướng
mắc.Trên thực tế sự tự nguyện chỉ có thể được xác định thơng qua hành vi thể hiện ý chí
5 Luật hộ tịch 2O14

8


của người kết hơn trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc kết hôn. Bản
thân yếu tố chủ quan bên trong như tình cảm, mong muốn, nguyện vọng của người kết
hơn như thế nào thì lại khó có thể biết. Bên cạnh đó vấn đề thẩm định sự tự nguyện kết
hơn có yếu tố nước ngồi cịn nhiều hạn chế, nhất là trong cách tiến hành phỏng vấn.
Một số cơ quan nhà nước vẫn tiến hành phỏng vấn một cách hời hợt cho qua, chưa làm
đúng với tinh thần và tầm quan trọng của thủ tục phỏng vấn, cán bộ biết tiếng nước
ngồi cũng khơng nhiều nên nhiều khi cán bộ phỏng vấn không hiểu được các đương sự
nói gì.6
- Những trường hợp cấm kết hơn.
+ Quy định về cấm kết hơn giữa những người cùng dịng máu về trực hệ, giữa
những người có họ trong phạm vi ba đời khơng có tính khả thi khi áp dụng tại các vùng
dân tộc thiểu số. (Ví dụ như đồng bào dân tộc Xinh Mun trên địa bàn huyện Mai Sơn

tỉnh Sơn La cịn có hơn nhân cận huyết nhiều)
+ Kết hôn trái pháp luật được hiểu: “ Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng
ký kết hơn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm
điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này”. Như vậy trong Điều 8 có dẫn
chiếu đến các điểm a,b,c,d khoản 2 Điều 5 của Luật quy định các hành vi bị cấm. Trong
đó tại điểm c quy định cấm “ Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống
như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hơn hoặc chung
sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ”. Những trường hợp người đang có
vợ, có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác trên thực tế xãy ra khá nhiều,
ảnh hưởng không nhỏ đến danh dự, nhân phẩm của người phụ nữ nói riêng, phá vỡ hạnh
phúc gia đình vốn đang tốt đẹp, nhưng rất khó giải quyết. Muốn xác định chung sống
như vợ chồng với nhau phải đáp ứng nhiều khía cạnh pháp lý, do vậy đường lối giải
quyết của địa phương đa phần là vận động, giải thích pháp luật để các bên chấm dứt
quan hệ sai trái.
+ Về việc xác định thế nào là người đang có vợ, có chồng. Trên thực tế việc xác
định tình trạng hơn nhân của các bên không phải lúc nào cũng đơn giản. Tuy nhiên rất
khó xác định họ chung sống với nhau từ thời điểm nào, thế nào là chung sống với như
vợ chồng, đặc biệt đối với những cặp không sống chung thường xuyên tại một địa
phương. Vì vậy dẫn đến tình trạng người đang có vợ hoặc có chồng vẫn được cơ quan có
thẩm quyền chấp nhận u cầu đăng kí kết hôn.
+ Về quy định cấm người mất năng lực hành vi dân sự. Người mất năng lực dân sự
được hiểu là người bị mắc căn bệnh làm mất khả năng nhận thức, điều khiển hành vi và
có quyết định của Tịa án tun bố người đó bị mất năng lực hành vi dân sự. Trên thực tế
có rất ít người là ơng, bà, cha, mẹ, anh, chị,em.... u cầu tịa án tuyên bố người thân của
mình bị mất năng lực hành vi dân sự nên vẫn có nhiều trường hợp người mất năng lực
6 ngày đăng 26-07-2019, ngày truy cập
19-03-2020

9



hành vi dân sự được đăng kí kết hơn. Nhiều cơ quan đăng kí kết hơn cịn lúng túng trong
việc xác minh người này có thuộc diện cấm kết hơn không. Thực tiễn giải quyết vụ việc
hôn nhân và gia đình liên quan vấn đề này đã phát sinh vấn đề: Có nhiều trường hợp vì
một số lý do mà kết hôn với người thực tế không thể nhận thức, khơng làm chủ được
hành vi của mình nhưng chưa bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, khi nhận
ra hoặc không thể chung sống với người này được nữa, người vợ/ chồng có nhu cầu
muốn ly hơn được hướng dẫn u cầu cơ quan có thẩm quyền u cầu Tịa án hủy việc
kết hơn trái pháp luật theo quy định. Tòa án thụ lý yêu cầu giải quyết hủy hôn nhân trái
pháp luật của cơ quan có thẩm quyền (cụ thể là Hội liên hiệp phụ nữ,…) thì gặp phải ý
kiến phản đối của phía gia đình người vợ/chồng và Ủy ban nhân dân nơi cấp giấy chứng
nhận đăng ký kết hôn. Ủy ban nhân dân nơi cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn cho
rằng: Họ đã tiến hành làm thủ tục đăng ký kết hơn theo đúng quy định của pháp luật (vì
người vợ/chồng chưa bị Toà án tuyên bố là mất năng lực hành vi dân sự. Do đó người
vợ/chồng tuy khơng thể nhận thức, khơng làm chủ hành vi nhưng chưa có quyết định
của Tịa án tun người đó mất năng lực hành vi dân sự thì vẫn coi là người bình
thường). Một số trường hợp kết hôn và đã gây hậu quả xấu cho xã hội.
+ Quan hệ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đặc biệt
đối với trường hợp chung sống như vợ chồng trước ngày 03/01/1987. Theo quy định tại
Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/06/2000 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về
việc thi hành Luật Hơn nhân và gia đình thì những trường hợp này xem như đã có đăng
ký kết hơn, trong mọi giao dịch của họ được xem là vợ chồng hợp pháp. Nhưng trên
thực tế đối với trường hợp này khi tham gia giao dịch ở một số lĩnh vực khác như cư trú,
đất đai chẳng hạn thì cơ quan tiếp nhận yêu cầu xuất trình giấy chứng nhận kết hôn để
chứng minh quan hệ vợ chồng hợp pháp. Từ đó, đã lộ ra những hạn chế nhất định.
- Ngồi ra, vì pháp luật khơng cơng nhận hơn nhân đồng giới nên khi có tranh chấp
và xung đột, quyền, lợi ích cũng như nghĩ vụ của họ và những người liên quan đều bị
ảnh hưởng.
III, Giải pháp khắc phục :
Để góp phần nâng cao cơng tác quản lý nhà nước, cũng như hoàn thiện hệ thống

pháp luật về điều kiện kết hơn, cần một số Kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật về điều
kiện kết hôn như sau:
Thứ nhất, Tăng cường cơng tác giáo dục, tun truyền: Cần có những biện pháp
giáo dục, tuyên truyền hợp lý để nâng cao tinh thần tuân thủ pháp luật của người dân.
Bên cạnh đó cũng cần có những biện pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả của việc thẩm
định sự tự nguyện kết hơn và nâng cao trình độ của các cán bộ trong các cơ quan nhà
nước như tình trạng người thuộc trường hợp cấm kết hôn vẫn kết hôn.
Thứ hai, Cần sửa đổi khoản 3 điều 8 luật Hôn nhân và gia đình theo hướng giống
như điểm b điều 7 Luật Hơn nhân và Gia đình năm 1986 chỉ quy định người mất năng
lực hành vi dân sự là người khơng có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, khi có
10


u cầu đăng kí kết hơn sẽ được cơ quan giám định tư pháp xác định xem có đủ điều
kiện sức khỏe khơng. Để hạn chế tình trạng nhiều người thực tế đã rơi vào tình trạng mất
năng lực hành vi dân sự nhưng chưa bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự vẫn
được cho đăng ký kết hôn, dẫn đến những hậu quả xấu cho xã hội, Luật Hơn nhân và gia
đình cần quy định chi tiết hơn về trường hợp này theo hướng: trong trường hợp có dấu
hiệu bị mất năng lực hành vi dân sự… thì chính quyền địa phương phải có trách nhiệm
kiểm tra, xem xét trước khi cho đăng ký kết hơn.
Thứ ba, Cần có quy định thủ tục rõ ràng xác minh quan hệ nhân thân của các bên
kết hôn. Cơng tác đăng kí và quản lý hộ tịch cần quy định rõ thủ tục xác minh quan hệ
nhân thân của người kết hôn, kết quả phải được thể hiện bằng văn bản.
Thứ tư, Phát huy một cách tối ưu đối với những quy định trong pháp luật chuyên
ngành. Bởi vì pháp luật chuyên nganh đã được các chuyên gia có kiến thức pháp luật về
chun mơn rất cao và được đúc kết từ kinh nghiệm thực tiễn. Tránh trường hợp luật
chuyên ngành đã quy định khá cụ thể, nhưng khi áp dụng lại bị ràng buộc bởi văn bản
pháp luật khác có liên quan. Từ đó tạo ra khe hở, dẫn đến sự tùy tiện cho người thực
hiện. Cần có quy định của pháp luật thể hiện trong văn bản một cách cụ thể, dễ hiểu, dễ
thực hiện, tránh việc quá nhiều văn bản cùng quy định cho một nội dung hoặc nhiều

Điều, Khoản của văn bản quy định cho một vấn đề, làm cho người thực hiện xác định
dẫn chiếu pháp luật sai.
Thứ năm, Xây dựng hệ thống danh mục các tập quán tốt đẹp trong hôn nhân và gia
đình để áp dụng thống nhất trên phạm vi cả nước.
Thứ sáu, tiếp ứng dần và xây dựng cơ chế pháp lý dành cho hơn nhân đồng giới.
Nhìn chung luật 2014 đã có những điểm mới và phù hợp hơn với quan điểm về tôn
giáo, quan điểm xã hội ở nước ta và những ý kiến về sự trưởng thành và khả năng lập
gia đình.
KẾT LUẬN
Hơn nhân là cơ sở của gia đình, gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình tốt thì xã hội
mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Vì vậy, Nhà nước ta luôn quan tâm củng cố chế
độ hôn nhân. Trong đó, chế định kết hơn được coi là chế định quan trọng, thiết yếu của
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Chế định kết hơn theo Luật Hơn nhân và gia đình
2014 đã được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển chế định kết hôn trong Luật Hơn
nhân và gia đình 1959, 1986 và 2000. Những quy định về kết hôn trong Luật Hôn nhân
và đình đã được sửa đổi, bổ sung một cách hồn thiện hơn, quy định chặt chẽ hơn và
triệt để hơn, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nước ta trong thời kỳ hiện nay.

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013;
2. Bộ luật dân sự 2015;
3. Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014;
4. Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000;
5. Nghị định của Chính phủ số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng kí và quản lí
hộ tịch;
6. Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao số 02/2000/NQ-HĐTP
ngày 23/12/2000 hướng dẫn toà án nhân dân các cấp áp dụng một số quy định của Luật

HNGĐ;
7. Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. CAND, Hà
Nội, 2019, tr. 83 - 107.
8. Tài lệu tham khảo: Trường Đại Học Luật Hà Nội , Phạm Thu Thảo, Tự nguyện kết
hôn-một số vấ đề lý luận và thực tiễn,2012
9. link bài viết: />10. link bài viết: />11. link bài viết: />12. />ngày đăng 26-07-2019, ngày truy cập 19-03-2020



×