Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

LUẬN VĂN: Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh kinh doanh xuất khẩu tại Công ty hoá chất – Bộ thương mại pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.43 MB, 92 trang )












LUẬN VĂN:

Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh
kinh doanh xuất khẩu tại Công ty hoá
chất – Bộ thương mại






Mở đầu

Trong quá trình phát triển nền kinh tế Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương mở
rộng và phát triển kinh tế đối ngoại trong đó một lĩnh vực quan trọng là thương mại
hàng hoá và dịch vụ với nước ngoài, mà một trong những hoạt động đó là xuất khẩu –
một lĩnh vực cơ bản trong kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy hữu hiệu việc
phát triển kinh tế của từng quốc gia. Để cho nền kinh tế quốc dân phát triển và tăng
cường vững chắc thì không thể coi nhẹ hoạt động kinh doanh hàng xuất khẩu. Xuất
khẩu cho phép khai thác được các tiềm năng thế mạnh của đất nước, đẩy nhanh quá


trình sản xuất tiêu thụ trong nước phát triển theo kịp với các nước trên thế giới. Hơn
nữa, đẩy mạnh kinh doanh xuất nhập khẩu là thực sự cần thiết để phát triển kinh tế bởi
lẽ hoạt động xuất nhập khẩu tạo ra một lượng ngoại tệ lớn, góp phần làm chuyển dịch
cơ cấu sản xuất và phát huy được những lợi thế của đất nước.
Do nhu cầu sản xuất trong nước ngày càng tăng đặc biệt đối với các ngành có
sử dụng đến hoá chất nên Công ty hoá chất – Bộ thương mại rất chú trọng tới công tác
kinh doanh xuất nhập khẩu hoá chất nhằm đáp ứng tối đa thị trường trong và ngoài
nước. Song để thực hiện kinh doanh xuất nhập khẩu các loại hoá chất đem lại nhiều lợi
nhuận hơn không phải một sớm một chiều mà thành công, nó đòi hỏi một sự đầu tư
thích đáng cả về thời gian, tiền vốn và trí óc.
Trong quá trình thực tập tại Công ty hoá chất – Bộ thương mại, em nhận thấy
các mặt hàng hoá chất có vị trí hết sức quan trọng và rất có tiềm năng nhưng tình hình
xuất khẩu các mặt hàng hoá chất trong những năm qua đã bộc lộ rõ hạn chế ảnh hưởng
đến hiệu quả kinh doanh. Để đáp ứng hoạt
động kinh doanh xuất khẩu trong điều kiện mới, Công ty hoá chất cần đổi mới hàng
loạt các hoạt động trong quá trình xuất khẩu.



Xuất phát từ sự tiếp cận trên kết hợp với sự học hỏi ở trường và ở Công ty thực
tập em chọn để tài:


“ Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh kinh doanh xuất khẩu tại Công ty
hoá chất – Bộ thương mại”.
Trong chuyên đề này em đi vào khái quát hoá , hệ thống hoá các cơ sở lý luận
về hoạt động kinh doanh xuất khẩu sau đó tìm hiểu về thực trạng hoạt động ở Công ty
hoá chất – Bộ thương mại, từ đó rút ra những thành tựu, hạn chế. Cuối cùng trên cơ sở
những đánh giá, đề xuất những biện pháp cơ bản nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh
xuất khẩu cở Công ty.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tại Công ty hoá chất – Bộ thương mại, mốc
thời gian mà em chọn để nghiên cứu đề tài này từ 1998 – 2002.
Chuyên đề của em được trình bày như sau: không kể mở đầu và kết luận,
chuyên đề của em được chia thành 3 chương

Chương I: Vai trò và nội dung của hoạt động xuất khẩu trong hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp.

Chương II: Tình hình kinh doanh xuất khẩu của Công ty hoá chất – Bộ thương
mại.

Chương III: Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu ở Công ty hoá
chất – Bộ thương mại.

Trong quá trình thực hiện đề tài này em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn
nhiệt tình của thầy giáo TS. Trần Hoè, cô giáo ThS. Hoàng Hương Giang và cán bộ
công nhân viên của Công ty hoá chất – Bộ thương mại đã tạo điều kiện giúp đỡ em
hoàn thành đề tài này. Do điều kiện thời gian và năng lực bản thân có hạn, đề tài
không tránh khỏi thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp xây dựng của các
thầy cô giáo và các bạn sinh viên quan tâm đến đề tài này.




chương I
Vai trò và nội dung của hoạt động xuất khẩu trong hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp.

I. Bản chất, vai trò của xuất khẩu trong hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp.


1. Bản chất của hoạt động xuất khẩu.

Hoạt động xuất khẩu là một trong những hoạt động quan trọng trong hoạt
động thương mại quốc tế. Đó là việc một quốc gia bán hàng hoá và dịch vụ cho một
quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ (là ngoại tệ hoặc nội tệ) làm phương tiện thanh
toán và hàng hoá vượt ra khỏi biên giới quốc gia xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu diễn
ra trong mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện kinh tế từ hàng hoá tiêu dùng thông thường
đến hàng hoá máy móc thiết bị, công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động đó đều
nhằm mục đích mang lại lợi ích cho người xuất khẩu đồng thời cũng mang lại lợi ích
cho quốc gia mình, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển trong từng giai đoạn.
Mục đích của hoạt động xuất khẩu là thu về một khoản ngoại tệ trên cơ sở
khai thác được lợi thế so sánh của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế.
Khi việc trao đổi hàng hoá đó có lợi thì mọi doanh nghiệp, mọi quốc gia đều tích cực
tham gia vào hoạt động này. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động cơ bản của hoạt động
ngoại thương, nó đã xuất hiện từ rất lâu đời và ngày càng phát triển.
Xuất khẩu là một trong những hình thức kinh doanh quốc tế quan trọng nhất.
Nó phản ánh quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá vượt qua biên giới của một quốc gia.
Các quốc gia khác nhau khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu phải tuân theo những
tập quán, phong tục, luật pháp của quốc tế cũng như của từng địa phương. Hoạt động
xuất khẩu là hoạt động kinh tế cơ bản đối với mọi quốc gia trên thế giới. Nó đóng vai
trò quan trọng trong việc




phát triển kinh tế của một quốc gia và nói lên mối quan hệ phụ thuộc giữa các quốc
gia. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động chính của một doanh nghiệp
khi muốn phát triển, đó chính là con đường đúng đắn để các doanh nghiệp phát triển
và thâm nhập vào thị trường của các quốc gia khác trên thế giới.


2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu

2.1. Xuất khẩu trực tiếp

Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu mà trong đó doanh nghiệp trực tiếp
kí kết hợp đồng mua bán hàng hoá với các doanh nghiệp, các thương nhân nước ngoài
được Nhà nước cho phép.
Đây là hình thức xuất khẩu không thông qua trung gian (người thứ ba), có thể
xuất khẩu trực tiếp theo hai cách sau:
- Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu xong mới ký kết hợp đồng xuất khẩu.
- Ký hợp đồng xuất khẩu xong mới chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu.
Hình thức xuất khẩu này cho phép các doanh nghiệp giảm bớt được các chi
phí trung gian, giúp doanh nghiệp tiếp xúc được với thị trường và khách hàng, chủ
động trong mọi hoạt động xuất khẩu. Song bên cạnh đó nó cũng gặp phải một số khó
khăn trong việc gặp gỡ để kí kết, nếu không có hoặc thiếu kinh nghiệm trong hoạt
động xuất khẩu, thiếu sự hiểu biết về bạn hàng thì rất dễ thất bại trong hoạt động xuất
khẩu.

2.2. Xuất khẩu gián tiếp

Đây là hình thức xuất khẩu mà mọi quan hệ giữa người mua, người bán và
việc quy định các điều kiện mua bán phải thông qua một người thứ ba (gọi là trung
gian mua bán).
Hình thức này được sử dụng khi người xuất khẩu, doanh nghiệp xuất khẩu
không đủ điều kiện để xuất khẩu trực tiếp.





Một hình thức xuất khẩu uỷ thác khác đó là gia công uỷ thác. Trong hình thức
này doanh nghiệp ngoại thương đứng ra nhận nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm
giao cho đơn vị sản xuất gia công ở nước ngoài, sau đó thu hồi thành phẩm để xuất
khẩu ra nước ngoài.
Người trung gian xuất khẩu trên thị trường là đại lý và môi giới.
- Đại lý: là tư nhân hoặc pháp nhân tiến hành một hay nhiều hành vi theo
sự uỷ thác của người uỷ thác xuất khẩu.
- Môi giới: là thương nhân trung gian giữa người mua và người bán, được
người bán hoặc người mua uỷ thác tiến hành bán hoặc mua hàng hoá hay dịch vụ.
Hình thức xuất khẩu này giúp các doanh nghiệp hiểu rõ hơn về tình hình thị
trường, pháp luật, tập quán địa phương thông qua người trung gian. Từ đó họ có thể
đẩy mạnh việc buôn bán và tránh được các rủi ro dễ gặp phải khi xâm nhập vào thị
trường. Ngoài ra nhờ người trung gian có cơ sở vật chất kỹ thuật sẵn có nên người xuất
khẩu uỷ thác đỡ tốn kém và cũng nhờ dịch vụ của trung gian trong việc lựa chọn, phân
loại, đóng gói nên người uỷ thác có thể giảm bớt chi phí vận tải. Tuy nhiên việc sử
dụng trung gian cũng làm cho doanh nghiệp mất đi sự liên hệ trực tiếp với thị trường
và lợi nhuận cũng bị chia sẽ.

2.3. Buôn bán đối lưu.

Đây là hình thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập
khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng hoá trao đổi có giá trị tương
đương. ở đây mục đích của xuất khẩu không phải là thu về một khoản ngoại tệ mà
nhằm thu về một hàng hoá có giá trị tương đương. Vì vậy, người ta còn gọi đây là hình
thức hàng đổi hàng.
Trong hình thức này đòi hỏi các bên phải quan tâm tới sự cân bằng trong trao
đổi về các khía cạnh sau:
- Cân bằng về mặt hàng.
- Cân bằng về giá cả.




- Cân bằng về tổng giá trị hàng giao cho nhau .
- Cân bằng về điều kiện giao hàng.
Các loại hình buôn bán đối lưu:
- Nghiệp vụ hàng đổi hàng.
+ Trao đổi hàng hoá có giá trị tương đương.
+ Thời gian trao đổi hầu như diễn ra đồng thời.
+ Có thể có nhiều bên cùng tham gia.
- Nghiệp vụ bù trừ.
+ Trao đổi trên cơ sở ghi giá trị hàng giao, cuối kỳ mới quyết toán. Có thể
thanh thoán bằng tiền hoặc bằng hàng số chênh lệch theo hợp đồng.
+ Thời gian trao đổi hầu như diễn ra đồng thời.
+ Có thể có nhiều bên cùng tham gia.
- Nghiệp vụ mua đối lưu.
+ Một bên giao thiết bị cho khách để đổi lại mua thành phẩm, bán thành phẩm,
nguyên vật liệu
+ Thời gian trao đổi không đồng thời. Hợp đồng thực hiện trong thời gian
không dài thường từ 1 đến 5 năm .
+ Có nhiều mặt hàng được trao đổi và nhiều bên tham gia.
+ Giá trị thanh toán thường không đạt 100% giá trị hàng mua về, chênh lệch
được thanh toán bù trừ.
- Nghiệp vụ chuyển nợ.
+ Trao đổi hàng hoá hoặc dịch vụ lấy những dịch vụ hoặc ưu huệ.
- Nghiệp vụ mua lại.
+ Một bên cung cấp thiết bị toàn bộ, bằng sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật cho
bên khác đồng thời đảm bảo mua lại sản phẩm do thiết bị, sáng chế hay bí quyết kỹ
thuật đó tạo ra.
+ Thời gian thực hiện thường dài thường từ 10 đến 20 năm.








2.4. Tạm nhập tái xuất.

Đây là hình thức xuất khẩu mà hàng hoá trước đây đã nhập nhưng chưa qua
chế biến trong nước, sau một thời gian được tái xuất khẩu cho nước khác.
Các loại hình tái xuất:
- Tái xuất theo đúng nghĩa: hàng hoá đi từ nước xuất khẩu sang nước tái
xuất rồi lại được xuất khẩu từ nước tái xuất sang nước nhập khẩu. Nước tái xuất trả
tiền nước xuất khẩu và thu tiền nước nhập khẩu.
- Chuyển khẩu: hàng hoá đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập
khẩu. Nước tái xuất thu tiền nước nhập, trả tiền cho nước xuất khẩu.

2.5. Đấu giá quốc tế.

Đây là phương thức bán hàng đặc biệt được tổ chức công khai ở một nơi nhất
định, tại đó sau khi xem trước hàng hoá, những người đến mua tự do cạnh tranh giá cả
và cuối cùng hàng hoá đó sẽ được bán cho người trả giá cao nhất.

2.6. Giao dịch tại sở giao dịch:

Sở giao dịch là một thị trường đặc biệt thông qua những người môi giới do sở
giao dịch chỉ định, người ta mua bán những loại hàng hoá có khối lượng lớn, có tính
chất đồng loại, có phẩm chất, có thể thay thế được với nhau.
Sở giao dịch hàng hoá thể hiện tập chung quan hệ cung cầu về một mặt hàng
giao dịch trong một khu vực, ở một thời điểm nhất định. Do đó giá giao dịch tại sở

giao dịch có thể coi là một tài liệu tham khảo trong việc xác định giá quốc tế.
Các loại giao dịch ở sở giao dịch.


- Giao dịch giao ngay: là giao dịch trong đó hàng hoá được giao ngay và
trả tiền ngay vào lúc ký kết hợp đồng.


- Giao dịch kỳ hạn: là giao dịch trong đó giá cả được ấn định vào lúc ký
kết hợp đồng trong việc giao hàng và thanh toán đều được tiến hành sau một kỳ hạn
nhất định nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá giữa lúc kí kết hợp đồng và lúc giao
hàng.
- Nghiệp vụ tự bảo hiểm: là một biện pháp kỹ thuật thường được các nhà
buôn nguyên liệu, nhà sản xuất sử dụng nhằm tránh những rủi ro do biến động giá cả
làm thiệt hại đến số lãi sự tính, bằng cách lợi dụng giao dịch khống ở sở giao dịch.

2.7. Giao dịch tại hội chợ triển lãm.

Hội chợ triển lãm là thị trường hoạt động định kỳ, được tổ chức vào một thời
gian và địa điểm cố định trong thời hạn nhất định, tại đó người bán
đem trưng bày hàng hoá của mình và tiếp xúc với người mua để ký kết hợp đồng mua
bán.
Triển lãm là việc trưng bày giới thiệu những thành tựu của một nền kinh tế
hoặc một ngành kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật. Liên quan chặt chẽ đến ngoại
thương là các cuộc triển lãm công thương nghiệp, tại đó người ta trưng bày các loại
hàng hoá nhằm mục đích quãng cáo để mở rộng khả năng tiêu thụ.

2.8. Gia công quốc tế.

Gia công quốc tế là một phương thức kinh doanh trong đó một bên gọi là bên

nhận gia công nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên khác (bên đặt gia công) để
chế biến ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao.
Gia công quốc tế giúp bên đặt gia công lợi dụng được về mặt giá rẻ, nguyên
vật liệu phụ và nhân công các nước nhận gia công, còn bên nhận gia

công giúp họ giải quyết được công ăn việc làm cho nhân dân lao động trong nước hoặc
nhập các thiết bị công nghệ mới về nước mình, nhằm xây dựng một nền công nghiệp
dân tộc.
Các hình thức gia công quốc tế.


- Theo quyền sở hữu nguyên liệu gia công.
+ Bên đặt gia công giao nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho bên nhận gia
công và sau thời gian sản xuất, chế tạo sẽ thu hồi nhanh sản phẩm và trả phí gia công.
+ Bên đặt gia công bán đứt nguyên liệu cho bên nhận gia công và sau thời gian
sản xuất, chế tạo, sẽ mua lại thành phẩm.
- Xét theo mặt giá cả gia công.
+ Hợp đồng thực thanh.
+ Hợp đồng khoán.

2.9. Xuất khẩu theo nghị định thư

Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá được ký kết theo nghị định của hai chính
phủ.
Xuất khẩu theo hình thức này đảm bảo được khả năng thanh toán, giá cả hợp
lý, việc sản xuất thu mua có ưu tiên. Thông thường hình thức này được áp dụng để trả
nợ giữa hai quốc gia và hiện nay loại hình này rất ít được sử dụng.

3. ý nghĩa của hoạt động xuất khẩu


3.1. Đối với nền kinh tế thế giới

Là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động đầu tiên
của thương mại quốc tế, xuất khẩu có một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình
phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như của toàn thế giới. Do những điều kiện
khác nhau nên một quốc gia có thể mạnh về

lĩnh vực này nhưng lại yếu về lĩnh vực khác. Vì vậy, để có thể khai thác được lợi thế,
tạo ra sự cân bằng trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, các quốc gia phải tiến hành
trao đổi với nhau dựa trên lý thuyết lợi thế so sánh của D.Ricardo. Ông nói rằng: " Nếu
một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các
loại sản phẩm, thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi


ích của chính mình" và khi tham gia vào thương mại quốc tế thì "quốc gia có hiệu quả
thấp trong sản xuất các loại hàng hóa sẽ tiến hành chuyên môn hóa sản xuất và xuất
khẩu các loại hàng hóa mà việc sản xuất ra chúng là ít bất lợi nhất và nhập khẩu những
loại mặt hàng mà việc sản xuất ra chúng có bất lợi lớn hơn".
Nói cách khác, một quốc gia trong tình huống bất lợi vẫn có thể tìm ra điểm có
lợi để khai thác. Bằng việc khai thác các lợi thế này, các quốc gia tập trung vào sản
xuất và xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế tương đối. Sự chuyên môn hóa đó làm cho
mỗi quốc gia khai thác được lợi thế của mình một cách tốt nhất, giúp tiết kiệm được
nguồn lực như vốn, kỹ thuật, nhân
lực trong quá trình sản xuất hàng hóa. Do đó, tổng sản phẩm trên quy mô toàn thế
giới cũng sẽ được gia tăng.

3.2. Đối với nền kinh tế mỗi quốc gia

Đối với nền kinh tế mỗi quốc gia, xuất khẩu tạo nguồn vốn chính cho nhập
khẩu, phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự tăng trưởng

kinh tế của mỗi quốc gia đòi hỏi phải có bốn điều kiện: nhân lực, tài nguyên, vốn và
kỹ thuật. Song không phải quốc gia nào cũng có đủ bốn điều kiện đó. Để giải quyết
tình trạng này buộc họ phải nhập từ bên ngoài những yếu tố mà trong nước chưa có
khả năng đáp ứng. Nhưng vấn đề đặt ra là làm thế nào để có đủ ngoại tệ cho việc nhập
khẩu này?
Thực tiễn cho thấy, để có nguồn vốn nhập khẩu, một nước và đặc biệt là các
nước đang phát triển có thể sử dụng các nguồn vốn chính như: đầu tư nước ngoài, vay
nợ, viện trợ và thu từ hoạt động xuất khẩu.
Tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ


thì không ai có thể phủ nhận được. Nhưng khi sử dụng những nguồn vốn này
thì những nước đi vay phải chấp nhận những thiệt thòi nhất định và dù bằng cách này
hay cách khác cũng phải hoàn lại vốn cho nước ngoài. Bởi vậy, nguồn vốn quan trọng
nhất mà mỗi quốc gia có thể trông chờ là vốn thu được từ hoạt động xuất khẩu. Vì vậy,


xuất khẩu là hoạt động chính tạo tiền đề cho nhập khẩu, quyết định đến quy mô và
tăng trưởng của nhập khẩu.
ở các nước kém phát triển, vật cản trở sự tăng trưởng kinh tế là thiếu tiềm lực
về vốn. Vốn huy động từ nước ngoài được coi là cơ sở chính mọi cơ hội đầu tư hoặc
vay nợ từ nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ tăng lên khi chủ đầu tư và người cho
vay thấy khả năng xuất khẩu của các nước đó, vì đây là nguồn chính đảm bảo nước đó
có thể trả nợ được. Xuất khẩu góp phần vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc
đẩy sản xuất phát triển. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sẽ giúp các nước kém phát
triển chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp, phù hợp với xu thế
phát triển của nền kinh tế thế giới.

3.3. Đối với một doanh nghiệp


Thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào
cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng sản phẩm - những yếu tố
đòi hỏi doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường.
Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị
kinh doanh, đồng thời có ngoại tệ để đầu tư lại quá trình sản xuất không những về
chiều rộng mà cả về chiều sâu.
Ngoài ra, sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao
động, tạo thu nhập ổn định cho người lao động, tạo ra ngoại tệ để nhập máy móc thiết
bị hiện đại phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và đem lại lợi nhuận cao.





II. Nội dung của hoạt động xuất khẩu

Hoạt động xuất khẩu là một quy trình kinh doanh tổng hợp bao gồm nhiều
bước nối tiếp nhau. Mỗi bước đều có đặc điểm riêng biệt và được tiến hành theo


những cách thức khác nhau, nhưng lại có liên quan chặt chẽ với nhau. Nhìn chung hoạt
động xuất khẩu được tiến hành theo các bước sau:

1. Nghiên cứu và lựa chọn thị trường xuất khẩu

Thị trường là yếu tố quan trọng nhất trong kinh doanh nói chung và xuất khẩu
nói riêng, nó quyết định sự thành bại của một doanh nghiệp. Thị trường biến động rất
phức tạp và vận động không ngừng, do vậy bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải
nghiên cứu thị trường để đưa ra những chiến lược phát triển lâu dài. Nghiên cứu thị
trường tốt tạo khả năng cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của

từng loại hàng hóa cụ thể thông qua sự biến đổi nhu cầu cung cấp và giá cả hàng hóa
đó trên thị trường, giúp họ giải quyết được những vấn đề của thực tiễn kinh doanh theo
yêu cầu của thị trường, khả năng tiêu thụ và khả năng cạnh tranh hàng hóa. Công việc
này bao gồm:

1.1. Thu thập thông tin về thị trường xuất khẩu

Công việc đầu tiên của người nghiên cứu thị trường là thu thập thông tin có
liên quan về thị trường và mặt hàng cần quan tâm. Ta có thể thu thập thông tin từ
nhiều nguồn khác nhau như:
- Thu thập thông tin từ các tổ chức quốc tế như: Trung tâm thương mại
quốc tế, tổ chức thương mại và phát triển của Liên Hợp Quốc, hội đồng kinh tế Châu á
Thái Bình Dương, cơ quan thống kê Liên Hợp Quốc và các tổ chức khác.


- Thu thập thông tin từ các bản tin, thời báo, ấn phẩm, tạp chí trong nước
và ngoài nước, qua Internet.
- Nguồn tin nữa là từ các đối tác, bạn hàng có quan hệ kinh doanh buôn
bán với doanh nghiệp. Từ bộ phận tư vấn thị trường của trung tâm thương mại quốc tế
đã hợp tác với cơ quan thống kê của Liên Hiệp Quốc và các tổ chức quốc tế khác đã
đưa ra số liệu thống kê về mậu dịch quốc tế. Dịch vụ thống kê của trung tâm thương


mại quốc tế, ưu tiên phục vụ cho các nước đang phát triển đặc biệt là thông tin về thị
trường hàng hoá mà các nước này quan tâm.
- Một nguồn thu thập thông tin rất quan trọng và không thể thiếu được đó
là thu thập từ hiện trường. Thông tin này gắn với phương pháp nghiên cứu tại hiện
trường. Thông tin được thu thập từ hiện trường chủ yếu được thu thập bằng trực quan
của nhân viên khảo sát thị trường, bằng phỏng vấn, bản câu hỏi Loại thông tin này
thường đa dạng nên cần xử lý và lựa chọn lấy thông tin cần thiết và đáng tin cậy.

Điều quan trọng trong khi nghiên cứu nhu cầu thị trường đó là tìm hiểu về
dung lượng thị trường. Như ta đã biết dung lượng thị trường là khối lượng hàng hóa
được giao dịch trên một phạm vi thị trường nhất định. Nhưng nó không xác định mà
thay đổi do những nhân tố tổng hợp trong những giai
đoạn nhất định. Có thể chia làm ba nhóm nhân tố ảnh hưởng tới dung lượng thị
trường:
- Nhóm 1: Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến đổi có tính chất
chu kỳ như sự vận động của tình hình kinh tế các nước trên thế giới, đặc biệt là các
nước phương Tây, tính chất thời vụ trong quá trình sản xuất, phân phối và lưu thông
hàng hóa
- Nhóm 2: Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến đổi dung lượng thị trường
như tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, các biện pháp, chính sách của Nhà nước,
tập quán và thị hiếu của người tiêu dùng, ảnh hưởng của hàng hóa thay thế


- Nhóm 3: Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng thị trường. Nó
bao gồm: hiện tượng đầu cơ trên thị trường gây ra những biến đổi về cung cầu, bão lụt,
hạn hán
Như vậy, khi nghiên cứu thị trường hàng hóa khác nhau phải căn cứ vào đặc
điểm của chúng để đánh giá đúng mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố, xác định được
nhân tố chủ yếu có ý nghĩa quyết định đến xu hướng vận động của thị trường trong
giai đoạn hiện tại và tương lai. Đặc biệt trong quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu nói
chung và xuất khẩu nói riêng, nắm vững dung lượng thị trường giúp cho các nhà kinh


doanh cân nhắc để đề ra những quyết định kịp thời, chính xác và nhanh chóng chớp
được thời cơ giao dịch nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong kinh doanh.

1.2. Phân tích thông tin về thị trường xuất khẩu


Từ hai phương pháp nghiên cứu thị trường chính là nghiên cứu tại hiện trường
và nghiên cứu tại bàn, đồng thời có hai loại thông tin sơ cấp và thứ cấp. Khi ngiên cứu
thị trường cần phải kết hợp cả hai phương pháp để nghiên cứu, phân tích một cách đầy
đủ và chính xác. Thông tin phải được phân tích theo tiêu thức và có chỉ tiêu so sánh.
- Phân tích thông tin về môi trường xuất khẩu:
+ Môi trường kinh doanh của thị trường xuất khẩu tác động liên tục đến hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp theo những xu hướng khác nhau, vừa tạo ra cơ hội
lại vừa hạn chế khả năng thực hiện mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Để nghiên
cứu và đưa được tác động của môi trường kinh doanh vào chiến lược, có thể phân tích
môi trường kinh doanh bao quanh doanh nghiệp qua các môi trường thành phần.
+ Môi trường kinh tế của nước xuất khẩu: ảnh hưởng đến việc kinh doanh
thường được biểu thị bằng các chỉ tiêu như thu thập quốc dân, tốc độ tăng trưởng và
các chỉ tiêu khác.
+ Môi trường văn hoá của nước nhập khẩu: ảnh hưởng đến thái độ, nhu cầu
tiêu dùng của khách hàng. Sự hiểu biết về văn hoá sẽ đem lại thắng lợi cho doanh
nghiệp trong công tác Marketing.

+ Môi trường chính trị pháp luật của nước nhập khẩu: cần phải nắm rõ môi
trường chính trị, pháp luật vì nó chi phối mạnh mẽ sự hình thành cơ hội thương mại và
khả năng thực hiện mục tiêu của bất kỳ doanh nghiệp nào.
Không có một doanh nghiệp nào có thể tác động làm thay đổi được môi
trường chính trị, luật pháp mà chỉ có nó tác động làm thay đổi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.
+ Môi trường công nghệ của nước nhập khẩu: ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp rất lớn. Các yếu tố thuộc môi trường này tác động đến cách
thức các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật


vào sản xuất kinh doanh và cũng như việc sử dụng tiềm năng để tạo ra cơ hội kinh
doanh của từng doanh nghiệp.

+ Môi trường cạnh tranh: cạnh tranh chính là động lực thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế thị trường với nguyên tắc ai thoả mãn được nhu cầu của khách hàng thì
người đó sẽ giành thắng lợi, tồn tại và phát triển. Do vậy các doanh nghiệp phải tạo
được lợi thế cho mình trong cạnh tranh bằng cách tích cực nghiên cứu thị trường, tìm
hiểu nhu cầu thị trường để không ngừng hoàn thiện sản phẩm đáp ứng tốt nhu cầu thị
trường, vượt qua đối thủ.
+ Môi trường sinh thái: ảnh hưởng lớn đến cơ hội kinh doanh của doanh
nghiệp. Các yếu tố thuộc vấn đề sinh thái và bảo vệ môi trường tự nhiên ngày càng
được xem trọng, nó không chỉ liên quan tới vấn đề phát triển bền vững của một quốc
gia mà còn liên quan tới sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
- Phân tích thông tin về giá cả hàng hoá.
Giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới là vấn đề quan trọng đối với bất kỳ
đơn vị kinh doanh xuất khẩu nào. Thông tin hàng hoá bị sai lệch thì sẽ gây tổn thất lớn
cho doanh nghiệp. Do vậy thông tin về giá cả phải chính xác.
Giá cả trên thị trường thế giới thường xuyên biến động phức tạp và chịu sự chi
phối của nhiều yếu tố. Vậy để nắm bắt được chính xác thông tin về giá cả thì phải
nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới giá cả.
- Phân tích thông tin về nhu cầu thị trường.

Đây là thông tin được coi trọng trong hoạt động Marketing thương mại quốc
tế, bởi mọi công việc kinh doanh đều bắt đầu từ nhu cầu thị trường.
Do vậy việc nghiên cứu nhu cầu thị trường là một hoạt động thiết yếu cho các
doanh nghiệp.

1.3. Lựa chọn thị trường xuất khẩu, đối tác kinh doanh

Để lựa chọn được thị trường xuất khẩu trước hết ta cần phải xác định tiêu
chuẩn mà các thị trường phải đáp ứng được.
- Tiêu thức chung:



+ Chính trị, luật pháp.
+ Địa lý: thời tiết, khí hậu
+ Dân số: số lượng dân cư, tháp tuổi, sự phân bố dân cư
+ Kinh tế: thu nhập, tốc độ tăng trưởng
+ Tiêu chuẩn về khoa học kỹ thuật.
- Tiêu chuẩn về thương mại và tiền tệ.
+ Biện pháp bảo hộ mậu dịch: thuế quan, hạn ngạch
+ Tình hình tiền tệ: tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái.
+ Sự cạnh tranh quốc tế.
Ngoài việc lựa chọn thị trường kinh doanh thì bên cạnh đó ta phải lựa chọn
được đối tác kinh doanh cho phù hợp. Mục đích của hoạt động này là lựa chọn bạn
hàng sao cho công tác kinh doanh an toàn và có lợi. Nội dung cần thiết để nghiên cứu
lựa chọn đối tác bao gồm:
- Quan điểm kinh doanh của thương nhân đó.
- Lĩnh vực kinh doanh của họ.
- Khả năng vốn và cơ sở vật chất của họ.
- Những người được ủy quyền và phạm vi chịu trách nhiệm của họ đối với
nghĩa vụ của Công ty.
Lựa chọn đối tác giao dịch để xuất khẩu tốt nhất nên chọn những người nhập
khẩu trực tiếp, hạn chế hoạt động trung gian vì nó chỉ thích hợp khi ta thâm nhập thị
trường mới, mặt hàng mới mà cần phải nắm bắt các

thông tin về thị trường. Có thể nói, việc lựa chọn đối tác kinh doanh có căn cứ khoa
học là điều kiện quan trọng để thực hiện thắng lợi các hoạt động mua bán trong thương
mại quốc tế. Song việc lựa chọn các đối tác kinh doanh cũng tùy thuộc một phần vào
kinh nghiệm của người nghiên cứu và truyền thống trong mua bán của mình.

2. Xây dựng kế hoạch xuất khẩu


Trên cơ sở những kết quả thu lượm được trong quá trình nghiên cứu thị
trường, đơn vị kinh doanh tiến hành xây dựng kế hoạch xuất khẩu cho mình. Kế hoạch


xuất khẩu là những chỉ tiêu, con số được dự kiến và ước tính trong việc thực hiện
nhiệm vụ xuất khẩu cụ thể của doanh nghiệp, phù hợp với yêu cầu của thị trường, với
pháp luật và trong khả năng thực tế của doanh nghiệp. Việc xây dựng kế hoạch này
bao gồm:
- Đánh giá tình hình thị trường, phác họa bức tranh tổng quát về hoạt động
kinh doanh và đưa ra những khó khăn, thuận lợi.
- Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh. Sự
lựa chọn này phải có tính thuyết phục dựa trên cơ sở phân tích tình hình có liên quan
- Đề ra mục tiêu cụ thể: khối lượng, giá bán và thị trường xuất khẩu.
- Đưa ra các biện pháp để thực hiện các mục tiêu đó.
- Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh thông qua các chỉ
tiêu chủ yếu như: tỷ suất ngoại tệ, thời gian hoàn vốn, điểm hòa vốn
- Tính toán các chỉ tiêu kế hoạch: việc này phải dựa vào kế hoạch sản xuất
kinh doanh chung của doanh nghiệp. Thường các chỉ tiêu này được tính tăng lên hơn
một số % nhất định so với giá trị thực hiện của các chỉ tiêu đó ở năm hiện thời.
Các chỉ tiêu này bao gồm:
+ Số lượng sản phẩm cho xuất khẩu.

+ Tổng giá trị sản lượng cho xuất khẩu.
+ Giá cả sản phẩm xuất khẩu.
+ Phương thức xuất khẩu.
+ Phương thức thanh toán
Ngoài ra còn các chỉ tiêu khác
- Lập bảng kế hoạch.
Sau khi doanh nghiệp đã xác đinh được các chỉ tiêu cơ bản thì cần phải thực
hiện tốt các chỉ tiêu trên. Phải lập ra bảng thống kê chi tiết, cùng với những số liệu cụ

thể tương ứng với từng chỉ tiêu.
- Xác định các điều kiện để thực hiện kế hoạch.
Để kế hoạch được hoàn thành đòi hỏi doanh nghiệp phải có đủ năng lực về tài
chính, có kinh nghiệm trong hoạt động xuất khẩu. Kế hoạch phải được phổ biến trong


toàn doanh nghiệp để mọi thành viên trong doanh nghiệp có thể biết và phối hợp cùng
thực hiện. Chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật tư kỹ thuật phục vụ cho việc thực hiện kế hoạch.

3. Tổ chức thực hiện kế hoạch xuất khẩu

3.1. Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu

Chúng ta đều biết rằng, việc nghiên cứu lựa chọn nguồn hàng tốt sẽ góp phần
đáp ứng kịp thời, chính xác nhu cầu thị trường và thực hiện đúng thời hạn hợp đồng
với chất lượng tốt. Vậy nguồn hàng cho xuất khẩu là gì ? Đó là toàn bộ hàng hóa của
một Công ty hay một địa phương, một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng xuất
khẩu được. Để tạo nguồn hàng cho xuất khẩu, các doanh nghiệp có thể đầu tư trực tiếp
hoặc gián tiếp cho sản xuất, có thể là thu mua hoặc ký hợp đồng với các đơn vị sản
xuất
Nguồn hàng cho xuất khẩu ổn định là tiền đề cho việc phát triển kinh doanh
của các doanh nghiệp. Thông thường người ta tìm nguồn hàng cho xuất khẩu thông
qua việc nắm bắt khả năng cung ứng hàng xuất khẩu của các đơn vị trong và ngoài
ngành.

3.2 Chuẩn bị cho giao dịch

Sau khi lập kế hoạch xuất khẩu và tạo được nguồn hàng tốt doanh nghiệp phải
chuẩn bị công tác giao dịch. Để công tác giao dịch được thành công tốt đẹp, doanh
nghiệp phải biết đầy đủ thông tin về đối tác, về khách hàng, về hàng hoá, về thị trường

tiêu thụ.

3.3. Đàm phán ký kết hợp đồng

a. Các hình thức đàm phán



Đàm phán là việc bàn bạc, trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu để đi đến ký kết hợp đồng. Thông thường có các hình
thức: đàm phán qua thư tín, đàm phán qua điện thoại, đàm phán bằng cách gặp gỡ trực
tiếp Hình thức thứ ba thường được dùng khi có điều kiện phải giải quyết cặn kẽ để
thuyết phục nhau hoặc là những hoạt động lớn, phức tạp.
Khi đàm phán ta phải tiến hành theo các bước sau:
- Bước 1: Chào hàng: đây là việc nhà kinh doanh thể hiện rõ ý định bán hàng
của mình, là lời đề nghị ký kết hợp đồng.
- Bước 2: Hoàn giá: khi người nhận nhận được đơn chào hàng nhưng không
chấp nhận hoàn toàn đơn chào hàng đó mà đưa ra một lời đề nghị mới thì lời đề nghị
này gọi là hoàn giá.
- Bước 3: Chấp nhận: là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện chào hàng
mà phía bên kia đưa ra. Sau đó tiến hành ký kết hợp đồng.
- Bước 4: Xác nhận: sau khi hai bên thỏa thuận với nhau về điều kiện giao
dịch, có thể ghi lại tất cả các thỏa thuận gửi cho bên kia. Đó là văn kiện có chữ ký của
cả hai bên.







b. Hợp đồng kinh tế về xuất khẩu hàng hóa

- Đối với các đơn vị xuất nhập khẩu nước ta, hợp đồng thể hiện bằng văn bản
là một hình thức bắt buộc. Đây là hình thức tốt nhất để bảo vệ quyền lợi của cả hai
bên.
Khi ký kết hợp đồng cần chú ý những điểm sau:
- Hợp đồng cần trình bày rõ ràng, sáng sủa, phản ánh đúng nội dung đã thỏa
thuận, không để tình trạng mập mờ và tránh suy luận.


- Hợp đồng cần đề cập đầy đủ mọi vấn đề, tránh việc phải áp dụng tập quán để
giải quyết những vấn đề bên kia không đề cập đến. Trong hợp đồng không được có
những điều khoản trái với luật lệ hiện hành ở nước người xuất khẩu và nhập khẩu.
- Ký kết hợp đồng phải là người thực sự có thẩm quyền ký kết.
- Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng là ngôn ngữ phổ biến mà hai bên đều thông
thạo.

c. Thực hiện hợp đồng

Sau khi hợp đồng được ký kết thì đơn vị kinh doanh xuất khẩu phải thực hiện
theo các quy định ghi trong hợp đồng, tiến hành sắp xếp lại những phần việc phải làm,
ghi thành bảng biểu theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng, ghi lại những diễn biến kịp
thời, những văn bản phát đi và nhận được để xử lý và giải quyết cụ thể. Đồng thời phải
đảm bảo được quyền lợi quốc gia và kinh tế của đơn vị.



Sơ đồ 1: Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu



Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác thời kỳ 1998 - 2002

 Xin giấy phép xuất khẩu:

Theo nghị định 57/CP ngày 31 tháng 7 năm 1998 của Chính phủ. Thương nhân
là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo quy định của luật pháp
được phép xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ theo ngành nghề đã đăng ký kinh doanh. Vì
vậy các doanh nghiệp hoặc cá nhân đã có đăng ký kinh doanh tại cục Hải quan tỉnh,
thành phố thì không phải xin giấy phép kinh doanh xuất khẩu nếu như mặt hàng xuất
khẩu nằm trong danh mục hàng hoá đã đăng ký hàng hóa kinh doanh. Nếu hàng hoá
xuất khẩu nằm ngoài danh mục các mặt hàng phải có giấy phép kinh doanh xuất khẩu
thì phải xin giấy phép xuất khẩu. Hiện nay việc cấp giấy phép xuất khẩu được quy
định như sau:
- Bộ thương mại sẽ cấp giấy phép hàng hoá mậu dịch.
- Tổng cục hải quan cấp giấy phép xuất khẩu hàng hoá phi mậu dịch.



 Kiểm tra L/C (nếu phương thức thành toán là tín dụng chứng từ).
Xin giấy
phép xuất
kh
ẩu

Kiểm
nghiệm
hàng hóa

Giải
quyết

khi
ếu nại

Ký kết hợp
đồng xuất
kh
ẩu

Mua bảo
hiểm
Gửi hàng
lên tàu
Kiểm tra
L/C
Làm thủ
tục hải
quan

Làm thủ
tục
thanh
Chuẩn bị
hàng hóa
Thuê tàu

Thanh lý
hợp đồng


L/C là thư tín dụng trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Nó là bản

cam kết của ngân hàng người nhập khẩu cam kết sẽ thanh toán cho người xuất khẩu
nếu người này xuất trình một bộ chứng từ phù hợp với L/C đã mở. Phương thức thanh
toán L/C đảm bảo cho người xuất khẩu nhận được tiền hàng. Người xuất khẩu phải
kiểm tra L/C xem người nhập khẩu mở L/C có phù hợp hay không. Nếu doanh nghiệp
thấy không phù hợp thì đề nghị ngân hàng mở L/C tu chỉnh lại cho phù hợp. Vấn đề
kiểm tra L/C là rất quan trọng bởi nó liên quan tới việc có được thanh toán hay không.

 Chuẩn bị hàng hoá cho xuất khẩu.
Hàng hoá xuất khẩu được thu gom thành từng lô hàng xuất khẩu. Hàng hoá
phải được chuẩn bị đầy đủ về cả số lượng và chất lượng theo hợp đồng. Hàng hoá
được tập trung thì phải đóng gói, bao bì theo thoả thuận trong hợp đồng. Bao bì đóng
gói hàng hoá phải đảm bảo cho chất lượng của hàng hoá và phù hợp với điều kiện vận
chuyển, tạo điều kiện thuận lợi cho việc bốc xếp và di chuyển hàng hoá, tạo điều kiện
cho việc nhận biết và phân loại hàng hoá. Gây ấn tượng tốt đẹp cho khách hàng.

 Thuê tàu.
Tuỳ theo từng hợp đồng đã được ký kết và điều kiện cơ sở giao hàng trong
hợp đồng đó, mà người xuất khẩu có thể phải thuê tàu hoặc không phải thuê tàu.
Trong trường hợp phải thuê tàu thì người xuất khẩu dựa vào các căn cứ sau đây:
- Những điều khoản trong hợp đồng mua bán.
- Đặc điểm của hàng hoá xuất khẩu.
- Điều kiện vận tải.
Chọn hãng tàu có uy tín có thể đảm bảo chuyên chở hàng hoá cho mình với
giá cước hợp lý. Tuỳ theo số lượng và tính chất của hàng hoá mà


thuê loại tàu là: tàu chợ hoặc tàu chuyến. Nếu thuê tàu chợ thì phải đăng ký lưu
khoang và lưu cước trước với đại lý vận tải, còn thuê tàu chuyến phải có



hợp đồng vận tải. Khi thuê tàu vận tải cụ thể cần chú ý đến các vấn đề : giá cước, tuổi
tàu, chất lượng tàu, tuỳ theo từng loại hàng hoá xuất khẩu mà có thể thuê tàu thường
hoặc tàu chuyên dụng vận tải.

 Kiểm tra hàng hoá xuất khẩu.
Kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất khẩu là công việc cần thiết, nó đảm bảo
quyền lợi cho khách hàng, ngăn chặn kịp thời những hậu quả xấu, đảm bảo uy tín cho
người xuất khẩu.
Trước khi xuất khẩu, người xuất khẩu phải có nghĩa vụ kiểm tra hàng hoá về
phẩm chất, số lượng, trọng lượng, bao bì (tức là kiểm nghiệm hàng hoá). Việc kiểm
tra hàng hoá ở doanh nghiệp do bộ phận kiểm tra chất lượng của doanh nghiệp tiến
hành kiểm tra.

 Làm thủ tục hải quan.
Hàng hoá vận chuyển qua biên giới quốc gia để xuất khẩu đều phải làm thủ
tục hải quan. Thủ tục hải quan là một công vụ để quản lý hành vi buôn bán của các
thương nhân theo pháp luật của Nhà nước. Hàng hoá đã làm thủ tục hải quan thì mới
được thông qua. Đầu tiên chủ hàng phải khai báo chi tiết về hàng hoá lên tờ khai để
hải quan kiểm tra: loại hàng, tên hàng, số lượng, khối lượng, giá trị hàng hoá, phương
tiện vận tải, xuất khẩu cho nước nào và chủ hàng phải tính thuế xuất khẩu cho lô
hàng đó. Sau đó đưa hàng hoá vào vị trí để các nhân viên hải quan kiểm tra xác minh
lại. Sau khi hoàn thành các thủ tục của hải quan, thì chủ hàng thực hiện các quyết định
của hải quan. Nếu đúng với quy định của Nhà nước thì hàng hoá được thông qua, còn
sai lệch thì phải hiệu chỉnh lại hoặc không được thông qua.

 Mua bảo hiểm.
Chuyên chở hàng hoá trong thương mại quốc tế (nhất là đường biển) thường
gặp rất nhiều rủi ro, tổn thất. Do vậy cần phải mua bảo hiểm cho

hàng hoá xuất khẩu. Tuỳ theo các điều khoản trong hợp đồng và từng điều kiện cụ thể

mà người xuất khẩu có thể phải mua bảo hiểm hoặc không phải mua bảo hiểm cho


hàng hoá đó. Mua bảo hiểm bảo đảm quyền lợi cho cả người mua và người bán. Tuỳ
vào loại hàng hoá có giá trị như thế nào để có thể mua bảo hiểm hàng hoá theo 3 mức
khác nhau:
- A - bảo hiểm mọi rủi ro.
- B - bảo hiểm có bồi thường tổn thất riêng.
- C - bảo hiểm miễn tổn thất riêng.
Nếu người xuất khẩu phải mua bảo hiểm thì cần lưu ý chọn hãng bảo hiểm nào
có uy tín để ký kết hợp đồng bảo hiểm, có thể ký kết hợp đồng bảo hiểm bao hoặc bảo
hiểm chuyến tuỳ theo từng trường hợp cụ thể. Doanh nghiệp cần nghiên cứu xác suất
rủi ro để ký hợp đồng mua bảo hiểm ở mức suất phí phù hợp.

 Giao hàng lên tàu.
Sau khi hoàn tất các thủ tục trên doanh nghiệp phải giao hàng lên tàu nếu như
trong hợp đồng quy định. Trước tiên doanh nghiệp phải đưa hàng hoá vào đúng nơi
quy định trong cảng cho phù hợp với điều kiện của phương tiện vận tải (ở nước ta chủ
yếu là tàu biển). Sau đó phải trình bản đăng ký hàng chuyên chở cho người vận tải để
lấy sơ đồ xếp hàng khi tàu đến cảng. Khi bốc xếp hàng hoá lên tàu thì cần chú ý xem
chi phí bốc xếp thuộc về ai, ai là người chỉ dẫn bốc xếp để đảm bảo chất lượng hàng
hoá. Khi bốc xếp hàng xong chủ hàng phải lấy được vận đơn hoàn hảo.

 Làm thủ tục thanh toán.
Thanh toán là khâu quan trọng và là kết quả cuối cùng của tất cả các giao dịch
đàm phán kinh doanh của doanh nghiệp. Do đặc điểm buôn bán với nước ngoài, nên
thanh toán trong kinh doanh thương mại quốc tế phức tạp hơn nhiều. Hiện nay người
ta thường dùng các phương thức thanh toán sau:



- Thanh toán bằng thư tín dụng chứng từ (L/C). L/C là loại giấy mà ngân
hàng bảo đảm hoặc hứa hẹn sẽ trả tiền cho người xuất khẩu. Thanh toán bằng L/C là
phương thức thanh toán bảo đảm hợp lý an toàn, thuận tiện, hạn chế rủi ro cho cả bên
mua và bên bán.

×