Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TIỂU LUẬN ý thức xã hội và xây dựng đời sống tinh thần cho cán bộ, giáo viên, nhân viên trường mẫu giáo sao biển, núi thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.43 KB, 19 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
------------------

TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC

Ý THỨC XÃ HỘI VÀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG TINH THẦN CHO CÁN
BỘ, GIÁO VIÊN, NHÂN VIÊN TRƯỜNG MẪU GIÁO SAO BIỂN, NÚI
THÀNH

Họ viên:
Lớp:
Người hướng dẫn:

Tam Kỳ, tháng 10 năm 2022


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
------------------

TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
Ý THỨC XÃ HỘI VÀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG TINH THẦN CHO CÁN
BỘ, GIÁO VIÊN, NHÂN VIÊN TRƯỜNG MẪU GIÁO SAO BIỂN, NÚI
THÀNH

Họ viên:
Lớp:
Người hướng dẫn:

Tam Kỳ, tháng 10 năm 2022




MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1.

1
2
QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ
Ý THỨC XÃ HỘI

2

1.1.

Khái niệm và kết cấu của ý thức xã hội

2

1.2.

Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC -

4

LÊNIN VỀ Ý THỨC XÃ HỘI VÀO XÂY DỰNG
CHƯƠNG 2. ĐỜI SỐNG TINH THẦN CHO CÁN BỘ, GIÁO


8

VIÊN, NHÂN VIÊN TRƯỜNG MẪU GIÁO SAO
2.1.

BIỂN, NÚI THÀNH
Trường mẫu giáo Sao Biển, Núi Thành
Vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về ý thức xã

8

2.2.

hội vào xây dựng đời sống tinh thần cho cán bộ, giáo viên,

8

nhân viên trường mẫu giáo Sao Biển, Núi Thành
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

15
16


ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong đời sống xã hội, vật chất và tinh thần là hai mặt cơ bản. Nếu kinh tế là
nền tảng vật chất của đời sống xã hội, thì ý thức xã hội với tính cách là một mặt của
đời sống tinh thần xã hội. Thiếu điều kiện vật chất thì khơng có sự tồn tại của con

người, nhưng thiếu điều kiện tinh thần thì xã hội khơng thể phát triển được. Trong
quá trình tồn tại và phát triển của lịch sử, cơ sở vật chất và tinh thần thường xuyên
thấm lẫn vào nhau và hỗ trợ lẫn nhau. Chừng nào nền tảng tinh thần suy yếu, chừng
đó xã hội sẽ lâm vào khủng hoảng, các tệ nạn xã hội xuất hiện và sự phát triển kinh
tế sẽ gặp khó khăn.
Nền tảng tinh thần của xã hội có vai trị quan trọng trong ni dưỡng, định
hướng, tạo ra điều kiện, môi trường cho mỗi người phát triển. Nền tảng tinh thần lành
mạnh, tiến bộ sẽ góp phần hình thành ở con người lý tưởng, lối sống, phẩm chất, đạo
đức, quan niệm chân - thiện - mỹ đúng đắn, là động lực của phát triển kinh tế. Trong
khi đó, văn hóa mà hạt nhân là ý thức xã hội được xem là nền tảng tinh thần của xã
hội. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI của Đảng đã bổ sung phát triển quan điểm chỉ
đạo của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về vắn hóa là: Văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội, là mục tiêu động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải đặt
ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Trong quan điểm của Đảng, xây dựng văn
hóa gắn với con người, do con người và vì con người.
Trong những năm qua, lãnh đạo Trường Mẫu giáo Sao Biển đã có nhiều biện
pháp xây dựng và nâng cao đời sống tinh thần cho cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà
trường. Tuy nhiên, việc xây dựng đời sống tinh thần vẫn còn những hạn chế nhất định.
Vì vậy, nghiên cứu vấn đề “Ý thức xã hội và xây dựng đời sống tinh thần cho cán
bộ, giáo viên, nhân viên trường Mẫu giáo Sao Biển, Núi Thành” làm đề tài tiểu luận
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

4


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ Ý
THỨC XÃ HỘI
1.1. Khái niệm và kết cấu của ý thức xã hội
Tồn tại xã hội là sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã

hội. Trong những quan hệ xã hội vật chất, hai loại quan hệ cơ bản là quan hệ giữa
người với tự nhiên và quan hệ vật chất giữa người với người.
Tồn tại xã hội được nghiên cứu với tính cách vừa là đời sống vật chất vừa là
những quan hệ vật chất giữa người với người. Theo ý nghĩa đó thì tồn tại xã hội
khơng phụ thuộc vào ý thức xã hội và ý thức xã hội không bao quát được toàn bộ
tồn tại xã hội.
Tồn tại xã hội gồm các yếu tố cơ bản sau: điều kiện tự nhiên (trước hết là hoàn
cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số, phương thức sản xuất vật chất. Trong ba yếu tố
cơ bản đó thì phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất. Như vậy, tồn tại xã
hội là mặt vật chất xã hội. Mỗi giai đoạn phát triển của lồi người có một đời sống vật
chất riêng - một tồn tại xã hội riêng. Mặt khác, các yếu tố của tồn tại xã hội thường
xuyên thay đổi nên tồn tại xã hội có tính lịch sử.
Khái niệm ý thức xã hội: ý thức xã hội là một mặt của đời sống tinh thần xã
hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền
thống… nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn
phát triển nhất định.
Khi nghiên cứu về khái niệm ý thức xã hội cũng cần thấy rõ sự khác nhau tương
đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân. Ý thức cá nhân là thế giới tinh thần của những
con người riêng biệt, cụ thể. Ý thức cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội ở những mức độ
khác nhau, do đó nó khơng thể khơng mang tính xã hội. Song, ý thức cá nhân không
phải bao giờ cũng thể hiện quan điểm tư tưởng, tình cảm phổ biến của một cộng đồng ,
một tập thể, một xã hội, một thời đại nhất định. Ý thức xã hội và ý thức cá nhân cùng
phản ánh tồn tại xã hội, chúng tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng, xâm nhập
vào nhau và làm phong phú cho nhau.
Kết cấu của ý thức xã hội: Ý thức xã hội gồm các hiện tượng tinh thần, những
bộ phận, những hình thái khác nhau phản ánh tồn tại xã hội bằng những phương thức
khác nhau. Tuỳ theo góc độ xem xét, chúng ta có thể chia ý thức xã hội thành các dạng
khác nhau.

5



Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận: Ý thức xã hội thông thường là
những tri thức, những quan niệm của con người hình thành một cách trực tiếp trong
hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hố, khái qt hóa; Ý thức lý luận
là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hoá, khái qt hố thành các học thuyết
xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, qui luật.
Ý thức xã hội thơng thường tuy trình độ thấp hơn so với ý thức lý luận nhưng ý
thức xã hội thông thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt cuộc sống hàng
ngày của con người, thường xuyên chi phối cuộc sống đó. Ý thức xã hội thơng thường
là tiền đề quan trọng cho sự hình thành của học thuyết khoa học. Ý thức lý luận (lý
luận khoa học) có khả năng phản ánh khái qt, sâu sắc, chính xác, nó có khả năng
vạch ra mối quan hệ bản chất của sự vật trong tồn tại xã hội.
Mối quan hệ giữa hệ tư tưởng và tâm lý xã hội: Hệ tư tưởng và tâm lý xã hội
tuy là hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng
chúng có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau. Cả hai đều có nguồn gốc tự tồn tại xã
hội và phản ánh tồn tại xã hội. Nhưng trong đó, tâm lý xã hội tạo điều kiện thuận lợi
hoặc gây trở ngại cho sự hình thành, sự truyền bá, sự tiếp thu của con người đối với
một hệ tư tưởng nhất định (tâm lý, tình cảm giai cấp là điều kiện thuận lợi cho các
thành viên giai cấp tiếp thu hệ tư tưởng của giai cấp). Mối liên hệ giữa hệ tư tưởng
(đặc biệt là tư tưởng khoa học, tiến bộ) với tâm lý xã hội, với sự sinh động phong phú
của đời sống thực tiễn sẽ giúp cho hệ tư tưởng bớt xơ cứng, giảm sai lầm.
Ngược lại, hệ tư tưởng, lý luận xã hội sẽ làm gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý
xã hội. Hệ tư tưởng khoa học sẽ thúc đẩy tâm lý xã hội phát triển theo hướng đúng
đắn, lành mạnh. Hệ tư tưởng phản khoa học sẽ kích thích những yếu tố tiêu cực của
tâm lý xã hội phát triển. Hệ tư tưởng không ra đời trực tiếp từ tâm lý xã hội, không là
sự biểu hiện trực tiếp của tâm lý xã hội.
Tính giai cấp của ý thức xã hội:
Trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật chất
khác nhau, có những lợi ích khác nhau, địa vị xã hội khác nhau, nên ý thức xã hội của

các giai cấp có nội dung và hình thức khác nhau. Ý thức xã hội mang tính giai cấp.
Tính giai cấp của ý thức xã hội được biểu hiện ở tâm lý xã hội và hệ tư tưởng về tâm
lý xã hội: mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói quen riêng, có thiện cảm hay ác
cảm với tập đoàn xã hội này hay tập đồn xã hội khác. Ở trình độ hệ tư tưởng thì tính
giai cấp của ý thức xã hội được biểu hiện rất sâu sắc. Trong xã hội có đối kháng giai

6


cấp bao giờ cũng xuất hiện những quan điểm, tư tưởng hoặc hệ tư tưởng đối lập nhau:
đó là tư tưởng của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, bao giờ bóc lột và giai cấp bị bóc
lột. Những tư tưởng thống trị thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị
về kinh tế và thống trị về chính trị ở thời đại đó. Sự đối lập đó thể hiện: nếu hệ tư
tưởng của giai cấp thống trị, bóc lột ra sức bảo vệ địa vị của giai cấp đó thì hệ tư tưởng
của giai cấp bị trị, bị bóc lột thể hiện nguyện vọng, lợi ích của quần chúng lao động
chống lại xã hội người bóc lột người để xây dựng xã hội cơng bằng, bình đẳng.
Trong xã hội có giai cấp, thì ý thức của các giai cấp trong xã hội có sự tác động
qua lại lẫn nhau. Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp bị trị do bị tước đoạt tư liệu sản
xuất, bị áp bức về vật chất nên không thể tránh khỏi bị áp bức về tinh thần. Do vậy,
giai cấp bị thống trị không tránh khỏi chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị,
bóc lột. Các Mác và Ăng ghen đã viết “Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất
vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần, thành thử nói chung
tư tưởng của những người khơng có tư liệu sản xuất tinh thần cũng đồng thời bị giai
cấp thống trị đó chi phối” [1, tr.190]. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của hệ tư tưởng
của giai cấp thống trị cịn tuỳ thuộc vào trình độ phát triển ý thức cách mạng của giai
cấp bị thống trị.
Trong xã hội có giai cấp, bản thân giai cấp thống trị cũng chịu ảnh hưởng tư
tưởng của giai cấp bị thống trị. Ở thời kỳ đấu tranh cách mạng phát triển mạnh, thường
thấy một số người trong giai cấp thống trị, nhất là những tri thức tiến bộ từ bỏ giai cấp
xuất thân của mình chuyển sang hàng ngũ các giai cấp cách mạng và chịu ảnh hưởng

của giai cấp đó về tư tưởng. Đặc biệt trong số đó, có những người cịn trở thành nhà tư
tưởng của giai cấp cách mạng.
1.2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
* Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định
Công lao to lớn của Các Mác và Ph. Ăng ghen là phát triển chủ nghĩa duy vật
đến đỉnh cao, xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử và lần đầu tiên giải quyết khoa
học về sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh rằng: đời sống tinh thần của xã hội
hình thành và phát triển trên cơ sở đời sống vật chất rằng khơng thể tìm nguồn gốc của
tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó, nghĩa là khơng thể tìm trong đầu óc con
người mà phải tìm trong chính hiện thực vật chất. Sự biến đổi của một thời đại nào đó
cũng sẽ khơng giải thích được nếu chỉ căn cứ vào ý thức thời đại đó. Các Mác viết:

7


“Không thể nhân định được về một thời đại đảo lộn như thế, căn cứ vào ý thức của
thời đại đó. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật
chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ
sản xuất ấy” [2, tr.310].
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã chỉ rõ rằng: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã
hội, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Nghĩa là tồn tại
xã hội quyết định nội dung phản ánh của ý thức xã hội: nó quyết định ý thức xã hội ở
sự nghèo nàn, phong phú hay đơn điệu trong nội dung phản ánh. Tồn tại xã hội cũng
quyết định tính chất cách mạng hay phản ánh cách mạng, đối kháng hay không đối
kháng trong ý thức xã hội. Khi tồn tại xã hội thay đổi, nhất là phương thức sản xuất
thay đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị pháp
quyền, triết học, đạo đức, văn hóa nghệ thuật…sớm hay muộn cũng thay đổi theo. Cho
nên, chúng ta thấy ở những thời kỳ lịch sử khác nhau có những quan điểm, lý luận, tư
tưởng xã hội khác nhau thì đó chính là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật

chất quyết định. Điều đó chứng tỏ: “Không phải ý thức của con người quyết định tồn
tại của họ, trái lại tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ” [6, tr.90].
* Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội với ý thức xã hội, còn ý thức
xã hội là phản ánh tồn tại xã hội phụ thuộc vào tồn tại xã hội, triết học Mác Lênin không
xem ý thức xã hội như một yếu tố hoàn toàn thụ động mà trái lại cịn nhấn mạnh sự tác
động tích cực trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội, nhấn mạnh tính độc lập
tương đối của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối của ý thức xã
hội được thể hiện trên những điểm sau.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
Tính “thường lạc hậu” của ý thức xã hội nên hiểu theo nghĩa: ý thức xã hội
thường ra đời sau khi tồn tại xã hội đã ra đời và thường mất đi sau khi tồn tại xã
hội đã mất đi. Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội từ những
nguyên nhân sau:
Một là, theo nguyên lý phản ánh của Lênin: ý thức xã hội là các phản ánh tồn
tại xã hội nên nó chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội. Hơn nữa sự
biến đổi của tồn tại xã hội do tác động thường xuyên mạnh mẽ và trực tiếp của những
hoạt động thực tiễn của con người, nên nó thường diễn ra với tốc độ rất nhanh mà ý
thức xã hội có thể khơng phản ánh kịp và trở nên lạc hậu.

8


Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc
hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
Ba là, ý thức xã hội ln gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đồn
người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ lạc hậu
thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá chống lại các lực
lượng xã hội tiến bộ.
Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi xã hội cũ mất đi, thậm chí mất đi rất lâu,

nhưng ý thức xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập của ý thức
xã hội thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực tâm lý xã hội: trong truyền thống tập quán, thói
quen… V.I.Lênin cho rằng sức mạnh tập quán được tạo ra qua nhiều thế kỷ là sức
mạnh ghê gớm nhất [7, tr.210].
Khuynh hướng lạc hậu của ý thức xã hội cũng biểu hiện rõ trong điều kiện xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiều hiện tượng ý thức có nguyên nhân sâu xa trong xã hội cũ
vẫn tồn tại dai dẳng trong xã hội mới như lối sống ăn bám, lười lao động, tham nhũng,
chủ nghĩa cá nhân…
Những ý thức lạc hậu, tiêu cực khơng mất đi một cách dễ dàng. Vì vậy, trong sự
nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu
tranh chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch về mặt
tư tưởng. Đồng thời kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ kết hợp với phát huy những
truyền thống tư tưởng tốt đẹp của dân tộc.
Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Triết học Mác Lênin khi khẳng định tính lạc hậu của ý thức xã hội so với tồn tại
xã hội thì đồng thời thừa nhận rằng trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con
người, đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của
tồn tại xã hội. Tư tưởng đó có thể dự báo được tương lai, có tác dụng chỉ đạo, tổ chức
hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động của con người vào giải quyết
những nhiệm vụ mới do sự chín muồi của đời sống vật chất tạo ra.
Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình
Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình vì kế thừa là qui luật
chung của các sự vật, hiện tượng nên trong quá trình vận động của ý thức xã hội nó cũng
phải có tính kế thừa. Mặt khác, sự tồn tại, phát triển của ý thức xã hội là phản ánh tồn tại
xã hội, mà tồn tại xã hội cũng có tính kế thừa, nó vận động liên tục nên ý thức xã hội
cũng phản ánh q trình đó, nó có tính kế thừa.

9



Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng những quan điểm
lý luận của mỗi thời đại không nảy sinh trên mặt đất trống không mà được tạo ra trên
cơ sở kế thừa những thành tựu lý luận của các thời đại trước. Ví dụ, chủ nghĩa Mác
Lênin, kế thừa tinh hoa tư tưởng của lồi người đã đạt được trước đó mà trực tiếp là
nền triết học cổ điển Đức, nền kinh tế chính trị học cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội
không tưởng ở Pháp.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính kế thừa của ý thức xã hội có ý
nghĩa rất to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tinh thần của xã hội xã hội
chủ nghĩa. V.I .Lênin nhấn mạnh rằng, văn hóa xã hội chủ nghĩa cần phải phát huy
những thành tựu và truyền thống tốt đẹp nhất của nhân loại từ cổ chí kim trên cơ sở thế
giới quan Mác xít. Người nhấn mạnh: “Văn hố vơ sản phải là sự phát triển hợp qui
luật của tổng số những kiến thức mà loài người đã tích luỹ được dưới ách thống trị của
xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu” [3, tr.467].
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội
Ý thức xã hội tồn tại trong những hình thái khác nhau. Những hình thái chủ yếu
của ý thức xã hội là: ý thức chính trị, ý thức đạo đức, ý thức khoa học, ý thức thẩm mỹ,
ý thức tôn giáo và triết học. Tính phong phú đa dạng của các hình thái ý thức xã hội
phản ánh và chịu sự qui định của tính phong phú đa dạng của bản thân tồn tại xã hội.
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội cũng là một biểu hiện nữa
của tính độc lập tương đối của ý thức. Đây là qui luật phát triển của ý thức xã hội. Sự
tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội làm cho mỗi hình thái có những mặt,
những tính chất khơng thể giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hay
bằng các điều kiện vật chất.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển của xã hội phụ thuộc vào
những điều kiện lịch sử cụ thể, vào tính chất các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư
tưởng nảy sinh, vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng vào mức độ
phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội, vào mức độ
thâm nhập của tư tưởng đó vào quần chúng. Vì vậy cần phân biệt vai trò của ý thức tư
tưởng tiến bộ và ý thức của tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển của xã hội.
Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại, tuỳ

theo hồn cảnh lịch sử cụ thể, có những hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng
đầu và tác động mạnh đến cách hình thái ý thức khác.

10


Như vậy, nguyên lý của triết học Mác - Lênin về tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển của ý thức xã hội và của đời
sống tinh thần xã hội nói chung. Nó bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc tầm
thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Đây cũng là cơ sở lý luận
để quán triệt quan điểm của Đảng ta trong việc kết hợp phát triển kinh tế với xây dựng
nền văn hóa mới, và con người mới trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ
Ý THỨC XÃ HỘI VÀO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG TINH THẦN CHO CÁN BỘ,
GIÁO VIÊN, NHÂN VIÊN TRƯỜNG MẪU GIÁO SAO BIỂN, NÚI THÀNH
2.1. Trường mẫu giáo Sao Biển, Núi Thành
Trường mẫu giáo Sao Biển hiện tại trường có 285 học sinh chia ra 09 nhóm,
lớp, trong đó 01 nhóm Nhà trẻ và 08 lớp Mẫu giáo, các phịng học thống mát, sạch
đẹp, an tồn, có khối phịng hành chánh, giáo dục thể chất, có sân chơi, vườn cây của
bé, cây xanh, hoa kiểng, tạo nên môi trường gần gũi, thân thiện, đáp ứng các yêu cầu
hoạt động của trường mầm non theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Được sự
quan tâm và chỉ đạo sâu sát của phòng Giáo dục và Đào tạo, chính quyền các cấp cùng
với sự nỗ lực phấn đấu của đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên, cha mẹ học sinh và
học sinh trong những năm học vừa qua nhà trường đã không ngừng đổi mới công tác
quản lý, phương pháp dạy học và thái độ phục vụ, từng bước khẳng định được chất
lượng chăm sóc giáo dục của trường. Từ năm 2020 đến nay trường luôn đạt danh hiệu
trường tiên tiến, riêng năm học 2020-2021 trường được công nhận danh hiệu “Tập thể
lao động xuất sắc”. Tổ chức Cơng đồn, Đồn thanh niên đạt vững mạnh, Chi bộ đạt
“Trong sạch vững mạnh”.
2.2. Vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về ý thức xã hội vào xây

dựng đời sống tinh thần cho cán bộ, giáo viên, nhân viên trường mẫu giáo Sao
Biển, Núi Thành
* Thực trạng vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về ý thức xã hội
vào xây dựng đời sống tinh thần cho cán bộ, giáo viên, nhân viên trường mẫu
giáo Sao Biển, Núi Thành
Ưu điểm.
Nhà trường có kế hoạch chiến lược xây dựng và phát triển nhà trường, thực
hiện đầy đủ mục tiêu của giáo mẫu giáo, giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, trí tuệ,
thẩm mỹ và hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, giúp trẻ 5 tuổi vào học

11


lớp một tốt, chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ ngày càng được nâng cao, cơ sở vật chất
khang trang và đầy đủ hơn.
Tổ chức và tham gia tích cực các hoạt động phong trào thi đua tại đơn vị cũng
như cấp trên phát động theo đúng tinh thần tự nguyện, tự giác đem lại chất lượng trong
phong trào thi đua và tham gia một cách đạt hiệu quả không chạy theo thành tích,
trong nhiều năm trường đạt được nhiều kết quả cao.
Để thực hiện có hiệu quả phong trào xây dựng đời sống tinh thần, nhà trường
tập trung thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị đề ra. 100% cán bộ - giáo viên - công
nhân viên trong nhà trường tiếp tục hưởng ứng thực hiện việc học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, cuộc vận động “Mỗi thầy giáo, cô giáo là
một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”; phong trào thi đua “Xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực”. Mỗi cán bộ - giáo viên - cơng nhân viên ln giữ gìn
phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo, gương mẫu trước học sinh, thực sự là tấm
gương sáng cho học sinh noi theo.
Song song với thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, việc thực hiện nếp sống
văn minh, mơi trường văn hóa cơng sở cũng là một nội dung được nhà trường chú
trọng. Cơng đồn phối hợp với nhà trường xây dựng các bộ quy chế như: Quy chế làm

việc cơ quan, Quy tắc ứng xử của cán bộ - giáo viên - công nhân viên và thực hiện quy
chế dân chủ... Mỗi cán bộ, giáo viên, nhân viên khi đến trường đều có trang phục gọn
gàng, lịch sự, phù hợp với cơng việc của từng bộ phận. Quan hệ giao tiếp, ứng xử văn
minh, lịch sự giữa đồng chí đồng nghiệp, giữa giáo viên và phụ huynh, giữa cô và trẻ;
nội bộ đoàn kết, giúp nhau cùng thực hiện tốt các nhiệm vụ của nhà trường đã đề ra.
Tập trung xây dựng trường lớp thân thiện - xanh - sạch - đẹp - an tồn. Nhà
trường đã tiết kiệm nguồn kinh phí hoạt động, qt vơi lại các dãy phịng học, tường
rào, làm lại bảng tên trường tạo cho trường có cảnh quan đẹp. Lối đi vào từ cổng được
giáo viên trang trí với những câu khẩu hiệu được thay đổi theo chủ đề như ”Trường
học thân thiện, cô mẫu mực. Yêu trường yêu lớp, bé chăm ngoan”; hay ”Trường là
nhà, cô là mẹ, bé là bé ngoan”, bằng những dây chong chóng được cắt từ vải nỉ nhiều
màu sắc rực rỡ tạo ấn tượng đẹp cho trẻ, phụ huynh và tất cả mọi người khi bước chân
vào trường. Ngay trong cuộc họp hội đồng chuẩn bị cho năm học mới, nhà trường đã
phân cơng cụ thể các mảng trang trí chung trên sân trường, chăm sóc vườn cây, vườn
rau, vệ sinh từng khu vực cho đội ngũ giáo viên, nhân viên để cảnh quan, trường lớp
luôn luôn sạch đẹp, thân thiện, an tồn. Các thiết chế văn hóa cơng sở ngày càng được

12


củng cố và hồn thiện như lối đi lại, cơng trình vệ sinh, các bảng, biểu tuyên truyền,…
Các khu vực hoạt động trên sân được bố trí khoa học sân chơi, sân chơi an tồn giao
thơng, khu đồ chơi ngồi trời, vườn cổ tích của bé…
Nhà trường tổ chức triển khai thực hiện tốt phong trào “Giỏi việc trường, đảm
việc nhà”; các hoạt động kỷ niệm như ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3, ngày thành lập Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam 20/10, Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 được đổi mới hình
thức nội dung sinh hoạt như tham quan du lịch, tọa đàm, gặp mặt dâu rể…
Đời sống văn hóa cơng sở được tăng cường. Các tổ chức trong nhà trường
phối hợp xây dựng mơi trường văn hóa trong sạch, khơng có tệ nạn xã hội, khơng
tun truyền và thực hiện các hành vi mê tín dị đoan; khơng mắc các tệ nạn xã hội;

không sử dụng, tàng trữ, lưu hành văn hóa phẩm độc hại. Phong trào ni con khỏe,
dạy con ngoan, thực hiện kế hoạch hóa gia đình những năm qua được nhà trường thực
hiện tốt. Các cháu là con cán bộ - giáo viên - công nhân viên của đơn vị đều chăm
ngoan, thi đua học tốt. Nhà trường triển khai kịp thời các chủ trương, đường lối của
Đảng, pháp luật của nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của ngành và địa phương đến
cán bộ - giáo viên - cơng nhân viên; việc trang trí, treo các pano, khẩu hiệu tuyên
truyền, chào mừng các ngày lễ quan trọng của đất nước trong năm được thực hiện
nghiêm chỉnh, chu đáo.
Hạn chế.
Việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho đội ngũ giáo viên (đặc biệt là đội
ngũ giáo viên trẻ cịn khó khăn về kinh tế, thu nhập, nhà ở, con nhỏ, tâm lý còn nhiều
biến động…) còn chưa được thường xuyên và thiết thực. Ngoài việc hướng dẫn, dạy
dỗ các em, giáo viên mẫu giáo cịn phải thực hiện các cơng việc chăm sóc, nuôi dưỡng
các em. Thời gian làm việc của giáo viên mẫu giáo thường kéo dài từ sáng cho đến
cuối giờ chiều. Vất vả là vậy, song chế độ đối với giáo viên mẫu giáo dù đã được điều
chỉnh, nhưng vẫn chưa hợp lý.
Tuy được đầu tư về cơ sở vật chất, trang, thiết bị tương đối đồng bộ, nhưng chất
lượng dạy và học tại nhà trường còn nhiều bất cập. Việc tổ chức ngày hội, ngày lễ để
tạo sân chơi lành mạnh cho các em cong ít, thiếu kinh phí thực hiện, hình thức chưa
phong phú nên chưa tạo sự riêng biệt trong mơi trường các lớp, phát huy tính sáng tạo
của từng thành viên trong trang trí, tổ chức để thu hút khơng những trẻ, mà cịn cả cha
mẹ trẻ tham gia. Phối hợp với cha mẹ trẻ tổ chức tham quan ngoài địa phương nhằm

13


giúp trẻ mở mang tầm mắt rèn luyện tình cảm đồng đội, bạn bè giúp đỡ lẫn nhau cho
trẻ còn hạn chế. Sự pối hợp gắn kết giữa nhà trường và cha mẹ trẻ còn lỏng lẻo.
* Một số biện pháp nâng cao hiệu quả vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác
- Lênin về ý thức xã hội vào xây dựng đời sống tinh thần cho cán bộ, giáo viên,

nhân viên trường mẫu giáo Sao Biển, Núi Thành
Một là, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, giáo viên về ý nghĩa
của việc xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở nhà trường. Để nâng cao hiệu quả xây
dựng đời sống tinh thần của trường thì nhân tố quan trọng đầu tiên đó là nhận thức của
các chủ thể tiến hành hoạt động xây dựng đời sống tinh thần của trường. Nếu các chủ
thể hoạt động xây dựng đời sống tinh thần của trường có nhận thức đúng đắn, hiểu
được tầm quan trọng của xây dựng đời sống tinh thần của trường trong quá trình phát
triển hình thành nhân cách của trẻ, thì hoạt động xây dựng đời sống tinh thần của
trường mới đạt được kết quả cao. Nâng cao nhận thức cho các chủ thể tiến hành hoạt
động giáo dục, chính là đổi mới, nâng cao nhận thức, nâng cao ý thức trách nhiệm cho
đội ngũ giáo viên, cha mẹ học sinh, các cấp ủy Đảng, chính quyền, đồn thể trong và
ngồi nhà trường để thấy được tầm quan trọng và sự cần thiết của việc xây dựng đời
sống tinh thần của trong nhà trường trong giai đoạn hiện nay.
Nâng cao nhận thức cho giáo viên nhằm thống nhất quan niệm về vai trò, tầm
quan trọng của xây dựng đời sống tinh thần của trường, đặc biệt thống nhất về mục
tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức xây dựng đời sống tinh thần của
trường. Nâng cao ý thức trách nhiệm của họ trong xây dựng đời sống tinh thần cho trẻ
thông qua các hoạt động, qua thái độ lao động tận tụy, qua phong cách, lối sống mẫu
mực của những nhà sư phạm để học sinh noi theo. Đặc biệt với những giáo viên trực
tiếp chăm sóc giáo dục trẻ cần phát huy hơn nữa khả năng sư phạm, tình yêu thương
với trẻ và trách nhiệm lớn của “người mẹ thứ hai” để hồn thành nhiệm vụ của mình.
Nâng cao nhận thức cho cha mẹ học sinh nhằm giúp cha mẹ học sinh hiểu rằng
việc xây dựng đời sống tinh thần cho học sinh không chỉ là trách nhiệm của nhà
trường, của các thầy cơ giáo mà gia đình đóng vai trị rất quan trọng. Xây dựng đời
sống tinh thần trong nhà trường sẽ bị hạn chế nếu không nhận được sự phối hợp, hỗ
trợ, sự cộng hưởng về tinh thần trách nhiệm của giáo dục gia đình, trước hết của các
bậc làm cha làm mẹ.
Hiệu trưởng cần thường xuyên nâng cao nhận thức cho các lực lượng giáo dục
trong và ngoài trường. Nội dung của biện pháp là cần làm cho mọi người hiểu được


14


vai trò của xây dựng đời sống tinh thần trong việc trang bị cho trẻ những điều kiện tốt
nhất cho bản thân, giúp trẻ thích nghi với mơi trường xã hội, tự tin để có thể hịa nhập
với xã hội và xa hơn là hòa nhập với sự phát triển của thế giới, đó chính là một yếu tố
để phát triển kinh tế - chính trị - xã hội, phải nắm được hệ thống các giá trị đạo đức,
giá trị tinh thần, định hướng con người vươn tới chân - thiện - mỹ.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, ban giám hiệu nhà trường trong
xây dựng đời sống văn hóa tinh thần. Chức năng hàng đầu của đời sống văn hóa tinh
thần là đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần và giáo dục con người bằng văn hóa. Để
thực hiện tốt chức năng này địi hỏi phải nâng cao vai trò lãnh đạo của các tổ chức
đảng, vai trò quản lý của nhà trường, sự năng động tích cực của ban giám hiệu nhà
trường cũng như sự tham gia tự giác của cha mẹ học sinh trong nhiệm vụ xây dựng đời
sống văn hóa tinh thần ở nhà trường. Quá trình xây dựng đời sống tinh thần nhất thiết
phải được xây dựng có kế hoạch, có sự chỉ đạo sâu sát của cấp ủy đảng, được triển
khai thực hiện một cách chu đáo, tăng cường khâu kiểm tra, giám sát, rút kinh nghiệm
và điều chỉnh kịp thời.
Nhận thức đúng đắn về vai trò đặc biệt quan trọng của xây dựng đời sống tinh
thần trong việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người trong xây dựng xã hội mới Xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã chỉ rõ: “Con người là trung tâm của chiến lược phát
triển, đồng thời là chủ thể phát triển” [5, tr.76]. Quán triệt tinh thần đó, ban giám hiệu
nhà trường cần luôn xác định bên cạnh việc chăm lo xây dựng đời sống tinh thần phải
khắc phục thái độ xem nhẹ việc xây dựng và đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa
với các biểu hiện tiêu cực, phản văn hóa sâm nhập vào trong nhà trường.
Bên cạnh đó, nhà trường cần xây dựng “quy tắc ứng xử văn hóa trong nhà
trường” dựa trên triết lý riêng của mình để khẳng định được phong cách, xác định hệ
thống giá trị, chuẩn mực đạo đức của nhà trường. Theo đó, thống nhất và hướng dẫn
hành vi ứng xử của mọi thành viên trong nhà trường theo các giá trị và chuẩn mực đã
xác định.
Tạo dựng và nuôi dưỡng bầu không khí cởi mở, dân chủ, hợp tác, tin cậy và tôn

trọng lẫn nhau; Mỗi cán bộ, giáo viên đều biết rõ cơng việc mình phải làm, hiểu rõ
trách nhiệm, ln có ý thức chia sẻ trách nhiệm, tích cực tham gia vào việc dạy và học;
coi trọng con người, cổ vũ sự nỗ lực hồn thành cơng việc và cơng nhận sự thành cơng
của mỗi người; Nhà trường có những chuẩn mực để luôn luôn cải tiến, vươn tới; Sáng
tạo và đổi mới; Khuyến khích giáo viên cải tiến phương pháp nâng cao chất lượng dạy

15


và học, giáo viên được khuyến khích tham gia đóng góp ý kiến trong các hoạt động
của nhà trường; Khuyến khích hợp tác, làm việc nhóm; Chia sẻ kinh nghiệm và trao
đổi chuyên môn; Xây dựng mối quan hệ ứng xử, tôn trọng, hiểu biết lẫn nhau, học hỏi
giao lưu giữa thầy và trị giữa trị và trị. Khuyến khích học sinh phát biểu, bày tỏ quan
điểm cá nhân; xây dựng và thực hiện nội quy nhà trường, nội quy lớp học…
Tuyệt đối không để xảy ra những biểu hiện tiêu cực, khơng lành mạnh (phi văn
hóa) trong nhà trường như: Thiếu sự tôn trọng; sự buộc tội, đổ lỗi cho nhau; sự kiểm
soát quá chặt chẽ đánh mất quyền tự chủ của cá nhân; quan liêu, nguyên tắc một cách
máy móc; trách mắng học sinh vì khơng có sự tiến bộ; thiếu sự động viên khuyến
khích; thiếu sự cởi mở, thiếu sự tin cậy; thiếu sự hợp tác, thiếu sự chia sẻ học hỏi lẫn
nhau; mâu thuẫn nội bộ…
Tăng cường tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, các câu lạc bộ,
các hoạt động giáo dục kĩ năng sống, hoạt động trải nghiệm cho trẻ, góp phần thu hút
trẻ đến với nhà trường, đồng thời giúp trẻ có nếp sống và hành xử văn minh, lịch sự,
hiểu biết, hợp tác tác, hạn chế các thói quen xấu.
Xây dựng tốt mối quan hệ giữa nhà trường - gia đình - xã hội, đặc biệt là sự
phối hợp thường xuyên với cha mẹ học sinh để cùng thực hiện tốt các chuẩn mực văn
hóa, hành vi ứng xử của cha mẹ học sinh đối với thầy cô trong nhà trường. Để thực
hiện tốt việc xây dựng môi trường văn hóa trong trường học, cần có sự chỉ đạo thực
hiện, kiểm tra giám sát kịp thời của các cấp, các ngành.
Ba là, tích cực đấu tranh chống lại các biểu hiện phản văn hóa trong nhà

trường. Để đấu tranh chống lại các biểu hiện phản văn hóa trong nhà trường cần phải
thực hiện tốt các công việc sau: Trước hết tự bản thân người hiệu trưởng, những người
quản lý nhà trường cần phải nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng văn hóa
tích cực trong nhà trường. Hiệu trưởng cần xác định hệ thống các giá trị cốt lõi, các
đặc trưng cần xây dựng trong nhà trường, thống nhất và hướng dẫn hành vi ứng xử của
mọi thành viên trong nhà trường theo các giá trị và chuẩn mực đã xác định; Thường
xuyên tuyên truyền nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ công nhân viên, giáo viên
và học sinh về các giá trị văn hóa trong nhà trường; Tăng cường giáo dục chính trị, tư
tưởng cho cán bộ giáo viên và người học; Đẩy mạnh vai trị của các tổ chun mơn,
đồn thanh niên, cơng đồn… và coi đó là lực lượng nịng cốt trong các hoạt động xây
dựng văn hóa; Xây dựng mơi trường cảnh quan văn hóa, khn viên sạch đẹp kết hợp

16


với tăng cường cơ sở vật chất nhà trường lớp học; Phối kết hợp với các lực lượng giáo
dục địa phương và gia đình; Tăng cường cơng tác kiểm tra,đánh giá và thông tin,
truyền thông trong công tác xây dựng văn hóa nhà trường; Văn hóa phải được lồng
ghép vào việc giảng dạy các môn học; Tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ, giáo viên
Nhà trường trong việc học tập, nghiên cứu và có cơ chế khuyến khích phù hợp trong
việc thực hiện văn hóa nhà trường.
Nhà trường cần đa dạng hóa hình thức giáo dục văn hóa ứng xử cho các cháu
học sinh, thông qua các hoạt động tập thể, các câu lạc bộ, cuộc thi, diễn đàn, tọa đàm,
đối thoại..., phát huy vai trò hướng dẫn về ứng xử văn hóa của các cơ, động viên, kích
thích được học sinh thực hiện có hiệu quả cơng tác giáo dục đạo đức, lối sống.

17


KẾT LUẬN

Xuất phát từ tồn tại xã hội, đặc biệt là từ điều kiện sinh hoạt vật chất, quan hệ
vật chất, triết học Mác - Lênin đi nghiên cứu những hiện tượng thuộc đời sống tinh
thần của xã hội: chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và quan hệ xã hội.
Trong mối quan hệ đó tồn “tại xã hội quyết định ý thức xã hội, nhưng ý thức xã hội có
tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội, nó có những đặc trưng riêng của sự phản
ánh tồn tại xã hội, trong sự vận động và phát triển của nó” [4, tr.617]. Ý thức xã hội tác
động trở lại tồn tại xã hội, mức độ tác động đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố: điều kiện
lịch sử, mức độ thâm nhập, truyền bá của quần chúng… Trong xã hội có giai cấp, ý
thức xã hội có tính giai cấp và sự tác động của nó phụ thuộc vào ý thức xã hội của giai
cấp cầm quyền.
Nghiên cứu tính độc lập tương đối của ý thức xã hội theo quan điểm triết học
Mác - Lênin có ý nghĩa rất quan trọng trong thực tiễn công tác xây dựng đời sống tinh
thần của trường mẫu giáo Sao Biển. Bởi vì thời gian qua, bên cạnh những thành tích
đã đạt được trên lĩnh vực xây dựng đời sống tinh thần, thì tại trường mẫu giáo Sao
Biển vẫn cịn những hạn chế. Những hạn chế đó đã ít nhiều ảnh hưởng đến chất lượng
cơng tác giáo dục và dào tạo của nhà trường. Trong thời gian tới, để xây dựng đời sống
tinh thần của nhà trường cần phải thực hiện nhiều giải pháp, trong đó trước tiên cần
tiến hành các giải pháp đã nêu trên.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.ăng-ghen toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 1976.
2. C.Mác và Ph.ăng-ghen tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 1976.
3. C.Mác và Ph.ăng-ghen tồn tập, tập 16, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 1976.
4. C.Mác và Ph.ăng-ghen toàn tập, tập 43, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà

Nội, 1976.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
XIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
6. Nguyễn Thế Vỹ, Xây dựng văn hóa trường học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2018.
7. V.I.Lênin, toàn tập, tập 35, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1976.

19



×