Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VỊ TRÍ VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH. LIÊN HỆ THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.64 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
🙠🙠🙠🙠🙠
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
MƠN HỌC: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
VỀ VỊ TRÍ VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN.

MÃ MƠN HỌC: LLCT120405_02
NHĨM THỰC HIỆN:
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. Trần Ngọc Chung

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 11 năm 2022
DANH SÁCH NHĨM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN


HỌC KÌ 1, NĂM HỌC: 2022 – 2023
Nhóm:

Thứ 3 – Tiết 1, 2

Tên đề tài:
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vị trí và chức năng của gia đình. Liên
hệ thực tiễn.

Nhận xét của giáo viên:
....................................................................................................................................................


....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................
....................................................................................................................................................

Ngày.......... tháng.......... năm..........
Giáo viên chấm điểm


MỤC LỤ
PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................................1
2. Mục tiêu của đề tài...............................................................................................1
3. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................2
CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT VỀ VỊ TRÍ VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH
THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN.......................................3
1.1. Khái niệm gia đình............................................................................................3
1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội.........................................................................4
1.2.1. Gia đình là tế bào của xã hội.........................................................................4
1.2.2. Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống
cá nhân của mỗi thành viên.....................................................................................4
1.2.3. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội..................................................4
1.3. Chức năng của gia đình.....................................................................................5
1.3.1. Chức năng tái sản xuất ra con người.............................................................5
1.3.2. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục...................................................................6
1.3.3. Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng........................................................6
1.3.4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình.............7
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ LY HÔN Ở VIỆT NAM.........9
2.1. Thực trạng về vấn đề ly hôn đang diễn ra ở Việt Nam...................................9
2.2. Phân tích thực trạng........................................................................................10
2.3. Nhận xét, bình luận và đề xuất giải pháp cho thực trạng.............................14

KẾT LUẬN.................................................................................................................22
PHỤ LỤC KẾ HOẠCH PHÂN CÔNG VIẾT TIỂU LUẬN...................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong chiều dài phát triển của nhân loại, trải qua biết bao thiên tai, chiến tranh,
dịch bệnh... Con người của chúng ta càng ngày càng phát triển và trong cuộc sống hiện
nay có rất nhiều yếu tố tác động đến sự phát triển của của một con người như là xã hội,
giáo dục, văn hố, gia đình... Nhưng trong các yếu tố đó, yếu tố được coi như là quan
trọng bậc nhất, hàng đầu đối với sự phát triển của con người đó chính là gia đình.
Gia đình cung cấp cho con người chúng ta rất nhiều thứ, từ tình thương, từ sự
giáo dục, từ truyền thống, văn hố, nhân cách sống,...Gia đình khơng chỉ cung cấp cho
mỗi chúng ta những điều nói trên mà gia đình cịn thơng qua chúng ta cung cấp nhiều
điều tốt đẹp cho xã hội, gia đình đào tạo ra một con người tốt, một con người thành đạt
giúp ích cho xã hội, gia đình giáo dục con cái nét sống văn minh, lành mạnh đào tạo ra
một công dân tốt, công dân hiện đại... Như trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (1845),
khi luận giải về những điều kiện, tiền đề cho sự tồn tại của con người, C.Mác đã rất
quan tâm đền vấn đề về hôn nhân và gia đình, nhấn mạnh vai trị của gia đình tới sự
phát triển của xã hội. Cũng trong chủ nghĩa Mác – Lênin đã nhìn nhận hơn nhân và gia
đình là những hiện tượng xã hội, có q trình phát sinh, phát triển do các điều kiện
kinh tế – xã hội quyết định. Qua đó thể hiện những quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về hôn nhân, gia đình một cách cơ bản, đầy đủ và hệ thống.
Và hiện nay không chỉ Việt Nam mà tất cả các nước trên thế giới họ đang
hướng tới xây dựng một xã hội phát triển, vững mạnh, văn minh thông qua gốc rễ cốt
cán đó chính là gia đình. Vì vậy để mọi người có thế hiểu rõ hơn tầm quan trọng của
gia đình đối với một xã hội, một quốc gia, một con người. Chính vì thế nhóm chúng
em chọn đề tài “QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VỊ TRÍ VÀ

CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH. VÀ TỪ ĐÓ LIÊN HỆ VÀO THỰC TIỄN”.
2. Mục tiêu của đề tài
Thông qua các quan điểm, tư tưởng mà chủ nghĩa Mác – Lênin đã đề ra. Từ đó
tìm hiểu, phân tích và làm rõ các nội dung, vấn đề liên quan đến vai trị và vị trí của
gia đình từ đó liên hệ với thực tiễn của xã hội hiện nay ngày càng có càng nhiều các vụ
ly hơn xảy ra gây ảnh hưởng lớn đến vị trí và chứng năng của gia đình. Đưa ra các ví
1


dụ và từ đó phân tich đánh giá đưa ra nhận xét và cuối cùng là đề ra một giải pháp tốt
nhất để giảm thiểu các tình trạng trên.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: đề tài chủ yếu dùng phương pháp phân tích, tổng hợp
và so sánh.
Nguồn tư liệu: nghiên cứu đề tài dựa trên lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về gia
đình. Ngồi ra cịn nghiên cứu dựa trên các bài báo liên quan đến vấn đề gia đình, văn
kiện và trên mạng Internet…

2


CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT VỀ VỊ TRÍ VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH
THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
1.1. Khái niệm gia đình
Với tư cách một hình thức cộng đồng tổ chức đời sống xã hội, gia đình được
hình thành từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Xuất phát nhu cầu
bảo tồn và duy trì nịi giống, từ sự cần thiết phải nương tựa vào nhau để sinh tồn, các
hình thức quần tụ giữa nam giới và nữ giới, những hình thức cộng đồng tổ chức đời
sống gia đình đã xuất hiện. Lịch sử nhân loại đã trải qua nhiều hình thức gia đình: gia
đình đối ngẫu, gia đình một vợ một chồng...

Trên cơ sở của sự phát triển kinh tế – xã hội, các kiểu, dạng tổ chức cộng đồng
mang tính “tự nhiên” ngay từ đầu đã chịu sự quy định của những biến đổi trong sản
xuất, trong đời sống kinh tế – xã hội. Để quan hệ với thiên nhiên, tác động vào thiên
nhiên, con người cần phải quần tụ thành các nhóm cộng đồng. Ban đầu, các quan hệ
chi phối trong những nhóm cộng đồng ấy cịn mang sắc thái tự nhiên, sinh học. Trước
những yêu cầu của sản xuất và sinh hoạt, những đòi hỏi của đời sống kinh tế, các quan
hệ ấy dần trở nên chặt chẽ, giữa các thành viên trong cộng đồng ấy xuất hiện những cơ
chế ràng buộc lẫn nhau phù hợp và thích ứng với những điều kiện sản xuất, sinh hoạt
của mỗi một nền sản xuất. Gia đình dần trở thành một thiết chế xã hội, một hình ảnh
“xã hội thu nhỏ”, nhưng không phải là sự thu nhỏ một cách đơn giản các quan hệ xã
hội. Như vậy, gia đình được coi là một thiết chế xã hội đặc thù, nhỏ nhất, cơ bản nhất.
Nếu như văn hố là tồn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra, nhằm thoả mãn, đáp ứng các nhu cầu của chính mình, thì gia đình khơng
chỉ là một hình thức tổ chức cộng đồng, một thiết chế xã hội mà điều quan trọng gia
đình cịn là một giá trị văn hố xã hội. Tính chất, bản sắc của gia đình lại được duy trì,
bảo tồn, được sáng tạo và phát triển nhằm thoả mãn những nhu cầu của mỗi thành viên
gia đình trong sự tương tác, gắn bó với văn hố cộng đồng dân tộc, cộng đồng giai cấp
và tầng lớp của mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi quốc gia, dân tộc xác định.
Tóm lại, gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành,
duy trì và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ

3


nuôi dưỡng, cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong
gia đình.
1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội
1.2.1. Gia đình là tế bào của xã hội
Có thể ví xã hội là một cơ thể sống hồn chỉnh và khơng ngừng biến đổi được
“sắp xếp, tổ chức” theo nhiều mối quan hệ trong đó gia đình được xem là một tế bào,

một thiết chế cơ sở đầu tiên. Mỗi một chế độ xã hội được sinh thành, vận động và biến
đổi trên cơ sở một phương thức sản xuất xác định và có vai trị quy định đối với gia
đình. Nhưng xã hội ấy lại tồn tại thơng qua các hình thức kết cấu và quy mơ gia đình.
Mỗi gia đình hạnh phúc, hịa thuận thì cả cộng đồng và xã hội tồn tại và vận động một
cách êm thấm. Mục đích chung của sự vận động biến đổi của xã hội trước hết vì lợi ích
của mỗi cơng dân, mỗi thành viên xã hội và mỗi gia đình – tổ chức và thiết chế xã hội
đầu tiên, cơ sở nơi quần tụ của mỗi công dân và thành viên của xã hội. Nhưng lợi ích
của mỗi cơng dân, mỗi thành viên xã hội lại chịu sự chi phối của lợi ích các tập đoàn
giai cấp thống trị trong xã hội, trong điều kiện xã hội phân chia thành giai cấp.
1.2.2. Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống
cá nhân của mỗi thành viên
Từ khi còn nằm trong bụng mẹ, đến lúc lọt lịng và suốt cuộc đời, mỗi cá nhân
đều gắn bó chặt chẽ với gia đình. Gia đình là mơi trường tốt nhất để mỗi cá nhân được
yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc, trưởng thành, phát triển. Sự yên ổn, hạnh phúc của
mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng cho sự hình thành và phát triển nhân cách,
thể lực, trí lực để trở thành cơng dân tốt cho xã hội. Chỉ trong mơi trường n ấm của
gia đình, cá nhân mới cảm thấy bình n, hạnh phúc, có động lực để phấn đấu trở
thành con người xã hội tốt.
1.2.3. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội
Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên mà mỗi cá nhân sinh sống, có ảnh hưởng
rất lớn đến sự hình thành và phát triển từng người. Chỉ trong gia đình, mới có thể thấy
được hệ thống tình cảm, sâu đậm giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái, anh chị em với
nhau mà khơng có cộng đồng nào được và có thể thay thế.
4


Tuy nhiên, mỗi cá nhân lại không thể chỉ sống trong quan hệ tình cảm gia đình,
mà có nhu cầu quan hệ xã hội, quan hệ với những người khác, ngồi các thành viên
trong gia đình. Mỗi nhân khơng chỉ là thành viên của gia đình mà cịn là thành viên
của xã hội. Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình đồng thời cũng là quan hệ giữa

các thành viên của xã hội. Khơng có bên ngồi cá nhân gia đình, cũng khơng có bên
ngồi cá nhân xã hội. Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên đáp ứng nhu cầu quan hệ
xã hội của mỗi cá nhân. Gia đình cũng là mơi trường đầu tiên mà mỗi cá nhân được
học và thực hiện quan hệ xã hội.
Ngược lại, gia đình cũng là một trong những cộng đồng để xã hội tác động đến
cả nhân. Nhiều thông tin, hiện tượng của xã hội thơng qua lăng kính gia đình mà tác
động tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo đức, lối
sống, nhân cách... Xã hội nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn về mỗi cá nhân khi xem
xét họ trong các quan hệ xã hội và quan hệ với gia đình. Có những vấn đề quản lý xã
hội phải thơng qua hoạt động của gia đình để tác động đến cá nhân. Nghĩa vụ và
quyền lợi của mỗi cá nhân được thực hiện với sự hợp tác của các thành viên trong gia
đình. Chính vì vậy, ở bất kỳ xã hội nào, giai cấp cầm quyền muốn quản lý xã hội theo
yêu cầu của mình, cũng đều coi trọng việc xây dựng và củng cố gia đình. Vậy nên, đặc
điểm của gia đình ở mỗi chế độ xã hội có khác nhau. Trong xã hội phong kiến, để củng
cố, duy trì chế độ bóc lột, với gia trưởng, độc đốn, chun quyền đã có những quy
định rất khắt khe đối với phụ nữ, đòi hỏi người phụ nữ phải tuyệt đối trung thành với
người chồng, người cha – những người đàn ơng trong gia đình. Trong q trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, để xây dựng một xã hội thật sự bình đẳng, con người được giải
phóng, giai cấp công nhân chủ trương bảo vệ chế độ hôn nhân một vợ một chồng, thực
hiện sự bình đẳng trong gia đình, giải phóng phụ nữ. Vì vậy, quan hệ gia đình trong
chủ nghĩa xã hội có đặc điểm khác về chất so với các chế độ xã hội trước đó.
1.3. Chức năng của gia đình
1.3.1. Chức năng tái sản xuất ra con người
Tái sản xuất ra chính bản thân con người là một chức năng cơ bản và riêng có
của gia đình. Chức năng này bao gồm các nội dung cơ bản: tái sản xuất, duy trì nịi

5


giống, ni dưỡng nâng cao thể lực, trí lực bảo đảm tái sản xuất nguồn lao động và sức

lao động cho xã hội.
Hoạt động sinh con đẻ cái của con người trước hết xuất phát từ nhu cầu tồn tại
của chính con người, của xã hội. Chức năng này đáp ứng một nhu cầu rất tự nhiên,
chính đáng của con người. Nhưng tốc độ gia tăng dân số, mật độ dân cư... và nhiều
yếu tố khác liên quan đến các vấn đề chiến lược và trình độ phát triển kinh tế, xã hội...
Vì vậy sinh đẻ của mỗi gia đình khơng chỉ là việc riêng của gia đình mà cịn là một nội
dung quan trọng của mỗi quốc gia và toàn nhân loại. Chiến lược về dân số hợp lý sẽ
trực tiếp tạo ra một cách có kế hoạch nguồn nhân lực mới phù hợp với yêu cầu phát
triển kinh tế – xã hội, là mục tiêu, động lực quan trọng nhất của phát triển kinh tế, văn
hoá, xã hội.
1.3.2. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục
Nội dung của giáo dục gia đình tương đối tồn diện, cả giáo dục tri thức và kinh
nghiệm, giáo dục đạo đức và lối sống, giáo dục nhân cách, thẩm mỹ, ý thức cộng
đồng. Phương pháp giáo dục của gia đình cũng rất đa dạng, song chủ yếu là phương
pháp nêu gương, thuyết phục, chịu ảnh hưởng khơng ít của tư tưởng, lối sống, tâm lý,
gia phong của gia đình truyền thống. Dù giáo dục xã hội đóng vai trị ngày càng quan
trọng, có ý nghĩa quyết định, nhưng có những nội dung và phương pháp giáo dục gia
đình mang lại hiệu quả lớn khơng thể thay thế. Giáo dục gia đình cịn bao hàm cả tự
giáo dục. Do đó, chủ thể giáo dục gia đình cơ bản và chủ yếu vẫn là thế hệ cha mẹ,
ơng bà đối với con cháu.
Giáo dục gia đình là một bộ phận và có quan hệ hỗ trợ, bổ sung hoàn thiện thêm
cho giáo dục nhà trường và xã hội. Do đó, dù giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội
có phát triển lên trình độ nào, giáo dục gia đình vẫn được coi là một thành tố của nền
giáo dục xã hội nói chung. Giáo dục gia đình ln trở thành bộ phận quan trọng, hợp
thành giáo dục nói chung phục vụ các lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị trong bất cứ
thời đại nào, khi xã hội còn giai cấp và phân chia giai cấp.
1.3.3. Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
Hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống vật chất là một chức năng cơ bản của gia
đình. Hoạt động kinh tế, hiểu theo nghĩa đầy đủ gồm có hoạt động sản xuất kinh doanh
6



và hoạt động tiêu dùng để thoả mãn các yêu cầu ăn mặc, ở, đi lại của mỗi thành viên
và của gia đình.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiều gia đình có điều kiện (có sở
hữu hoặc tham gia sở hữu tư liệu sản xuất) đều có thể trở thành một đơn vị kinh tế tự
chủ trong sản xuất kinh doanh. Để có thể phát huy mọi tiềm năng sáng tạo trong kinh
tế, đảng và nhà nước đề ra và thực hiện các chính sách sao cho mọi gia đình, mọi cá
nhân có thể làm giàu chính đáng bằng hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ
pháp luật.
Cùng với sản xuất kinh doanh, các gia đình và hộ gia đình cơng nhân viên chức,
cán bộ hành chính sự nghiệp, giáo viên, nhà khoa học, trí thức văn nghệ sĩ... cũng
được khuyến khích trong lao động sáng tạo, tăng thu nhập chính đáng từ lao động sáng
tạo của mình. Các loại gia đình này tuy khơng trực tiếp thực hiện chức năng sản xuất
kinh doanh, nhưng cũng thực hiện một nội dung quan trọng của hoạt động kinh tế: bảo
đảm hoạt động tiêu dùng đáp ứng các nhu cầu vật chất cơ bản của con người, qua đó
kích thích sự phát triển hoạt động kinh tế của xã hội.
Thực hiện tốt chức năng kinh tế sẽ tạo ra tiền đề và cơ sở vật chất vững chắc
cho tổ chức đời sống của gia đình. Đương nhiên, ngồi cơ sở kinh tế, thì cịn nhiều yếu
tố khác mới đảm bảo cho một gia đình trở nên văn minh, hạnh phúc.
1.3.4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình
Nếu như trình độ sản xuất kinh doanh, hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống
gia đình là điều kiện và tiền đề vật chất của xây dựng gia đình, thì thoả mãn các nhu
cầu tâm sinh lý được coi là một chức năng có tính văn hố – xã hội của gia đình. Chức
năng này có vị trí đặc biệt quan trọng, cùng với các chức năng khác tạo ra khả năng
thực tế cho xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến giới
tính và giới, tâm lý lứa tuổi và thế hệ, những căng thẳng mệt mỏi về thể xác và tâm
hồn trong lao động và cơng tác... nhiều khi có thể được giải quyết trong một mơi
trường gia đình hồ thuận. Sự hiểu biết, cảm thông, chia sẻ và đáp ứng các nhu cầu
tâm sinh lý giữa vợ – chồng, cha mẹ – con cái... làm cho mỗi thành viên có điều kiện

sống lạc quan, khoẻ mạnh về thể chất và tinh thần là những tiền đề cần thiết cho một
thái độ, hành vi tích cực trong cuộc sống gia đình và xã hội.
7


Gia đình là một thiết chế đa chức năng. Mọi thành viên gia đình, tuỳ thuộc vào
vị thế, lứa tuổi... đều có quyền và nghĩa vụ thực hiện các chức năng nói trên. Trong đó,
người phụ nữ có vai trị đặc biệt quan trọng, bởi họ là người do đặc thù tự nhiên – sinh
học, đảm nhận và thực hiện một số thiên chức không thể thay thế. Tuy nhiên, trong
quá trình lịch sử, phụ nữ là những người vất vả, cực nhọc và chịu nhiều thiệt thòi nhất
cả trong quan hệ xã hội lẫn trong quan hệ gia đình. Do đó, giải phóng phụ nữ được coi
là một mục tiêu quan trọng của cách mạng xã hội chủ nghĩa, cần phải được bắt đầu từ
gia đình.
Gia đình, thơng qua thực hiện các chức năng khách quan vốn có của mình, có
vai trị rất quan trọng đối với sự phát triển xã hội, nhưng chỉ với tư cách là của cái bộ
phận đối với cái toàn thể. Mọi quan điểm tuyệt đối hoá, đề cao quá mức hay phủ nhận,
hạ thấp vai trị của gia đình đều là sai lầm.

8


CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ LY HÔN Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng về vấn đề ly hôn đang diễn ra ở Việt Nam
Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng khi cả hai người đang cịn sống, do
cả hai bên vợ chồng thuận tình và được Tịa án cơng nhận bằng quyết định cơng nhận
thuận tình ly hơn hoặc chỉ do một bên u cầu, được Tòa án đưa ra xét xử và phán
quyết bằng một bản án cho ly hôn. Ly hôn là hiện tượng xã hội bất bình thường nhưng
cần thiết để đảm bảo quyền tự do trong hơn nhân và nó như là biện pháp để củng cố
hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.
Tuy nhiên trong những năm gần đây tình trạng ly hôn ngày một gia tăng, năm

sau cao hơn năm trước, trong đó phần lớn là giới trẻ. Họ thường ly hơn trong vịng 5
năm đầu chung sống. Theo số liệu thống kê, trên địa bàn thành phố ng Bí, tỉnh
Quảng Ninh năm 2016 thụ lý 330 vụ án ly hôn; năm 2017 con số này là 398 vụ, tăng
68 vụ = 20,6% so với cùng kỳ năm 2016. Tại TP. Hồ Chí Minh, bình qn cứ 2,7 cặp
kết hơn lại có 1 cặp ly hơn; trong đó độ tuổi ly hơn dưới 35 tuổi chiếm 30% và năm
sau có xu hướng cao hơn năm trước. Trung bình mỗi tháng, thành phố Hồ Chí Minh có
từ 80–100 vụ ly hơn tại mỗi quận, huyện. Theo Báo cáo thống kê của Tịa án tỉnh Bình
Dương, năm 2013 án ly hơn chiếm 92,54% án hơn nhân và gia đình với 4.519 vụ. Năm
2014, Tòa án nhân dân 2 cấp đã thụ lý 4.937 vụ, trong đó giải quyết được 4.763 vụ,
tăng 418 vụ so với năm 2013. Năm 2015, thụ lý 5.847 vụ, trong đó đã giải quyết
5.730 vụ, tăng 910 vụ so với năm 2014. Năm 2017, thụ lý 6.759 vụ án ly hơn, tăng 912
vụ so với năm 2015.
Phân tích về độ tuổi trong các vụ ly hơn thì thấy: Trong số án “Ly hơn” năm
2017, có hơn 40% các cặp vợ chồng ở dưới độ tuổi 30 (trong đó số các cặp vợ chồng
từ 22 tuổi trở xuống chiếm khoảng 3%); khoảng 36% ở độ tuổi 30 – 40, phần lớn trong
số đó (chiếm tới khoảng 90%) là có con nhỏ – đây là đối tượng dễ bị tổn thương và
thiệt thịi nhất khi bố và mẹ ly hơn; các cặp vợ chồng ly hôn trong độ tuổi từ 40–50
chiếm khoảng 15%; còn lại là các cặp vợ chồng có độ tuổi khá lớn (trên 50 tuổi) chiếm
khoảng 9%, họ đều có con đã thành niên, thậm chí là được lên chức ơng, bà.
Có thể nói, ly hơn là sự lựa chọn của hai người cả vợ và chồng hoặc đơn
phương từ một phía chồng hoặc vợ nhưng hệ lụy kèm với nó là cả một vấn đề, Việc ly
9


hơn có thể làm ảnh hưởng tới cuộc sống của những người xung quanh; đặc biệt là ảnh
hưởng đến tâm sinh lý của những đứa trẻ; để lại gánh nặng cho xã hội nếu như con cái
của họ bị bỏ rơi, khơng được chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục chu đáo; chúng sẽ thiếu
đi sự chăm sóc, tình cảm của người cha hoặc người mẹ, thậm chí cả hai. Từ đó sẽ ảnh
hưởng tới q trình phát triển nhân cách của những đứa trẻ, làm chúng dễ sa ngã vào
những tệ nạn xã hội... Đây cũng là một trong những lý do vì sao mà trong những năm

gần đây tình trạng tội phạm tuổi vị thành niên có xu hướng gia tăng.
2.2. Phân tích thực trạng
● Xã hội phát triển và hội nhập, nhiều gia đình bị tác động mạnh mẽ
Trong bối cảnh xã hội phát triển và hội nhập, gia đình Việt Nam đang có những
biến đổi mạnh mẽ về cấu trúc, hình thái, quy mơ và các mối quan hệ trong gia đình.
Những giá trị, chuẩn mực truyền thống đã và đang bị tác động, thay đổi, xen lẫn với
những chuẩn mực, hành vi của xã hội mới. Mối quan tâm, chăm sóc của một bộ phận
cha mẹ dành cho con cái dường như bị suy giảm. Nền tảng đạo đức xã hội, nhân cách
của một số trẻ em đang có nguy cơ bị lung lay, bởi chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá
nhân và thiếu vắng sự chăm sóc, bảo vệ của gia đình.
Ðiều đáng lo ngại hiện nay là, vì những lý do khác nhau, một bộ phận gia đình
đã khơng thật sự trở thành “tổ ấm” cho mỗi con người. Nếu cấu trúc gia đình lỏng lẻo,
liên kết giữa các thành viên gia đình yếu, các thành viên gia đình khơng được đối xử
bình đẳng, cha mẹ thiếu gương mẫu và khơng có thời gian hoặc khơng quan tâm chăm
sóc, giáo dục trẻ em, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, xung đột, bạo lực gia
đình gia tăng... thì gia đình khó có thể làm tốt chức năng giáo dục, các thành viên
trong gia đình khó hịa thuận, hạnh phúc và đặc biệt con cái khó có thể sống trong tình
u thương, ấm no và hình thành nhân cách tốt.
Có thể nêu hai vấn đề bất cập chủ yếu trong đời sống gia đình có liên quan mật
thiết với giáo dục đối với các thành viên gia đình như sau:
Mâu thuẫn, xung đột gia đình mà đỉnh điểm là bạo lực gia đình nghiêm trọng,
trong đó nổi bật nhất là bạo lực của người chồng đối với người vợ và bạo lực của cha
mẹ đối với con cái. Những trẻ em sinh ra và lớn lên trong các gia đình thường xuyên
phải chứng kiến hành vi bạo lực của cha đối với mẹ, những cảnh mắng chửi nhau giữa
10


các thành viên gia đình, những lần bị địn roi từ cha mẹ, cũng có xu hướng áp dụng các
hành vi bạo lực đối với người khác trong tương lai.
● Gắn với các mâu thuẫn, xung đột và bạo lực gia đình là vấn đề ly hơn.

Qua nghiên cứu thì thấy: Nguyên nhân phần lớn và sâu xa dẫn tới tình trạng ly
hơn ngày càng gia tăng, đặc biệt với các cặp vợ chồng trẻ là do họ thiếu kỹ năng sống.
Họ bước vào cuộc sống hôn nhân khi tuổi đời cịn q trẻ, chưa có sự chuẩn bị về tâm
lý, kinh tế, sức khỏe và những hiểu biết cần thiết cho cuộc sống gia đình, q đề cao
cái tơi của bản thân, ít quan tâm đến chồng hoặc vợ, khiến phần lớn các cặp vợ chồng
trẻ nảy sinh mâu thuẫn ngay từ những tháng đầu, năm đầu của cuộc hơn nhân. Trong
khi đó nhận thức về cuộc sống gia đình, ý nghĩa của hơn nhân và tình u cịn hời hợt
đã khiến họ không đủ bản lĩnh và kỹ năng giải quyết, vượt qua các mâu thuẫn, dẫn đến
ly hôn. Chiếm một phần trong số các cặp ly hôn là do họ kết hơn ngồi ý muốn khi
những hiểu biết về kiến thức giới tính có phần hạn chế.
Ngun nhân thứ hai là do kinh tế khó khăn, nghề nghiệp không ổn định, thu
nhập bấp bênh, sinh con sớm khiến vợ chồng thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn,
không tập trung đồng thuận để xây dựng kinh tế gia đình, nuôi dạy con cái. Hầu hết
trong các Quyết định công nhận thuận tình ly hơn đều thể hiện các cặp vợ chồng đến
xin ly hơn khơng có tài sản chung.
Ngồi ra, còn những nguyên nhân khác như: do tư tưởng lạc hậu, người vợ
không sinh được con trai nên người chồng ngoại tình hoặc ly hơn để lấy vợ mới với
mục đích có con “nối dõi tơng đường”; vấn đề về bạo lực gia đình, tệ nạn xã hội; vợ
chồng bất hòa, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do nhận thức về xã hội, pháp luật chưa
đầy đủ, thậm chí nhiều trường hợp người chồng nghiện ngập ma túy, cờ bạc, rượu
chè… dẫn đến người vợ không chịu được phải ly hơn. Nhiều vụ án được Tịa án nhân
dân thành phố ng Bí đưa ra xét xử là do người chồng đang trong thời gian thụ lý án
vì có hành vi vi phạm pháp luật. Có những vụ ly hơn, người vợ là nguyên đơn nhưng
phải viết đơn đề nghị Tịa bảo vệ mình khi tham dự phiên tịa vì thường xuyên bị
người chồng đe dọa, đánh đập do thường xuyên dùng ma tuý “đá” (một loại ma túy
tổng hợp); vấn đề bạo lực gia đình xảy ra cũng xuất phát phần lớn từ người chồng
dùng ma túy tổng hợp bị ảo giác, về đánh dọa vợ con.
11



Nhất là các vụ ly hơn có con nhỏ, nếu bố mẹ xử sự sau ly hôn không khéo léo
và thiếu tế nhị thì các cháu cũng là người chịu rủi ro nhiều hơn trong cuộc sống, cá
biệt cũng dễ bị rơi vào những hành vi lệch lạc trong tương lai.
Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, chúng
ta đang chứng kiến một hiện tượng khá bất ổn ở khơng ít gia đình, đó là việc thiếu
vắng sự chăm sóc, giáo dục của các bậc cha mẹ đối với con cái, dù họ vẫn sống cùng
nhà với các con, cả đối với những người đang vật lộn mưu sinh cũng như các gia đình
khá giả hơn. Vẫn cịn một tỷ lệ khơng nhỏ người cha và người mẹ không dành thời
gian để chăm sóc con cái. Sự thiếu quan tâm của cha mẹ đối với con cái có thể dẫn đến
nhiều hậu quả tiêu cực cả về mối liên hệ tình cảm cha mẹ – con cái hoặc tăng thêm
nguy cơ đối với các hành vi lệch chuẩn trong cuộc sống. Không ít trẻ em trong các gia
đình khơng được cha mẹ quan tâm đã bỏ học, đi lang thang bụi đời, để cuối cùng rơi
vào vịng xốy của các tệ nạn xã hội như cờ bạc, nghiện hút, cướp giật, mại dâm, trộm
cắp... gần đây nhất nhiều cháu gái nhỏ bị xâm hại rất thương tâm.
Có nhiều nguyên nhân cụ thể của tình hình nêu trên nhưng điều quan trọng nhất
là chúng ta chưa nhận thức đầy đủ vai trò của gia đình với tư cách là một thiết chế xã
hội đặc thù có mối quan hệ chặt chẽ với các thiết chế khác trong hệ thống xã hội tổng
thể, sự vững mạnh hay bất cập của gia đình sẽ có tác động lớn đối với việc quản lý xã
hội nói chung. Cũng từ ngun nhân đó, giáo dục gia đình chưa được coi trọng. Bản
thân một số người làm cha làm mẹ chưa thật sự gương mẫu với các con, đơi khi cịn là
hình ảnh xấu cho các con làm theo.
Về mặt xã hội, mặc dù Ðảng và Nhà nước đã quan tâm đến việc xây dựng hành
lang pháp lý tạo tiền đề cho các hoạt động xây dựng và củng cố gia đình, tuy nhiên,
hoạt động triển khai và thực thi chính sách gia đình vẫn cịn nhiều hạn chế. Nhiều văn
bản luật và chính sách chưa được nhận thức đầy đủ. Cơ chế phối hợp triển khai thực
hiện chính sách gia đình chưa đồng bộ. Ðội ngũ cán bộ chun trách về cơng tác gia
đình ở cấp cơ sở còn thiếu các kỹ năng cần thiết và gặp nhiều khó khăn trong việc xử
lý các vấn đề về gia đình.
● Về vấn đề giáo dục


12


Trong điều kiện hiện nay, khi khá nhiều phương pháp giáo dục gia đình truyền
thống khơng cịn được coi trọng như trước, đồng thời những phương pháp mới lại
chưa thật định hình, thì việc giáo dục trong gia đình ở nước ta đã có những lúng túng,
vướng mắc. Nhiều gia đình, trước hiện tượng con cái hư hỏng đã quay trở về với
những phương pháp cổ truyền, nghiêm khắc, khắt khe và thậm chí khơng ngần ngại sử
dụng địn roi với chúng. Có nhiều gia đình cho đến nay vẫn còn áp dụng những quy
chuẩn chặt chẽ được gọi là “gia quy”, “gia giáo”, “gia phong” truyền thống mà nhiều
khi đã xâm phạm cả quyền trẻ em.
Bên cạnh đó cũng có nhiều gia đình tiếp thu những phương pháp giáo dục cởi
mở hơn với con trẻ, chỉ khuyên bảo, giải thích, thậm chí nng chiều, chỉ cốt để con
trẻ nhận thức được những điều mà họ cho là đúng đắn. Cũng có khơng ít gia đình, do
bận bịu cơng việc kiếm sống đã không coi trọng việc giáo dục trong gia đình, bng
lỏng con cái, ỷ lại, trơng chờ vào nhà trường, cộng đồng và xã hội.
Trong bối cảnh đó, để nâng cao vai trị của giáo dục gia đình, chúng ta cần có
sự nghiên cứu kế thừa sâu sắc các giá trị giáo dục gia đình truyền thống, kết hợp với
những xu hướng giáo dục hiện đại, xây dựng những quy chuẩn mới cho giáo dục gia
đình. Nhưng trên thực tế, không phải bao giờ sự quan tâm, đầu tư chăm lo cho việc
học hành của con cái cũng tỷ lệ thuận với việc con cái học tập giỏi giang, có ý chí,
ham học hỏi. Có những gia đình điều kiện kinh tế khó khăn nhưng do được giáo dục
đầy đủ nên kết quả học tập của con cái vẫn rất tốt, nhưng cũng có những gia đình đủ
đầy về vật chất nhưng con cái lại không muốn học, thậm chí thích chơi bời lêu lổng.
Các cụ ta ngày xưa coi việc thường xuyên gần gũi tâm sự với con cái là rất quan
trọng. Nó sẽ giúp cha mẹ và con cái hiểu nhau hơn, cha mẹ dễ định hướng cho con cái,
giúp chúng sửa chữa sai lầm một cách kịp thời. Tuy nhiên, việc giáo dục con cái trong
gia đình chỉ đạt được hiệu quả khi chính các bậc cha mẹ cũng phải thực sự là những
tấm gương sáng cho con cái học tập. Những điều tra của chúng tơi cho thấy, có khoảng
75% số người được hỏi khẳng định rằng muốn giáo dục tốt các con, bản thân các bậc

cha mẹ phải gương mẫu.
Những nghiên cứu gần đây đã cho thấy vai trò của những người cao tuổi trong
việc giáo dục gia đình là hết sức quan trọng. Nhiều gia đình khẳng định rằng, để tăng
13


cường vai trị của giáo dục gia đình việc có 3 thế hệ cùng sống trong một mái nhà là
một yếu tố rất thuận lợi. Các số liệu điều tra xã hội học đã chỉ ra rằng, người cao tuổi
là nhóm tuổi được trẻ em trút bầu tâm sự nhiều nhất trong gia đình. Với câu hỏi
“Khi mắc lỗi và nếu bị hình phạt, em đã tìm đến ai để tâm sự?”. Qua khảo sát, kết quả
cụ thể như sau: Ông bà 60,5%; bạn thân 58,4%; mẹ 27,6%; bố 14,2%; thầy cô 1,8% và
người lớn khác là 1,4%. Như vậy, bên cạnh bạn bè thân thiết thì ơng bà chính là đối
tượng mà các em cảm thấy gần gũi và dễ tâm sự nhất.
Để tăng cường vai trò của giáo dục gia đình thì sự phối hợp giữa giáo dục gia
đình với việc hỗ trợ của cộng đồng và nhà trường là hết sức cần thiết. Trong những
năm gần đây, nhiều địa phương, cơ sở đã chủ động, sáng tạo nhiều hình thức chăm
sóc, giáo dục trẻ em tại cộng đồng, phối hợp gia đình và cộng đồng trong giáo dục.
Nhiều địa phương đã có các hình thức tun dương những tấm gương hiếu thảo của
con cháu đối với ông bà, cha mẹ, những tấm gương trong sáng về tình yêu, tình bạn,
về sự thủy chung son sắt vợ chồng trong cộng đồng dân cư.
Tóm lại: Về phía các gia đình, sự thiếu quan tâm đến việc giáo dục gia đình là
một nguyên nhân quan trọng khiến cho gia đình chưa phát huy được vai trị của nó với
tư cách là mơi trường tạo nguồn nhân lực có chất lượng tốt cho xã hội. Nhiều gia đình
vẫn khốn trắng cho xã hội và nhà trường việc giáo dục trẻ em. Một số khơng ít các
bậc cha mẹ chưa dành được thời gian thích đáng để quan tâm tới con cái. Ngồi ra,
nhiều bậc cha mẹ cịn thiếu kỹ năng và phương pháp giáo dục con cái một cách khoa
học.
Một vấn đề cần đặc biệt lưu tâm là nâng cao mức sống của các gia đình ở nhiều vùng
khó khăn cũng là một yêu cầu đặt ra nhằm tạo điều kiện cho các gia đình quan tâm,
chăm sóc và giáo dục con cái một cách tốt hơn.

2.3. Nhận xét, bình luận và đề xuất giải pháp cho thực trạng
● Nhận xét
Gia đình ln được xác định “là tế bào của xã hội”. Xã hội càng phát triển,
chức năng gia đình cũng có những chuyển đổi. Vì vậy, một thực tế rất rõ, ai cũng nhận
thấy là hầu như mọi vấn đề của gia đình ngày nay đều là những vấn đề của xã hội với
mức độ khác nhau. Như bước vào thời kỳ kinh tế thị trường và hội nhập, đời sống xã
14


hội có nhiều thay đổi, có mặt tích cực như bên cạnh những gia đình vẫn duy trì mái ấm
gia đình nhiều thế hệ, đã xuất hiện nhiều gia đình khá giả sống độc lập theo xu hướng
hiện đại, văn minh, con cái phát triển khá toàn diện. Bên cạnh đó, cũng có những tác
động tiêu cực ảnh hưởng đến gia đình khá nhanh, những hiện tượng như nề nếp gia
phong bị xem nhẹ, nhiều giá trị văn hóa gia đình truyền thống có bị mai một, yếu tố
thực dụng gia tăng, cũng như nhiều tệ nạn xã hội đang tiếp tục xâm nhập vào các gia
đình, đặc biệt là lớp trẻ.
Một vấn đề nữa là, tình cảm vợ chồng cũng bị ảnh hưởng không nhỏ bởi nhịp
sống hiện nay. Các cặp vợ chồng mãi lao vào cuộc sống vì “cơm áo, gạo tiền” đã bỏ
quên sự chia sẻ tình cảm với nhau. Chính điều đó đã khiến khơng ít cặp vợ chồng lựa
chọn quyết định ly hơn khi tình yêu trong hôn nhân đã bị nguội lạnh. Số vụ ly hôn tăng
lên hàng năm là một bằng chứng thực tế. Nếu năm 2000 chỉ có 51.361 vụ ly hơn thì
năm 2005 đã tăng lên 65.929 vụ và 90.092 vụ vào năm 2009, con số này tăng lên
18.308 vụ vào năm 2013 và 27.948 vụ của năm 2017. Trong đó, đáng báo động tình
hình ly hơn ở đồng bằng sơng Cửu Long cao nhất của cả nước, có khoảng 8.830 vụ
năm 2017 so với 4.951 vụ của đồng bằng sông Hồng, 5.686 vụ của Đơng Nam Bộ.
Những ngun nhân chính dẫn đến tình trạng ly hơn ngày càng tăng cao như
hiện nay:
– Điều kiện kinh tế xã hội và sự phát triển về tâm sinh lý: giới trẻ thường yêu
nhanh, cưới vội, chưa tìm hiểu kỹ về nhau, thiếu sự chuẩn bị tâm lý, cũng như chưa
được trang bị về kiến thức tiền hôn nhân, các kỹ năng sống trước khi bước vào đời

sống vợ chồng. Vì vậy, khi bắt đầu cuộc sống gia đình với nhiều khó khăn, khi xảy ra
mâu thuẫn họ không biết cách xử lý, giải quyết dẫn đến hơn nhân đổ vỡ là điều khó
tránh khỏi.
– Về điều kiện kinh tế gia đình: sau khi kết hôn các đôi vợ chồng trẻ phải tự lo
cho cuộc sống gia đình trong khi chưa có nghề nghiệp ổn định cùng với đó là sinh con
sớm, điều kiện kinh tế chưa đảm bảo cho cuộc sống riêng, kinh tế gia đình gặp nhiều
khó khăn, dẫn đến hụt hẫng, bất mãn, tranh cãi mâu thuẫn không thể tháo gỡ và kết
cục là xin ly hôn. Ngược lại, nhiều gia đình vợ chồng có nghề nghiệp ổn định, điều
kiện kinh tế khá giả, nhưng vợ chồng lo làm ăn kinh tế, thiếu quan tâm đến vợ, chồng
15


và các thành viên trong gia đình, tình cảm, vợ chồng dần phai nhạt sinh ra nghi kỵ
ghen tuông phát sinh mâu thuẫn dẫn đến ly hôn.
– Hay do sinh con một bề: trong xã hội ta ngày nay tư tưởng “trọng nam khinh
nữ” khơng cịn nặng nề như xưa, nhưng vẫn có khơng ít trường hợp người chồng vẫn
cịn tư tưởng chuộng con trai, nên khi vợ sinh con một bề, người chồng chán nản bỏ bê
công việc gia đình, với trăm ngàn lý do để chửi bới, hành hạ đánh đập vợ con
– Bạo lực gia đình: Bạo lực gia đình để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng về thể
chất, tâm lý trực tiếp cho bản thân phụ nữ mà còn đối với cả trẻ em, khi bạo lực xảy ra
bản thân người trong cuộc bị xúc phạm về danh dự, nhân phẩm và thể chất, nên khơng
cịn tìm thấy sự hồ hợp trong cuộc sống mà chỉ cịn sự ức chế và sợ hãi nên họ khơng
thể chịu đựng và dẫn đến ly hôn.
– Nguyên nhân do ngoại tình: từ cả hai phía, có thể người chồng hoặc người vợ.
Nhất là trường hợp người chồng hoặc vợ đi làm ăn xa nhà hoặc thiếu quan tâm vun
đắp tình cảm, nên dễ dẫn đến chuyện ngoại tình và ly hôn là điều không tránh khỏi.
– Xu hướng lấy chồng ngoại: với chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế,
những năm gần đây một số người nước ngoài đến Việt Nam đầu tư sản xuất kinh
doanh, du lịch… là đối tượng sáng giá cho các cô gái Việt Nam có tư tưởng sính ngoại,
muốn đổi đời mà không vất vả lao động nên đánh liều chạy theo đồng tiền, bất chấp

tuổi tác chênh lệch, phong tục tập quán, quan niệm sống…Tuy nhiên khi đi vào đời
sống gia đình với bao khó khăn về ngơn ngữ, tuổi tác, phong tục tập qn, khơng thể
hịa hợp…
– Do mâu thuẫn xung đột với các thành viên trong gia đình. Nhất là mối quan
hệ Mẹ chồng và nàng dâu, vì là hai người ở hai thế hệ khác nên sẽ rất khó để dung hịa
trong cách sống, lối suy nghĩ cũng như những bất đồng quan điểm trong cách chăm
sóc, ni dạy trẻ, lối sống, cách nghĩ, cách làm... nên nảy sinh mâu thuẫn khơng thể
hố giải được cũng là ngun nhân dẫn đến ly hơn.
Ngồi các ngun nhân trên cịn có nguyên nhân tác động, đó là sự phát triển về
các dịch vụ hỗ trợ gia đình như giáo dục, y tế, dịch vụ nội trợ, dịch vụ giải trí... đã thay
thế dần các chức năng trước đây chỉ gia đình mới có thể đảm nhiệm được như chăm
sóc, dạy dỗ con cái, nấu ăn… nên rất nhiều bạn trẻ chưa nhận thức được vị trí, vai trị
16


của gia đình là quan trọng, các thành viên thiếu quan tâm lẫn nhau, cuộc sống gia đình
nhàm chán khơng còn là điểm tựa vững chắc, là tổ ấm hạnh phúc…
Chính vì thế, quan tâm củng cố, ổn định và xây dựng gia đình, chính là để xóa
bỏ những khó khăn và thách thức đang làm suy yếu gia đình, suy yếu động lực của sự
phát triển. Giải quyết tốt các vấn đề của gia đình, là giải quyết tốt các vấn đề xã hội, là
cơ sở, điều kiện để mỗi gia đình – một tế bào bền vững và cũng là “tổ ấm” thật sự của
mỗi thành viên và là mơi trường chắc chắn tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho đất
nước để có được những đóng góp, nỗ lực cao nhất cho mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”.
● Bình luận
Gia đình là hiện tượng xã hội khách quan, có biểu hiện mối quan hệ giữa người
với người. Đó là sự tồn tại khách quan khơng thể xóa bỏ được. Sự tồn tại của gia đình
có liên quan tới nhiều vấn đề xã hội và các mối quan hệ trong xã hội trong đó có lĩnh
vực pháp luật. Việc nghiên cứu xã hội học gia đình có ý nghĩa thực tiễn hết sức quan
trọng đối với lĩnh vực pháp luật, thể hiện trên cả ba phương diện: hoạt động lập pháp,

hành pháp và tư pháp.
Gia đình là bộ “giảm xóc” khổng lồ của mọi thời đại. Vấn đề gia đình, do vậy,
khơng chỉ dừng ở giá trị lý luận, mà cịn có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Hiểu rõ điều này,
trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc
biệt cho việc xây dựng gia đình Việt Nam mới. Nhờ vậy, sau hơn 20 năm đổi mới, ở
Việt Nam chúng ta, phong trào xây dựng gia đình văn hố đã có những thành cơng
đáng kể. Quá trình đổi mới đã đem đến cho gia đình Việt Nam những cơ hội phát triển
mới, mức sống của đại bộ phận các gia đình Việt Nam được nâng cao, các chức năng
cơ bản của gia đình có nhiều biến đổi theo chiều hướng tích cực. Tuy nhiên, trong bối
cảnh phát triển kinh tế thị trường, mở rộng hợp tác và giao lưu văn hố, gia đình Việt
Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức to lớn. Mặt trái của cơ chế thị trường đã
tạo ra lối sống thực dụng tôn thờ đồng tiền, coi thường đạo đức gia đình truyền thống.
Bên cạnh đó, các sản phẩm văn hố độc hại từ bên ngồi du nhập vào đã dẫn đến nhiều
tệ nạn xã hội, đặt lối sống gia đình Việt Nam truyền thống trước nguy cơ bị mai một.

17


Trước thực trạng này, việc giữ gìn và phát huy giá trị gia đình truyền thống càng trở
nên quan trọng và cấp bách.
Trong thời đại ngày nay, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là vấn đề
mang ý nghĩa sống cịn đối với mọi dân tộc, trong đó có Việt Nam. Trong q trình
này, khơng thể khơng xét đến mối quan hệ của nó đối với vấn đề gia đình và do vậy,
khơng thể khơng vận dụng lý luận về gia đình trong kho tàng lý luận của các nhà sáng
lập chủ nghĩa Mác. Nghiên cứu quan hệ gia đình trong sự phát triển kinh tế – xã hội,
nhất là mối quan hệ giữa gia đình và sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất trong di sản lý luận của C. Mác và Ph. Ăngghen không những giúp cho chúng
ta thấy được tác động của quá trình cải tạo và phát triển kinh tế – xã hội, thấy được
những khuynh hướng biến đổi tất yếu của gia đình, mà cịn giúp chúng ta nhận thức
được vai trị của gia đình đối với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta

hiện nay. Đó là vai trị của gia đình trong việc trang bị trí thức mới cho thế hệ lao động
tương lai, trang bị những hiểu biết căn bản về những giá trị và văn hóa đạo đức; nâng
cao nhận thức về sự cần thiết phải bảo vệ những ngành, nghề truyền thống trước
những tác động tiêu cực do mặt trái kinh tế thị trường gây ra.
Chúng ta đang đứng trước cơ hội khơng nhỏ trong bối cảnh tồn cầu hóa,
nhưng trước mắt chúng ta còn nhiều thách thức to lớn cần phải vượt qua, trong đó có
thách thức về xây dựng gia đình Việt Nam đáp ứng những địi hỏi ngày càng cao của
công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố và hội nhập kinh
tế quốc tế.
● Đề xuất giải pháp
Để hạn chế tình trạng ly hôn, nhất là trong giới trẻ và củng cố, xây dựng gia
đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, để mỗi gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế
bào lành mạnh của xã hội, tạo động lực phát triển kinh tế, văn hóa xã hội ở địa phương
cần có sự quan tâm lãnh, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự phối kết hợp
của các ban, ngành, đoàn thể các cấp, sự tham gia của mỗi cá nhân và gia đình cần
thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo xóa bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu trong
hơn nhân và gia đình; kiên quyết đấu tranh chống lối sống thực dụng, vị kỷ; tăng
18


cường cơng tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em có hồn cảnh đặc biệt khó khăn; có kế
hoạch và biện pháp cụ thể phòng, chống tệ nạn xã hội và bạo hành trong gia đình;
Hai là, tăng cường cơng tác tuyên truyền, vận động theo từng lĩnh vực ngành
phụ trách:
– Đẩy mạnh các hoạt động truyền thông về xây dựng gia đình, đặc biệt, chú
trọng đến truyền thơng, giáo dục kiến thức tiền hơn nhân, đời sống gia đình thông qua
các hoạt động tại đơn vị, địa phương về nghi lễ tôn giáo, phong tục tập quán, kỹ năng
ứng xử trong gia đình, …đặc biệt là giáo dục thanh niên về đạo đức tình u giới tính
và những mối quan hệ gia đình ngay từ lúc cịn ngồi học ở trường; nhằm cung cấp cho

các thành viên trong gia đình những kiến thức, kinh nghiệm xây dựng mối quan hệ gắn
kết, yêu thương trách nhiệm giữa các thành viên trong gia đình. Vì gia đình có nền
giáo dục căn bản, truyền thống đạo đức nguy cơ đổ vỡ phần nào sẽ được ngăn chặn.
– Tăng cường công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong cơ quan đơn vị và
cộng đồng về hơn nhân gia đình, đồng thời có sự phối hợp với Ban Quản lý các khu
công nghiệp thực hiện tuyên truyền pháp luật liên quan đến gia đình như: Luật Hơn
nhân và gia đình, Luật Bình đẳng giới, Luật Chăm sóc bảo vệ trẻ em, Luật phịng,
chống bạo lực gia đình,... để các cặp vợ chồng hiểu được quyền cũng như trách nhiệm
của mình đối với gia đình, cộng đồng và xã hội, ngăn chặn sự xâm nhập của các tệ nạn
xã hội vào gia đình.
Ba là, ban, ngành, đồn thể, cộng đồng và gia đình tích cực tham gia xây dựng
gia đình văn hóa, ấp, khu phố văn hố; xây dựng và nhân rộng các mơ hình gia đình
điển hình, tiêu biểu, tạo ra phong trào xây dựng gia đình ít con, no ấm, tiến bộ, hạnh
phúc phát triển bền vững.
Các tổ chức Đoàn thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Nơng
dân… các cấp cần nhân rộng các mơ hình CLB, tổ tư vấn về kiến thức tiền hôn nhân,
giao tiếp, lối ứng xử trong gia đình… nhằm giúp các bạn trẻ trước khi kết hôn được
trang bị kiến thức, kỹ năng tổ chức cuộc sống gia đình, có định hướng nghề nghiệp và
tao ra thu nhập ổn định.
Cần tổ chức các cuộc thi về chủ đề hạnh phúc gia đình để gắn kết tình cảm giữa
các thành viên trong gia đình với nhau, đồng thời trang bị thêm các kiến thức về pháp
19


luật và xã hội để mọi người nhận thức được vai trị của gia đình để cùng nhau giữ lửa
đem lại cuộc sống gia đình hạnh phúc.
Bốn là, thực hiện nghiêm túc các vụ việc vi phạm luật có liên quan đến gia đình
như: Luật Hơn nhân và Gia đình, Luật Bình đẳng giới, Luật trẻ em, Luật phịng –
chống bạo lực gia đình, Luật Hịa giải ở cơ sở…
Năm là, các cặp vợ chồng cần nhận thức vai trò, vị trí, trách nhiệm của mình

trong xây dựng gia đình, phải yêu thương, tôn trọng, lắng nghe, chia sẻ và trách nhiệm,
điều quan trọng nhất là phải biết nghĩ về con cái, tôn trọng những giá trị truyền thống
của gia đình Việt Nam, khơng vướng vào các tệ nạn xã hội, sống thủy chung… Khi có
mâu thuẫn, xung đột xảy ra cần bình tĩnh, khéo léo giải quyết các vấn đề, mỗi người
nên tự biết điều chỉnh, bỏ cái tôi, sống có trách nhiệm với gia đình và xã hội.
Sáu là, chính quyền và các tổ chức đồn thể địa phương cần có kế hoạch phát
triển kinh tế hộ gia đình; nhân rộng các mơ hình kinh tế hộ tiên tiến; bảo đảm kết quả
bền vững của chương trình giảm nghèo và tạo việc làm cho các gia đình có hồn cảnh
khó khăn, hộ nghèo, cận nghèo phát triển kinh tế hộ gia đình ổn định; phối kết hợp các
cơng ty, doanh nghiệp tạo nhiều việc làm phù hợp cho lực lượng đang tuổi lao động
chưa có việc làm hay có việc làm nhưng chưa ổn định, thu nhập thấp.
Bảy là, cần tăng cường hơn nữa cơng tác hịa giải để các cặp vợ chồng muốn ly
hơn có cơ hội trở lại đồn tụ, cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc và nuôi dạy con
cái. Đặc biệt các tổ hòa giải cơ sở cần phát huy vai trò hòa giải với nhiều hình thức,
giải thích cho các cặp vợ chồng biết được những hệ lụy có thể xảy ra với con cái của
họ sau khi họ ly hôn để họ thấy được trách nhiệm của họ đối với con cái và tự hàn gắn,
hóa giải các mâu thuẫn về sống chung lại với nhau.
Tám là, cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cấp chính quyền địa phương,
các ban, ngành, đoàn thể, phải huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị và
quần chúng nhân dân thì cơng tác phịng ngừa, đấu tranh chống tội phạm hình sự và tệ
nạn xã hội mới mang lại kết quả.
Chín là, quan tâm, tạo điều kiện chăm sóc, giúp đỡ trẻ em trong các gia đình đã
và đang xảy ra tình trạng bạo hành, ly hơn có hồn cảnh đặc biệt khó khăn.
20


Mười là, cần biểu dương, nhân rộng những tấm gương sáng về đạo lý gia đình,
gia đình điển hình trong khó khăn vươn lên xây dựng gia đình hịa thuận, giữ vững
hạnh phúc, nuôi dạy học giỏi, thành đạt, hiếu thảo, chăm lo phụng dưỡng ơng bà, kính
trên, nhường dưới, và nhân rộng các mơ hình gia đình vượt khó vươn lên, gia đình làm

kinh tế giỏi, gia đình hiếu học, gia đình trẻ hạnh phúc, gia đình nhiều thế hệ chung
sống mẫu mực, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em... Mạnh mẽ lên án những hành vi
thiếu đạo đức trong hơn nhân, bạo hành trong gia đình.
Tóm lại, ly hơn là vấn đề mang tính chất xã hội rõ rệt và sâu sắc và để lại những
hậu quả pháp lý thật nghiêm trọng, ảnh hưởng đến gia đình và tồn thể xã hội. Vậy cần
có sự chung tay góp sức của tất cả hệ thống chính trị quyết tâm kéo giảm tình trạng ly
hơn qua từng hoạt động thiết thực và cụ thể của từng ngành, từng cấp để xây dựng một
gia đình hạnh phúc bền vững. Gia đình êm ấm, hạnh phúc sẽ là hành trang, là nền tảng
để mỗi cá nhân phát huy hết năng lực của mình, góp phần xây dựng xã hội ổn định,
phồn vinh và phát triển. Các cụ xưa đã nói “Thuận vợ thuận chồng tát bể đơng cũng
cạn” câu nói bất hủ ấy đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

21


×