Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận cao học triết, đảng là hiện thân của mối liên hệ giữa đội tiên phong với giai cấp công nhân và quần chúng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.07 KB, 21 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm cuối của thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản
chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đây là giai đoạn mà giai cấp cơng nhân
đã lớn mạnh; vai trị của các Đảng cộng sản cũng được nâng cao. Trước tình hình
ấy, chủ nghĩa đế quốc tăng cường chống phá phong trào cơng nhân, chống phá
Đảng dân chủ-xã hội. Trong lúc đó, những người đứng đầu Quốc tế II và các Đảng
dân chủ-xã hội ở Tây Âu ngày càng lún sâu vào vũng lầy của chủ nghĩa cơ hội.
Chủ nghĩa tư bản đã ra sức tuyên truyền những tư tưởng phản động, xuyên tạc, đòi
xét lại và từ bỏ những nguyên tắc cách mạng của chủ nghĩa Mác. Trong điều kiện
như vậy, đòi hỏi phải đấu tranh kiên quyết với chủ nghĩa cơ hội, bảo vệ sự trong
sáng của chủ nghĩa Mác. Lênin đã hồn thành sứ mệnh lịch sử đó, Người đã phát
triển học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen một cách toàn diện và đã vận dụng
sáng tạo những nguyên lý về xây dựng đảng của C.Mác và Ph.Ăngghen để xây
dựng một Đảng kiểu mới, một Đảng chiến đấu cách mạng, một Đảng thường
xuyên liên hệ thực sự với quần chúng và biết lãnh đạo quần chúng.
Việc xây dựng một Đảng kiểu mới, thực sự cách mạng của giai cấp công
nhân Nga thường xuyên liên hệ chặt chẽ với quần chúng là một trong những cống
hiến vĩ đại của Lênin. Tư tưởng đó được Lênin đề cập trong nhiều tác phẩm và các
bài phát biểu của mình. Như tác phẩm: “Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào
cộng sản”; “Nhà nước và cách mạng”; “Sáng kiến vĩ đại”; “Những nhiệm vụ trước
mắt của chính quyền Xơ viết” … Lênin đã làm sáng tỏ những quan điểm Mác - xít
về xây dựng Đảng và nêu lên sáu nguyên tắc về tổ chức của một Đảng kiểu mới.
Đó là: Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân; Đảng là bộ phận có tổ chức
của giai cấp cơng nhân; Đảng là hình thức tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp công
nhân; Đảng được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ; Đảng là hiện thân của
mối liên hệ giữa đội tiên phong với giai cấp công nhân và quần chúng; Tự phê bình
và phê bình là quy luật phát triển của Đảng. Trong đó nguyên tắc: Đảng là hiện
thân của mối liên hệ giữa đội tiên phong với giai cấp công nhân và quần
chúng, là một trong những nguyên tắc rất quan trọng.



Phần I. Tư tưởng của Lênin về Đảng là hiện thân của mối liên hệ giữa
đội tiên phong với giai cấp công nhân và quần chúng
1. 1 Lênin kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác - P.Ăngghen.
Đây là một trong những nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng kiểu mới của
giai cấp công nhân; là mối quan hệ bản chất là quy luật tồn tại và phát triển của
Đảng kiểu mới; là sức mạnh, là vấn đề sống còn đối với Đảng cầm quyền; là điều
kiện cơ bản bảo đảm cho cách mạng thắng lợi và là tiêu chuẩn của một Đảng Mác xít chân chính.
Theo Lênin, Đảng phải liên hệ chặt chẽ với quần chúng là tất yếu khách
quan, bởi vì: Đảng cộng sản và quần chúng lao động là hai nhân tố cơ bản của cách
mạng vô sản. Đảng là người lãnh đạo và tổ chức quần chúng, còn quần chúng là
lực lượng vật chất tiến hành cách mạng. Nếu khơng có sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản thì quần chúng nhân dân khơng thể có phương hướng chính trị đúng để đấu
tranh và phong trào của quần chúng cũng chỉ dừng lại ở “chủ nghĩa công liên”,
cách mạng không thể giành thắng lợi. Mặt khác, nếu khơng có sự đồng tình và ủng
hộ của quần chúng thì Đảng khơng thể có sức mạnh, cách mạng vô sản không thể
đi tới thành công được. Sự lãnh đạo của Đảng kết hợp với tính tích cực và sáng tạo
của quần chúng tạo ra một sức mạnh vơ cùng to lớn.
Khi bàn về vai trị của quần chúng trong lịch sử, P.Ăngghen cho rằng: quần
chúng là người sáng tạo ra lịch sử, đó là động lực thực sự của lịch sử chứ không
phải cá nhân anh hùng và sự “phê phán thuần tuý” sáng tạo ra. Kế thừa, phát triển
và vận dụng sáng tạo quan điểm về quần chúng và vai trò của quần chúng của
C.Mác, Ph.Ăngghen, Lênin đã xây dựng một Đảng kiểu mới, Đảng Bôn - sê - vích
Nga có mối liên hệ chặt chẽ, máu thịt với giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Lênin khẳng định: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, quần chúng nhân dân
là lực lượng quyết định, lực lượng sáng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần
của xã hội. Đảng là một tổ chức tự nguyện, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng quần
chúng khỏi ách áp bức, bóc lột. Quần chúng cần có Đảng với tư cách là người lãnh
đạo trong cuộc đấu tranh ấy. Nếu khơng có sự đồng tình ủng hộ của quần chúng,

2



Đảng sẽ bị cô lập. Như vậy, mọi chủ trương, đường lối của Đảng không thể trở
thành hiện thực. Đảng không thể lãnh đạo được cách mạng, không thể là đội tiên
phong của giai cấp. Khi Đảng Bôn - sê - vích Nga đã nắm chính quyền, Lênin
thường nhấn mạnh rằng: sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ mối liên hệ mật thiết với
quần chúng, từ sự đồng tình và ủng hộ của quần chúng đối với Đảng. Thiếu điều
kiện đó, khơng những khơng thể xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội (CNXH)
mà cịn có thể dẫn đến mất chính quyền.
Sức mạnh của Đảng là ở sự liên hệ mật thiết với quần chúng. Lênin đã định
nghĩa Đảng Cộng sản như là sự thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa đội tiên
phong của giai cấp công nhân với hàng triệu quần chúng lao động. Người gọi mối
quan hệ đó là mối quan hệ “tin cậy lẫn nhau”, “tín nhiệm lẫn nhau”. Quần chúng
tin tưởng ở Đảng, ủng hộ Đảng và theo Đảng làm cách mạng. Trong khi đó Đảng
phải làm hết sức mình để phát huy vai trị và khả năng sáng tạo không bao giờ cạn
của quần chúng, đấu tranh không mệt mỏi cho hạnh phúc của nhân dân. Sức mạnh
vô địch của Đảng là ở mối liên hệ với quần chúng, cũng như sức mạnh to lớn của
quần chúng được phát huy bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng. Lênin chỉ rõ: “Đội
tiên phong chỉ làm trịn được sứ mệnh của nó khi nó biết gắn bó với quần chúng
mà nó lãnh đạo và thực sự dẫn dắt tập thể quần chúng tiến lên. Nếu không liên
minh với những người không phải là đảng viên cộng sản trong các lĩnh vực hoạt
động hết sức khác nhau thì khơng thể nói tới một thành cơng nào trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa cộng sản cả”1.
Theo Lênin, Đảng có địa vị, vai trị rất quan trọng trong cách mạng vô sản.
Đảng là đội tiên phong, là người lãnh đạo, là lãnh tụ của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Đảng chỉ trở thành lãnh tụ chính trị, đội tiên phong khi Đảng
gắn bó mật thiết với giai cấp và quần chúng. Nghĩa là, nó được thể hiện mối quan
hệ giữa người lãnh đạo với đối tượng lãnh đạo và phải ln ln duy trì tốt mối
quan hệ đó. Nếu cắt đứt mối liên hệ giữa Đảng với giai cấp cơng nhân và quần
chúng thì Đảng khơng cịn tồn tại với tư cách là người lãnh đạo, đội tiên phong

nữa. Người khẳng định: “Những người lãnh đạo khơng được tách rời quần chúng
1

V.I. Lênin, Tồn tập, tập 8, Nxb TB, M. 1979, tr. 28-29.

3


bị lãnh đạo, đội tiên phong không được tách rời khỏi tồn bộ đội qn lao động” 2.
Nói cách khác, liên hệ với quần chúng là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động
của Đảng Cộng sản, là nguồn gốc sức mạnh của Đảng, là bảo đảm cho sự thành
cơng của tồn bộ sự nghiệp cách mạng. Cũng như các quy luật xã hội khác, quy
luật này không phải phát huy tác dụng một cách tự phát mà phải thơng qua hoạt
động tự giác của chủ thể - đó là Đảng Cộng sản. Vì vậy, Đảng muốn tồn tại, phát
triển, xứng đáng là đội tiên phong và có đủ lực lượng, đủ sức mạnh hoàn thành sứ
mệnh lịch sử của mình thì Đảng phải liên hệ chặt chẽ với giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và phải được sự ủng hộ của họ. Đó là một trong những điều kiện
quan trọng bảo đảm cho Đảng có sức mạnh và phát triển, là nhân tố cơ bản quyết
định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng; là nguyên tắc bất di bất dịch trong công
tác xây dựng đảng. Lênin khẳng định: “Muốn trở thành một Đảng dân chủ - xã hội
thì cần phải được sự ủng hộ của chính giai cấp”3.
Sau khi đập tan bộ máy nhà nước cũ giành chính quyền về tay nhân dân,
thiết lập nền chuyên chính vô sản. Sự lãnh đạo của Đảng ngày càng to lớn về quy
mô, phong phú và phức tạp về nội dung, bao trùm lên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Chính sự tăng lên khơng ngừng vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi
Đảng phải tiếp tục mở rộng và củng cố mối liên hệ với quần chúng. Lênin chỉ ra
rằng: “Chúng ta là đảng của giai cấp, bởi vậy hầu như toàn bộ giai cấp (và trong
thời kì chiến tranh, trong thời kì nội chiến thì tồn bộ giai cấp khơng trừ một người
nào cả) cần phải hoạt động dưới sự lãnh đạo của đảng ta, phải triệt để siết thật chặt
hàng ngũ chung quanh đảng”4.

Mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng không phải do số lượng đảng viên
nhiều hay ít mà do chất lượng đội ngũ đảng viên quyết định. “Các tổ chức đảng của
chúng ta bao gồm những người dân chủ - xã hội chân chính mà càng mạnh mẽ bao
nhiêu, và trong nội bộ đảng càng ít có tình trạng dao động và khơng kiên định bao
nhiêu, thì ảnh hưởng của đảng đối với những người trong quần chúng công nhân

2
3
4

V.I. Lênin, Toàn tập, tập 44, Nxb TB, M. 1979, tr. 608.
V.I. Lênin, Toàn tập, tập 8, Nxb TB, M. 1979, tr. 293.
V.I. Lênin, Toàn tập, tập 8, Nxb TB, M. 1979, tr. 289.

4


chung quanh đảng và chịu sự lãnh đạo của đảng, sẽ càng rộng rãi, càng nhiều mặt,
càng phong phú, càng hiệu quả bấy nhiêu”5.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, tiến hành xây dựng CNXH, vấn đề củng
cố và tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng nhân dân càng trở nên cấp
bách và quan trọng hơn bao giờ hết. Bởi vì cuộc cách mạng XHCN là một cuộc
cách mạng sâu sắc nhất, toàn diện nhất, triệt để nhất và do đó cũng gay go nhất,
phức tạp nhất trong lịch sử lồi người. Nói như Lênin, đó là thời đại rung chuyển
vũ bão về chính trị và kinh tế, thời đại đấu tranh giai cấp cực kì sâu sắc. Cuộc cách
mạng này đòi hỏi Đảng Cộng sản phải động viên và phát huy đến mức cao nhất
tính tích cực và sáng tạo của quần chúng nhân dân. Không như thế thì khơng thể có
CNXH được. Lênin khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được khi
quần chúng đông đảo gấp 10 gấp 100 lần trước tự bắt tay vào việc xây dựng nhà
nước và một đời sống kinh tế mới”6, “chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự

nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân” 7. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội
tốt đẹp nhất trong lịch sử loài người, mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định. Đó
là một xã hội thực sự vì con người, giải phóng con người, một xã hội mang lại
hạnh phúc cho nhân dân. Xây dựng CNXH, là sự nghiệp hồn tồn mới mẻ và vơ
cùng khó khăn. Sự nghiệp đó chỉ có thể thành cơng nếu Đảng tổ chức và phát huy
được tính sáng tạo cách mạng của quần chúng. Lênin dạy rằng: những người cộng
sản chỉ như những giọt nước trong đại dương nhân dân mênh mông và chỉ riêng
với bàn tay những người cộng sản thì khơng thể xây dựng thành cơng CNXH và
chủ nghĩa cộng sản được. Tính sáng tạo sinh động của quần chúng, đó là nhân tố
cơ bản của xã hội mới. Chủ nghĩa xã hội không phải là kết quả của những sắc lệnh
từ trên ban xuống. Tính chất máy móc, hành chính và quan liêu khơng dung hợp
được với tinh thần CNXH. Chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của
bản thân quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đồng thời, trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng có những điều kiện mới,
cơng cụ mới thuận lợi cho việc tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng.
5
6
7

V.I. Lênin, Toàn tập, tập 8, Nxb TB, M. 1979, tr. 288-289.
V.I. Lênin, Toàn tập, tập 37, Nxb TB, M. 1978, tr. 523.
V.I. Lênin, Toàn tập, tập 35, Nxb TB, M. 1978, tr. 64.

5


Tuy nhiên, trong Đảng cũng dễ nảy sinh bệnh quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần
chúng, không quan tâm đầy đủ tới lợi ích quần chúng. Lênin nhấn mạnh: “Đối với
Đảng cộng sản … thì một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất là tự
cắt đứt liên hệ với quần chúng” 8. Nếu những ai quên mất những mối liên hệ khăng

khít giữa đội tiên phong và tồn thể nhân dân “thì đó là một tai hoạ thật sự” 9. Quan
liêu xa rời quần chúng chính là nguy cơ làm cho Đảng dễ phạm sai lầm về đường
lối, vì nó làm cho đường lối của Đảng khơng phản ánh đúng đắn và đầy đủ tâm tư,
tình cảm, nguyện vọng và quyền lợi chính đáng của quần chúng. Vì vậy Đảng
khơng thể xây dựng được niềm tin, sự tín nhiệm của quần chúng; khơng được quần
chúng tán thành đồng tình ủng hộ, khơng quyết tâm thực hiện đường lối, chính
sách của Đảng và kết quả là đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng chỉ nằm
trên giấy mà thơi. Đồng thời, quan liêu xa rời quần chúng cịn là nguyên nhân làm
cho một bộ phận cán bộ, đảng viên khi có chức, có quyền nếu thiếu rèn luyện thì
rất dễ sinh ra sa đọa, hư hỏng, thối hố, biến chất. Điều đó cực kỳ nguy hiểm, bởi
nó trái với bản chất của Đảng, làm tổn hại đến uy tín và thanh danh của Đảng đối
với quần chúng. Vì vậy, Lênin yêu cầu trong công tác xây dựng đảng, Đảng phải
kiên quyết chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa quan liêu, xa rời quần chúng. Đồng
thời Lênin kịch liệt phản đối những người cộng sản “tả khuynh” coi công đồn là
một tổ chức phản động. Họ ln nói đến khái niệm quần chúng, nhưng họ đã lạm
dụng khái niệm đó và khơng hiểu nổi mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng. Họ
chủ trương rằng, những người cộng sản khơng tham gia cơng đồn, điều đó có
nghĩa là tách Đảng với quần chúng. Lênin khẳng định: “Chỉ có độc một mình đội
tiên phong thơi thì khơng thể thắng nổi. Ném độc một mình đội tiên phong vào một
cuộc chiến đấu quyết định, khi mà toàn thể giai cấp, khi mà quần chúng đơng đảo
hoặc chưa có ít ra là một thái độ trung lập có thiện cảm đối với đội tiên phong,
khiến họ hồn tồn khơng thể ủng hộ kẻ địch được, thì đó khơng những là một điều
dại dột, mà cịn là một tội ác nữa”10.

8

V.I. Lênin, Tồn tập, tập 44, Nxb TB, M. 1979, tr. 426.

9


V.I. Lênin, Toàn tập, tập 45, Nxb TB, M. 1979, tr. 128.
V.I. Lênin, Toàn tập, tập 8, Nxb TB, M. 1979, tr. 294.

10

6


Như vậy, củng cố và tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng là một
đòi hỏi tất yếu của cách mạng vô sản, của công cuộc xây dựng CNXH, là một quy
luật khách quan của công tác xây dựng đảng. Đây vừa là vấn đề quyết định sự sống
còn của Đảng, vừa là sự bảo đảm quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của hệ
thống chính trị, là điều kiện tất yếu trong cuộc đấu tranh giành thắng lợi cho CNXH.
Bất kì một sự làm suy yếu nào mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng cũng đều làm
yếu sức mạnh của hệ thống chính trị, làm hạn chế sự phát triển của công cuộc xây
dựng CNXH và chủ nghĩa cộng sản.
1.2 Những yêu cầu của Lênin trong thực hiện nguyên tắc: Đảng là hiện
thân của mối liên hệ giữa đội tiên phong với giai cấp công nhân và quần chúng.
Đảng phải tuyên truyền, giác ngộ, tập hợp quần chúng thành lực lượng cách
mạng hùng hậu của Đảng. Để giữ vững và tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với
quần chúng, Lênin chỉ rõ: Đảng phải đi vào các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội
với tư cách là người truyền bá tư tưởng, lí luận chủ nghĩa Mác để giác ngộ, tập hợp
quần chúng; tổ chức vận động quần chúng, phát huy vai trò của quần chúng trong
sự nghiệp cách mạng. “Đảng phải hết sức và sẽ hết sức làm cho tinh thần của mình
thấm sâu vào các nghiệp đồn và làm cho các tổ chức ấy chịu ảnh hưởng của
mình”11. Nếu “khơng cơng tác trong các cơng đồn phản động tức là để mặc cho
quần chúng công nhân kém giác ngộ hay lạc hậu rơi vào ảnh hưởng của bọn thủ
lĩnh phản động, bọn tay sai của giai cấp tư sản, bọn công nhân q tộc hay “bọn
cơng nhân tư bản hố”12.
Đảng phải đại biểu và chăm lo lợi ích cho quần chúng. Theo Lênin: Nếu mọi

hoạt động của Đảng không xuất phát từ nguyện vọng, lợi ích chính đáng của quần
chúng, vì quần chúng thì Đảng khơng có lí do để tồn tại. Bởi vậy, mọi đường lối,
chính sách của Đảng phải xuất phát từ nguyện vọng, lợi ích chính đáng của quần
chúng. Đảng tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của quần chúng trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội.

11
12

V.I. Lênin, Toàn tập, tập 41, Nxb TB, M. 1978, tr. 45.
V.I. Lênin, Toàn tập, tập 8, Nxb TB, M. 1979, tr. 45

7


Đảng phải phát huy được vai trò chủ động sáng tạo, tiếp thu kinh nghiệm
của quần chúng, tập trung trí tuệ của quần chúng. Quần chúng là người sáng tạo ra
lịch sử, sáng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội. Vì vậy, Đảng phải
phát huy được vai trò của quần chúng làm lực lượng vật chất hùng hậu xung quanh
Đảng. Đảng phải phát huy cao dân chủ, sáng tạo trong phong trào của quần chúng.
Bên cạnh đó, Đảng phải có phương pháp, tác phong quần chúng, dựa vào quần
chúng để xây dựng và hoạt động.
Đảng phải thông qua các tổ chức khác để lôi kéo, tập hợp quần chúng. Lênin
khẳng định: các tổ chức quần chúng càng rộng rãi càng tốt, như vậy Đảng sẽ nắm
được nhiều quần chúng hơn, Đảng có thể phát huy được dân chủ nhiều hơn. Lênin
đòi hỏi người cộng sản nhất thiết phải công tác ở bất cứ nơi nào có quần chúng, kể
cả những tổ chức phản động nhất.
Đảng phải dựa vào quần chúng để xây dựng và hoạt động. Đảng phải dựa
vào quần chúng để xây dựng đảng. Đảng dựa vào quần chúng để xây dựng đường
lối, chủ trương cho sát với thực tiễn đời sống của nhân dân. Thơng qua quần chúng

để phê bình cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng phải xây dựng cơ chế, bộ máy của
quần chúng để kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng. Đồng thời thông
qua quần chúng để làm công tác phát triển đảng và sàng lọc đội ngũ cán bộ, đảng
viên của Đảng.
Đảng phải đoàn kết và lãnh đạo quần chúng để tiến hành sự nghiệp cách
mạng. Không ngừng chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức; bồi dưỡng, rèn luyện, sàng lọc đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đấu tranh chống
tham nhũng, quan liêu, vi phạm dân chủ hoặc dân chủ hình thức.
Đảng phải đề phịng và khắc phục các khuynh hướng quan liêu xa rời quần
chúng, vượt quá xa trình độ của quần chúng, đồng thời đề phịng khuynh hướng
theo đi quần chúng. Lênin dạy: “Chúng ta sẽ chỉ tự lừa dối mình, nhắm mắt
trước nhiệm vụ bao la của chúng ta, thu hẹp những nhiệm vụ đó lại nếu chúng ta
quên mất sự khác nhau giữa đội tiên phong và tất cả số quần chúng hướng theo đội

8


tiên phong đó; nếu chúng ta quên mất rằng đội tiên phong có nghĩa vụ thường
xuyên phải nâng các tầng lớp ngày càng đơng đảo đó lên trình độ tiên tiến ấy”13.
Tư tưởng: “Đảng là hiện thân của mối liên hệ giữa đội tiên phong với giai cấp công
nhân và quần chúng” của Lênin là một trong những nguyên tắc tổ chức cơ bản,
quan trọng của Đảng Bôn - sê - vích Nga lúc bấy giờ. Cùng với những nguyên tắc
tổ chức khác, Lênin đã cùng với Đảng Bôn - sê - vích xây dựng thành cơng một
Đảng kiểu mới, lãnh đạo cách mạng Tháng Mười thành công và tiến lên xây dựng
CNXH. Đồng thời Lênin đã đánh bại những tư tưởng phản động, những mưu đồ
đen tối của bọn cơ hội, xét lại hàng ngày hàng giờ mưu toan chống phá Đảng.
Trên cơ sở nguyên tắc: Đảng là hiện thân của mối liên hệ giữa đội tiên
phong với giai cấp công nhân và quần chúng, Lênin đã giúp cho các Đảng Cộng
sản có được cơ sở phương pháp luận để xây dựng Đảng của dân tộc mình ngày
càng vững mạnh và giành nhiều thắng lợi, mà ở Việt Nam, Cu Ba là những ví dụ

điển hình.
Tư tưởng của Lênin về nguyên tắc: Đảng là hiện thân của mối liên hệ giữa
đội tiên phong với giai cấp công nhân và quần chúng đến nay vẫn cịn ngun giá
trị lí luận và thực tiễn đối với phong trào Cộng sản, công nhân quốc tế và Đảng
Cộng sản Việt Nam.
PHẦN II: Ý NGHểA TRONG CÔNG TÁC XÂY DệẽNG,
CHặNH ẹỐN ẹẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Tính cấp thiết Đảng Cộng sản Việt Nam phải liên hệ mật thiết với
quần chúng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ sức mạnh to lớn, vai trị có ý nghĩa quyết
định của quần chúng nhân dân trong lao động sản xuất và trong các cuộc cách
mạng xã hội. Bất cứ một đảng phái hay giai cấp nào muốn thực hiện những cuộc
cải biến có ý nghĩa cách mạng đều phải dựa vào quần chúng và thơng qua sức
mạnh của quần chúng.

13

V.I. Lênin, Tồn tập, tập 8, Nxb TB, M. 1979, tr. 289-290.

9


Dưới sự tổ chức và lãnh đạo của Hồ Chí Minh, ngay từ đầu thành lập, Đảng ta
đã khẳng định: Đảng khơng có mục đích nào khác hơn là sự phụng sự Tổ quốc, phục
vụ nhân dân. Liên hệ máu thịt với nhân dân là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự
tồn vong của Đảng. Điều đó bắt nguồn từ sứ mệnh lịch sử, từ mục tiêu lí tưởng của
Đảng. Là đội tiên phong, lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và dân tộc Việt
Nam, Đảng có sứ mệnh lãnh đạo giai cấp cơng nhân và quần chúng nhân dân lao
động làm cách mạng giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, xây dựng thành cơng
CNXH và chủ nghĩa cộng sản. Sự nghiệp cách mạng to lớn và trọng đại đó chỉ có

thể được thực hiện bằng sự đồng tình hưởng ứng của quần chúng và bằng hành động
cách mạng của quần chúng. Hồ Chí Minh đã dạy: “Cách mệnh là việc chung của cả
dân chúng, chứ không phải việc của một, hai người” 14. Kinh nghiệm dựng nước và
giữ nước của dân tộc ta hàng ngàn năm cho thấy: người nuôi sống và bảo vệ chế độ
là nhân dân và người lật đổ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới cũng là nhân dân.
Ngày nay, Đảng ta đã trở thành Đảng cầm quyền, danh hiệu, chức tước,
quyền lực đối với một số cán bộ, đảng viên đã trở thành phương tiện để làm giàu
bất chính. Đồng thời trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bên cạnh
những mặt tích cực đã xuất hiện khơng ít những mặt trái tiêu cực. Khi chức quyền
đã ở trong tay một số cán bộ, đảng viên thì họ thả sức tham ô, tham nhũng không
từ một thủ đoạn bẩn thỉu nào kể cả việc: ăn chặn gạo cứu đói, tiền hỗ trợ các đối
tượng chính sách, hộ nghèo, các gia đình bị ảnh hưởng thiên tai, dịch bệnh … đã
xảy ra ở một số địa phương trong thời gian vừa qua. Chính những hiện tượng như
vậy đã làm cho nhân dân bất bình, uy tín của Đảng bị ảnh hưởng, mối quan hệ máu
thịt giữa Đảng với quần chúng sẽ khơng cịn được khăng khít.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự tan rã của các Đảng cộng
sản và sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu là do các Đảng cộng sản ở đó
khơng chăm lo củng cố mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, không đáp
ứng được lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Bên cạnh đó, trong
chiến lược “diễn biến hồ bình”, kẻ thù đang tìm mọi cách chống phá cách mạng

14

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H. 2002, tr. 178.

10


nước ta trên tất cả các lĩnh vực, và một trong những mũi trọng điểm của chúng là
chia rẽ mối liên hệ giữa Đảng ta với nhân dân.

Trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, “Hệ thống chính trị ở
phần lớn cơ sở đã tích cực thực hiện nhiệm vụ, thực hiện quy chế dân chủ, cùng
với nhân dân tạo nên những thành tựu đổi mới và phát triển kinh tế, văn hoá, xã
hội, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt nông thôn và thành thị” 15. Nhiều cấp uỷ, cơ quan, cơ
sở có sáng kiến mở “hịm thư góp ý xây dựng Đảng”, nhiều “nơi tiếp dân” đem lại
kết quả tốt. Và trên thực tế, những địa phương nào, tổ chức cơ sở đảng nào làm tốt
công tác vận động quần chúng thì ở địa phương đó có sự thống nhất đồn kết cao,
tình hình chính trị - xã hội ổn định, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Ngược lại, ở địa phương nào có cán bộ, đảng viên thối hố, biến chất, khơng
chăm lo đến nhân dân, tham nhũng, “đục khoét” đất đai, như ở Bạc Liêu, Đồ Sơn Hải Phòng, ở Phú Quốc - Kiên Giang, Yên Bái, Đắc Lắc … thì ở đó lịng dân
khơng n, sức chiến đấu của Đảng bị giảm sút rõ rệt, mối liên hệ giữa Đảng với
quần chúng khơng cịn chặt chẽ nữa. Hội nghị Trung ương 4, khóa XII đã xác định:
“…, nhân dân bất bình, giảm niềm tin đối với một bộ phận cán bộ Đảng viên yếu
kém về trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm hoặc thối hóa, biến chất. Nhiều cán
bộ tác phong quan liêu, gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, thậm chí trù dập, ức
hiếp quần chúng …”16. Chính vì vậy, từ Hội nghị Trung ương 7, khoá IX Đảng ta
đã nhận định: Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân chưa thật bền chặt và
đang đứng trước những thách thức mới. Lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ
của một bộ phận nhân dân chưa vững chắc, có phần vì đời sống cịn nhiều khó
khăn, vì bất bình trước những bất cơng xã hội, trước tình trạng tham nhũng, quan
liêu, lãng phí cịn khá phổ biến và nghiêm trọng, kỉ cương, pháp luật nhiều lúc,
nhiều nơi khơng nghiêm, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp, trật tự an tồn xã hội
cịn phức tạp. Nhiều tổ chức đảng, chính quyền cịn coi nhẹ cơng tác dân vận.
Vì vậy, tăng cường mối liên hệ chặt chẽ, mật thiết giữa Đảng với quần chúng
càng có ý nghĩa quan trọng, cấp thiết hơn bao giờ hết. Nội dung cơ bản của mối
15

ĐCS Việt Nam, Các Nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm BCHTƯ khóa IX, Nxb CTQG, H. 2002,
tr. 83.
16

Ban Tuyên giáo TƯ, Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị lần thứ Tư BCHTƯ Đảng khóa
XII, Nxb CTQG, H.2016, tr.12.

11


liên hệ giữa Đảng với nhân dân hiện nay là: Đảng phải chăm lo xây dựng và bảo
đảm quyền làm chủ thực sự cho nhân dân. Quyền làm chủ của nhân dân được bảo
đảm và thực hiện thì tính tích cực, sáng tạo của nhân dân càng được phát huy,
phong trào cách mạng của nhân dân càng phát triển sâu rộng và đạt được nhiều
thành tựu to lớn. Vì vậy, Đảng cần có những biện pháp cụ thể để tăng cường hơn
nữa mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng.

2.2. Những biện pháp cơ bản để Đảng Cộng sản Việt Nam tăng cường
mối liên hệ mật thiết với quần chúng.
Một là: Mọi đường lối, chính sách của Đảng phải xuất phát từ nguyện vọng,
lợi ích chính đáng của quần chúng nhân dân, phù hợp với sức dân, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân.
Đây là một chủ trương chiến lược, một vấn đề cơ bản trong đường lối của
Đảng ta. C.Mác và Ph.Ăngghen đã dạy: “lí luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật
chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”17. Mọi đường lối, chủ trương của
Đảng phải xuất phát từ thực tiễn, từ đời sống của nhân dân, bởi mục tiêu của Đảng
là vì nhân dân. Nếu đường lối của Đảng không phù hợp với nguyện vọng, lợi ích
chính đáng của nhân dân, không được nhân dân tổ chức thực hiện thì đường lối đó
cũng chỉ mãi là lý thuyết sng mà thơi. Hồ Chí Minh đã dạy: “Đảng phải khéo léo
tập trung ý kiến của quần chúng, hố nó thành cái đường lối để lãnh đạo quần
chúng. Phải đem các nội dung so sánh, xem xét, giải quyết các vấn đề mà hố nó
thành cái chỉ đạo nhân dân” 18. Một trong những bài học lớn được Đảng ta rút ra từ
thực tiễn cách mạng là: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động

của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức
mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời
17
18

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 580.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb CTQG, H. 2002, tr. 298.

12


nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất
nước”19.
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, Đảng đã lãnh đạo nhân dân
ta giành được nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh,
trong tổng kết 30 năm đổi mới vừa qua đã xác định: “Đạt được những thành tựu
nói trên là do Đảng ta có bản lĩnh chính trị vững vàng và đường lối lãnh đạo đúng
đắn”. Tuy nhiên, thực tế ở không ít nơi, Nghị quyết lãnh đạo của các tổ chức cơ sở
đảng chưa thực sự vì lợi ích chính đáng của quần chúng, thậm chí cịn có hiện
tượng liên kết với nhau để trù dập “những cán bộ, đảng viên, người có đơn thư tố
cáo” các việc làm sai trái trên.
Trong chiều quan hệ giữa dân với Đảng cũng có những biểu hiện mới. Trong
khi đại bộ phận nhân dân tin cậy, ủng hộ các tổ chức đảng, chấp hành nghiêm túc
chính sách, pháp luật và sự quản lí của chính quyền. Đã xuất hiện hiện tượng một
số quần chúng vì lợi ích cá nhân, cục bộ, cơ hội đã có những lời nói, hành động
thiếu ý thức xây dựng, gây rối, làm phức tạp thêm tình hình; có nơi khiếu kiện vượt
cấp, khiếu kiện tập thể kéo dài. Một số người bất mãn, quá khích đã lợi dụng dân
chủ để vu cáo cán bộ, kích động nhân dân, tập hợp phe cánh gây mất đoàn kết,
chống đối chủ trương của chính quyền, chống người thi hành cơng vụ, vi phạm
pháp luật. Ý thức công dân của một bộ phận nhân dân suy giảm, chỉ chú trọng đòi

hỏi quyền và lợi ích, coi nhẹ trách nhiệm và nghĩa vụ. Khi tham gia các đồn thể,
nhiều người có xu hướng xem đoàn thể chỉ là tổ chức chăm lo đời sống, quyền lợi
cho mình mà ít quan tâm đến tính chất chính trị của đồn thể, khơng có ý thức xây
dựng đoàn thể.
Xét đến cùng, những biểu hiện tiêu cực trong nhân dân và sự yếu kém của
chính quyền và các đoàn thể cũng là khuyết điểm của Đảng. Bởi vậy, Đường lối
chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của nhân
dân, khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của nhân dân. Đảng phải chăm lo lợi

19

ĐCSVN, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb ST,
H. 1991, tr. 5.

13


ích thiết thực của nhân dân. Đảng phải luôn khắc cốt ghi tâm quan điểm lấy dân
làm gốc mà ông cha ta đã dạy.
Đảng phải đổi mới tư duy về công tác quần chúng, thực hiện theo tinh thần
Nghị quyết 8b (khoá VI) của Đảng. Phải thấy được động lực thúc đẩy phong trào
quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân, kết hợp hài hoà các lợi ích,
thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ.
Mọi đảng viên của Đảng phải có đủ phẩm chất và năng lực vận động quần
chúng, phải thực sự vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của
nhân dân. Đảng phải tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đảng phải
lãnh đạo xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước.
Thực hiện tốt cơ chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại diện là các cơ
quan dân cử và các đồn thể, làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự

quản, bằng qui ước, hương ước tại cơ sở phù hợp với luật pháp của Nhà nước.
Đảng cần phải tổ chức cho quần chúng tham gia xây dựng Đảng thành chế độ với
nhiều hình thức phong phú, từ việc phê bình sự lãnh đạo của chi bộ, của các cấp uỷ
đảng; phê bình đảng viên; tham gia ý kiến vào việc lựa chọn đảng viên mới; kiến
nghị việc bầu cử cấp uỷ và bố trí cán bộ; đến việc tham gia ý kiến vào đường lối,
chính sách của Đảng. Hết sức tránh, một số cán bộ, đảng viên khi nói đến quyền
làm chủ tập thể của nhân dân như hơ khẩu hiệu sng, dân chủ hình thức, coi
thường quần chúng. Vì vậy, Đảng cần lắng nghe và trân trọng ý kiến đóng góp của
Mặt trận và các đoàn thể đối với sự lãnh đạo của Đảng và cán bộ, đảng viên,
khuyến khích các đồn thể chủ động đóng góp ý kiến xây dựng đường lối, chủ
trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, càng phải gắn xây dựng Đảng với phong
trào cách mạng của quần chúng và thông qua phong trào cách mạng của quần
chúng để xây dựng đường lối, chính sách của Đảng. Có như vậy đường lối, chính
sách của Đảng mới bảo đảm được tính thực tiễn, tính chiến đấu cao và mới đề
phòng được những phần tử cơ hội chui vào Đảng.

14


Nghị quyết của Đảng, nhất là ở các tổ chức cơ sở đảng phải thể hiện được sự
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tất cả vì nhân dân mà phục
vụ, chứ khơng phải vì lợi ích của một số cá nhân cán bộ đảng viên có chức có
quyền. Phải thực hiện đúng nguyên tắc: chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi
ích, nguyện vọng và trình độ của nhân dân. Ngay cả trường hợp chính sách đúng
rồi mà nhân dân chưa hiểu, chưa đồng tình thì phải ra sức giáo dục, giải thích cho
dân, biết chờ đợi dân; có khi phải điều chỉnh chính sách cho phù hợp với thực tế và
với trình độ của nhân dân. Lênin đã dạy: một chính sách mà khơng phù hợp với
trình độ quần chúng “là một chính sách phiêu lưu”20.
Mặt khác, các cấp uỷ đảng, các cơ quan chính quyền và “Đội ngũ cán bộ,

đảng viên phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân,
có trách nhiệm với dân. Giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, những
kiến nghị chính đáng của nhân dân và khiếu nại tố cáo của công dân” 21. Đảng phải
đổi mới công tác vận động quần chúng, tơn trọng tính tự chủ về tổ chức và hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tạo điều kiện cho các tổ chức
đó đổi mới nội dung, phương thức hoạt động đúng hướng và đạt hiệu quả. Đảng
coi trọng việc tổ chức động viên quần chúng tham gia xây dựng Đảng và xây dựng
Nhà nước.
Đảng phải kiên quyết đấu tranh chống tệ tham nhũng, bệnh quan liêu,
chuyên quyền độc đoán, xa rời thực tế, xa rời quần chúng; sách nhiễu, ức hiếp, gây
đủ thứ phiền hà cho quần chúng; khắc phục tình trạng vi phạm dân chủ, dân chủ
hình thức; đồng thời chống dân chủ cực đoan hoặc lợi dụng dân chủ để gây rối
trong xã hội.
Hai là: Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các
đồn thể chính trị-xã hội về cơng tác quần chúng.
Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân, nơi phối hợp thống nhất hành động của các tầng lớp nhân
dân thực hiện đường lối, chính sách, tham gia với Đảng và Nhà nước thực hiện và
20
21

V.I. Lênin, Toàn tập, tập 25, Nxb TB, M. 1978, tr. 225.
ĐCSVN, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII, VP TƯĐ H. 2016, tr. 210.

15


giám sát việc thực hiện dân chủ, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng
lớp nhân dân; bảo vệ Đảng và chính quyền; góp phần tăng cường mối liên hệ mật
thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.

Trong thời gian qua, bên cạnh những mặt tiến bộ, những mặt đã làm được;
thực tế ở nhiều nơi, “hệ thống chính trị cơ sở hiện nay cịn nhiều mặt yếu kém, bất
cập trong công tác lãnh đạo, quản lí, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng” 22.
Có nơi, chính quyền chưa ý thức đầy đủ bằng việc làm tích cực đúng đắn của mình
để góp phần tăng cường quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Nên ở đó chính quyền cịn
coi nhẹ việc tun truyền, vận động; nặng về các biện pháp hành chính cưỡng chế;
cịn có nhiều qui định gây phiền hà cho nhân dân; thiếu chủ động phối hợp công tác
với Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể nhân dân; khơng nghiêm khắc với những sai
phạm của cán bộ, công chức. Không ít cán bộ chính quyền là đảng viên, là cấp uỷ
viên, nhưng khi tiến hành công việc, giải quyết các kiến nghị của người dân đã
“quên” mình đang đại diện cho Đảng phục vụ nhân dân.
Bởi vậy, Đảng phải lãnh đạo Mặt trận, đoàn thể nhưng là một bộ phận trong
hệ thống ấy. Đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp, pháp luật. Trong điều
kiện có chính quyền, quan hệ giữa Đảng với nhân dân chủ yếu thông qua Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể. Đảng tơn trọng, phát huy vai trị Mặt trận,
đồn thể, khơng can thiệp vào công việc nội bộ của các tổ chức đó. Đảng lãnh đạo
Mặt trận, đồn thể về chính trị, tư tưởng, tổ chức và thực hiện sự lãnh đạo thông
qua đội ngũ cán bộ, đảng viên hoạt động trong Mặt trận, đồn thể đó.
Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh phải gắn liền với việc xây dựng và
phát huy hiệu lực của bộ máy Nhà nước và các tổ chức quần chúng, gắn liền với
việc xây dựng cơ chế làm chủ của nhân dân.
Đảng chăm lo lãnh đạo, giới thiệu đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ tiêu chuẩn
sang hoạt động ở Mặt trận, đồn thể. Đảng tơn trọng quy chế tuyển dụng, bổ
nhiệm, mãn nhiệm của các đoàn thể đó. “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, tôn trọng nguyên tắc
22

ĐCS Việt Nam, Các Nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm BCHTƯ khóa IX, Nxb CTQG, H. 2002,
tr. 83.


16


hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam …
Tiếp tục cụ thể hóa phương thúc lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) ở tất cả các cấp bằng những quy chế, quy định, quy trình cụ thể …
đảm bảo thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách, đi đôi với phát huy vai trị, trách nhiệm, tính chủ động của người đứng đầu
và cơ chế xử lý đối với người đứng đầu khi vi phạm”23
Tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên hoạt động trong Mặt trận và đoàn thể phải
nghiêm chỉnh chấp hành Nghị quyết của Đảng, qui tắc và chế độ hoạt động của
đồn thể. Phải coi cơng tác vận động nhân dân là trách nhiệm của Đảng, chính
quyền và các đồn thể nhân dân.
Đồng thời thơng qua phong trào cách mạng của quần chúng, thông qua việc
xây dựng chế độ làm chủ của quần chúng mà tiến hành công tác xây dựng Đảng, tổ
chức cho quần chúng tham gia xây dựng Đảng. Ngày nay khơng ít “người anh
hùng thời bình” đã dám đứng lên đấu tranh với những ông “quan” cách mạng để
bảo vệ cơng lí, bảo vệ Đảng. Vì vậy, nhiệm vụ của Đảng là phải tổ chức và lãnh
đạo phát huy được những mặt tích cực của phong trào quần chúng nhằm thực hiện
nhiệm vụ chính trị. Thơng qua phong trào cách mạng của quần chúng, Đảng bổ
sung đường lối chính trị của mình và rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên; lựa chọn
kết nạp đảng viên mới; đề bạt cán bộ; phát hiện và loại trừ ra khỏi Đảng những
phần tử xấu, phần tử cơ hội, thối hố biến chất. Chính những việc làm này sẽ củng
cố mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng ngày càng chặt chẽ, càng mở rộng sinh
hoạt dân chủ trong quần chúng. Như vậy, Đảng là người lãnh đạo phong trào cách
mạng của quần chúng, nhưng chính phong trào cách mạng của quần chúng lại làm
cho Đảng mạnh lên.
Các tổ chức đoàn thể cần tập hợp rộng rãi các hội viên, đồn viên dưới nhiều
hình thức tổ chức đa dạng; thực hiện tốt chức năng giáo dục, vận động quần chúng

thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ cụ thể; chăm lo thiết thực lợi ích của đồn
viên, hội viên; đại diện cho tầng lớp mình tham gia cơng việc của Nhà nước. Đấu
23

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII, VP TƯĐ H. 2016, tr. 214, 215.

17


tranh chống những quan điểm tư tưởng hạ thấp vai trị của Mặt trận Tổ quốc và các
đồn thể chính trị - xã hội về công tác quần chúng. Kiên quyết đấu tranh chống thói
quan liêu, gia trưởng, coi khinh, xa rời quần chúng của đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong Đảng và trong hệ thống chính trị.
Ba là: Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng thực sự có phẩm chất
và năng lực lãnh đạo quần chúng, khắc phục hiện tượng sa sút, thoái hoá về phẩm
chất, lối sống.
Phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực của cán bộ, đảng viên là vấn đề có ảnh
hưởng quyết định đến uy tín, danh dự của Đảng; tác động trực tiếp đến mối liên hệ
giữa Đảng với nhân dân. Quần chúng nhìn nhận, đánh giá Đảng thơng qua cán bộ
đảng viên của Đảng. Nói quần chúng giảm sút lịng tin đối với Đảng khơng phải là
giảm sút lịng tin với lí tưởng, sự nghiệp của Đảng, mà là đối với những cán bộ,
đảng viên đã “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thao hóa về phẩm chất, lối sống và đối
với những tổ chức đảng rệu rã, khơng cịn sức chiến đấu. Nghị quyết Đại hội IX của
Đảng đã chỉ rõ: “tình trạng tham nhũng và sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực
hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lịng tin
trong nhân dân”24. Đây là một nội dung rất quan trọng trong công tác xây dựng và
chỉnh đốn Đảng, đã được Đại hội XI, XII đặc biệt quan tâm, điều này được thể hiện
rất rõ trong Nghị quyết TW 4 khóa XI, XII mà tồn Đảng ta đang nỗ lực thực hiện.
Vì vậy, hơn lúc nào hết, “mỗi người đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống

dưới đều phải hiểu rằng: mình vào Đảng để làm đày tớ cho nhân dân … làm đày tớ
nhân dân chứ không phải là “quan” nhân dân”25.
Nghị quyết TW 4 khóa XII đã chỉ rõ những khuyết điểm, hạn chế trong công
tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong thời gian vừa qua, kể cả qua một giai đoạn
toàn Đảng ta thực hiện quyết liệt và nghiêm túc Nghị quyết TW 4 khóa XI. Nghị
quyết TW 4 khóa XII đã nhận diện rõ ràng 27 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”, suy thối về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống đối với đội ngũ cán bộ
24
25

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội ĐBTQ lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 1996, tr. 15.
Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 12, Nxb CTQG, H. 2002, tr.222.

18


đảng viên trong giai đoạn hiện nay và đưa ra đầy đủ các giải pháp khắc phục, tự tu
dưỡng, hoàn thiện bản thân đối với mỗi người cán bộ, đảng viên chúng ta.
Để nâng cao tư tưởng và lập truờng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng,
liên hệ mật thiết với quần chúng, chúng ta cần phải không ngừng nâng cao trình độ
chính trị, học vấn, chun mơn, nghiệp vụ, kiến thức lãnh đạo, quản lí và cơng tác
vận động nhân dân. Phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên
trước quần chúng. “Hằng năm, người đứng đầu và từng cán bộ, đảng viên có cam
kết rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, khơng suy thối “tự chuyển
biến”, “tự chuyển hóa”; các cấp ủy, tổ chức đảng kiểm tra, giám sát việc thực hiện
cam kết của cán bộ, đảng viên ở địa phương, cơ quan, đơn vị mình”26.
Tăng cường cơng tác giáo dục, quản lí đảng viên. Thực hiện có nề nếp chế
độ tự phê bình và phê bình trong các cấp ủy đảng, trước hết là mỗi cán bộ, đảng
viên, sự giám sát của quần chúng. Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của
các cơ quan kiểm tra đảng, thanh tra nhà nước và thanh tra nhân dân.

Không ngừng hồn thiện các chính sách, pháp luật; trước hết là về quản lí
ngân sách, quản lí tài sản cơng, quản lí đất đai nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế
mặt tiêu cực, tham nhũng, quan liêu, thờ ơ, “vô cảm”, coi khinh quần chúng. Cần
phải thực hiện tốt các biện pháp chống suy thoái phẩm chất đạo đức của cán bộ,
đảng viên mà Nghị quyết TW4 khóa XII đã đề ra.
Thực hiện tốt những vấn đề cơ bản trên đây là điều kiện cơ bản để bảo đảm
phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, là nội dung biện pháp cơ bản để xây
dựng nền dân chủ XHCN, đồng thời để giữ vững và tăng cường mối liên hệ chặt
chẽ giữa Đảng với nhân dân trong giai đoạn cách mạng mới.

26

Ban Tuyên giáo TƯ, Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị TW 4 BCH TW Đảng khóa XII,
Nxb CTQGST, H. 2016, tr. 64.

19


KẾT LUẬN

Tư tưởng của Lê - nin về nguyên tắc: “Đảng là hiện thân của mối liên hệ
giữa đội tiên phong với giai cấp công nhân và quần chúng” là một trong những
nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân; là mối quan
hệ bản chất và quy luật tồn tại và phát triển của Đảng kiểu mới; là sức mạnh, là vấn
đề sống cịn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đảng cầm quyền; là điều kiện cơ
bản bảo đảm cho cách mạng vô sản thắng lợi; là nguyên lý cơ bản trong xây dựng
đảng và là tiêu chuẩn của một Đảng Mác - xít chân chính.
Chỉ có liên hệ mật thiết với nhân dân - với tư cách là đối tượng lãnh đạo thì
Đảng ta mới tồn tại với tư cách là người lãnh đạo, là lãnh tụ chính trị của nhân dân.
Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân có nghĩa là Đảng tự cắt đứt mối liên hệ mật

thiết với nhân dân và tự phủ nhận địa vị lãnh đạo của mình; đường lối và hoạt động
của Đảng sẽ mất phương hướng và Đảng sẽ khơng cịn có sức mạnh. Thông qua
lãnh đạo nhân dân và phong trào cách mạng của nhân dân mà Đảng ta trưởng thành
cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Nhân dân là người bảo vệ Đảng, là nơi thử
thách, rèn luyện và sàng lọc đảng viên và là nguồn bổ sung cho đội ngũ của Đảng.

20


Trong điều kiện Đảng cầm quyền, vai trò và trách nhiệm lãnh đạo của Đảng
đối với nhân dân và toàn xã hội không hề giảm đi mà ngày càng tăng lên, ngày
càng nặng nề thêm. Mối liên hệ giữa Đảng ta với nhân dân cũng không được suy
giảm mà phải được củng cố và phát triển ngày càng vững chắc hơn bao giờ hết, với
những nội dung và yêu cầu mới của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Quần chúng
phải được xây dựng trở thành con người mới XHCN, thực sự có điều kiện làm chủ
đất nước về mọi mặt. Sự nghiệp cách mạng của Đảng, công cuộc đổi mới của đất
nước ta hiện nay chỉ thành công khi nhân dân thực sự là người làm chủ.
Để giữ vững và tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, chúng ta
cần thực hiện tốt những giải pháp cơ bản đã nêu ở trên. Kiên quyết đấu tranh với
những suy nghĩ và hành động nhằm phá hoại mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với
nhân dân. Đặc biệt là “phải đề cao trách nhiệm với dân, trung thực, thật thà với
dân, có lỗi thì dũng cảm nhận lỗi … khắc phục bệnh quan liêu và kiêu ngạo Cộng
sản”27.

27

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H. 2002, tr. 213.

21




×