Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

1 môn tác phẩm kinh điển, tư TƯỞNG của LÊNIN về NGUYÊN tắc tập TRUNG dân CHỦ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.77 KB, 23 trang )

LỜI NĨI ĐẦU
Trong cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, một trong những nội dung
được Đảng Cộng sản Việt Nam quan tâm tập trung nghiên cứu tổng kết lý luận
cũng như tổ chức thực hiện trên thực tế là nguyên tắc tập trung dân chủ, một vấn
đề mà Đảng ta khẳng định nếu xem nhẹ hay từ bỏ nó sẽ dẫn đến nguy cơ làm tan
rã Đảng về mặt tổ chức. Do vậy, chúng ta cần nghiên cứu cả cơ sở lý luận và
thực tiễn của nguyên tắc này, từ đó quán triệt và thống nhất cao với những chủ
trương, biện pháp nhằm tăng cường thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta hiện nay.
Như chúng ta đã biết, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản
đã bước vào giai đoạn phát triển cao, giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. giai cấp tư
sản từ một lực lượng xã hội tiến bộ trong giai đoạn phát triển đi lên của chủ
nghĩa tư bản đã biến thành lực lượng phản động. Sự phản động đó bao trùm trên
mọi lĩnh vực của xã hội tư bản. Dựa vào những kết luận của Mác trong bộ “Tư
bản”, Lênin đã phân tích một cách sâu sắc chủa nghĩa tư bản trong giai đoạn mới
và chỉ ra rằng chủ nghĩa đế quốc là đêm trước của cách mạng vơ ản.
Trong q trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân đã lớn
mạnh không ngừng cả về số lượng và chất lượng. Ý thức giác ngộ giai cấp cũng
ngày càn được nâng cao. phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển
mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu. ở nhiều nước châu Âu giai cấp vơ sản
có đủ khả năng đồn kết xung quanh mình tất cả những người bị áp bức bóc lột
để lật đổ chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới. Cách mạng vơ sản đã trở
thành một nhiệm vụ trực tiếp. Chính những điều kiện lịch sử đó địi hỏi cấp bách
phải nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng cộng sản để giai cấp
vơ sản có thể làm trịn nhiệm vụ lích sử mới.
Sau khi Ăng ghen mất, những người đứng đầu quốc tế II và những người
đứng đầu các Đảng dân chủ-xã hội ở Tây Âu đã xét lại chủ nghĩa Mác, từ bỏ
những tư tưởng cốt lõi của chủ nghĩa Mác, cát xén chủ nghĩa Mác, âm mưu hạn
chế phong trào công nhân trong khuôn khổ đấu tranh địi những cải cách cục bộ
mang tính chất cải lương, không nhằm mục tiêu lật đổ giai cấp tư sản và chủ



2
ngiax tư bản. Họ đã biến quố tế II và các đảng dân chủ-xã hội thành những đảng
cải lương, hoàn tồn mất tính giai cấp và tónh chiến đấu của đảng cách mạng
của giai cấp cơng nhân.
Vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp cách mạng cua giai cấp vô
sản là phải đập tan chủ nghĩa cơ hội, bảo vệ sự trong sáng của học thuyết Mác
trên các lĩnh vực, trong đó có học thuyết về đảng, xây dựng các dẩng thực sự
cách mạng của giai cấp cơng nhân. Nhiệm vụ lịch sử vĩ đại đó đã được Lênin
hoàn thành một cách xuất sắc.
Lênin đã đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa cơ hội trong
quốc tế II và phát triển sáng tạo những luận điểm của Mác- Ăngghen về Đảng,
xây dựng nên học thuyết về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Dựa trên
những quan điểm của Lênin, đảng Bơnsêvích Nga đã ra đời năm 1903.
Năm1919 Quốc tế III- Quốc tế cộng sản được thành lập theo sáng kiến của
Lênin. Quốc tế III đã đóng vai trò to lớn đối với sự ra đời của hàng loạt các đảng
cộng sản trên thế giới.
Trong học thuyết về đảng kiểu mới, Lênin đã xây dựng một hệ thống
những nguyên tắc cơ bản về đảng kiểu mới của giai cấp cơng nhân. Những
ngun tắc đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị


3

PHẦN I
Cơ sở lý luận và thực tiễn, vị trí, vai trò, bản chất và nội dung
của nguyên tắc tập trung dân chủ
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Như chúng ta đã biết: Tập trung dân chủ là nguyên lý xây dựng Đảng kiểu
mới về mặt tổ chức của giai cấp công nhân, do C.Mác và Ph.Ăngghen đặt cơ sở,

được V.I.Lênin khái quát, được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta khẳng định,
kế thừa và thực hiện thành công trong xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trở
thành một Đảng mácxít.
Mặc dù tư tưởng về tập trung dân chủ chưa được nêu thành nguyên tắc,
nhưng đã được C.Mác và Ph.Ăngghen đề cập khá sớm trong Điều lệ Liên đoàn
đồng minh những người cộng sản cũng như trong nhiều tác phẩm khác. Khi bàn
về quyền uy, C.Mác viết: “Quyền uy có nghĩa là ý chí của người khác bắt buộc
chúng ta phải tiếp thu; mặt khác quyền uy ấy lấy sự phục tùng làm tiền đề”1. Ở
điều 25, Điều lệ Liên đoàn đồng minh những người cộng sản, C.Mác và
Ph.Ăngghen viết: “Mỗi hội viên của Liên đoàn phải liên lạc ít nhất là ba tháng
một lần, cịn mỗi chi bộ phải liên lạc mỗi tháng một lần với Ban chấp hành khu
bộ của mình. Ít nhất cứ hai tháng một lần, mỗi khu bộ phải báo cáo tình tình
cơng tác của địa phương mình với tổng khu bộ, ít nhất ba tháng một lần mỗi
tổng khu bộ phải báo cáo tình hình cơng tác của địa phương mình với Ban chấp
hành Trung ương”1.
Kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin tiếp tục
phát triển và làm sâu sắc thêm tư tưởng về tập trung dân chủ. Nâng tư tưởng tập
trung dân chủ của C.Mác và Ph.Ăngghen lên thành nguyên tắc trong xây dựng
Đảng kiểu mới về mặt tổ chức.
V.I.Lênin chỉ ra rằng: Đảng phải được tổ chức theo chế độ tập trung dân
chủ, chế độ tập trung dân chủ là nền tảng tổ chức của một đảng vô sản kiểu mới.
1

. C. Mác - Ph.Ăng ghen, Toàn tập, Tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1970, tr.767


4
Thực hiện chế độ tập trung dân chủ trong Đảng sẽ làm cho Đảng thống nhất về
chính trị, tư tưởng và tổ chức; nhằm củng cố và tăng cường sức mạnh của Đảng,
làm cho đường lối của Đảng được thực hiện một cách có hiệu lực. Mặt khác,

thực hiện tốt chế độ tập trung dân chủ sẽ góp phần ngăn ngừa sự phá hoại của
các phần tử không kiên định, vơ chính phủ, cơ hội chủ nghĩa trong Đảng. Trong
tác phẩm “Một bước tiến hai bước lùi”, V.I.Lênin viết: “Trước kia Đảng ta chưa
phải là một khối chính thức có tổ chức, mà chỉ là một tổng số những nhóm riêng
biệt và do đó, giữa các nhóm ấy khơng thể có những quan hệ nào khác; ngồi sự
tác động về mặt tư tưởng. Hiện nay, chúng ta đã trở thành một Đảng có tổ chức,
điều đó có nghĩa là chúng ta đã tạo ra một quyền lực, khiến cấp dưới phải phục
tùng cấp trên của Đảng”2. V.I.Lênin cho rằng, Đảng muốn có sức mạnh để lãnh
đạo giai cấp vơ sản và quần chúng lao động trong cuộc đấu tranh chống giai cấp
tư sản, Đảng phải có sự thống nhất về ý chí và hành động. Điều kiện cho sự
thống nhất của Đảng: trước hết Đảng phải có cương lĩnh chính trị và sau đó phải
có tổ chức chặt chẽ. Làm được điều đó tức là tránh được tình trạng chia rẽ, phân
tán ở trong Đảng. Tổ chức là cái bảo đảm cho sự thống nhất về chính trị, tư
tưởng và hành động. Ngồi hai yếu tố cương lĩnh chính trị và hệ thống tổ chức
chặt chẽ, để nguyên tắc tập trung dân chủ được thực hiện đúng đắn, Đảng phải
có một điều lệ thống nhất, một cơ quan chỉ đạo thống nhất do Đại hội Đảng bầu
ra, Đảng phải có một kỷ luật sắt, tự giác nhưng nghiêm minh. V.I.Lênin khẳng
định: “Từ chối không chịu phục tùng sự lãnh đạo của các cơ quan Trung ương,
tức là từ chối không muốn làm người đảng viên, tức là phá hoại Đảng”1. Sau
này trong tác phẩm “Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản”,
V.I.Lênin cũng đã nhấn mạnh: “Kẻ nào làm yếu - dù chỉ là chút ít - kỷ luật sắt
trong đảng của giai cấp vô sản (nhất là trong thời kỳ chun chính của nó) là
thực tế giúp cho giai cấp tư sản chống lại giai cấp vô sản”.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản trong công tác xây dựng
Đảng, nhưng thực hiện nguyên tắc như thế nào cho đúng là một vấn đề khơng

1
2

. C. Mác - Ph.Ăng ghen, Tồn tập, Sđd, Tập 1, 1970, tr.493

. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, tr.429


5
đơn giản. Nếu chủ thể nhận thức khơng có bản lĩnh chính trị và một động cơ
trong sáng thì ngun tắc tập trung dân chủ sẽ phản tác dụng, nó sẽ như một con
dao hai lưỡi. Theo V.I.Lênin, tập trung đi liền với dân chủ. Tập trung càng cao
thì dân chủ càng cao. Khơng thể có dân chủ mà thiếu tập trung và ngược lại
khơng thể có tập trung mà thiếu dân chủ. Khi viết về “Chế độ tập trung và chế
độ tự trị”, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: “Không được quên rằng khi bênh vực chế độ
tập trung, chúng ta chỉ bênh vực chế độ tập trung dân chủ thơi”2, điều đó có
nghĩa: tư tưởng tập trung quan liêu, chun quyền, độc đốn, hoặc dân chủ vơ tổ
chức, vơ chính phủ đều xa lạ với tư tưởng của Người. V.I.Lênin đã từng phê
phán rằng: “Ở ta, người ta luôn luôn lẫn lộn chế độ tập trung với chế độ độc
đoán và chế độ quan liêu. Lẽ tự nhiên là lịch sử nước Nga phải đẻ ra một sự lẫn
lộn như thế, nhưng dù sao đối với người mácxít, điều đó vẫn là một điều dứt
khốt khơng thể dung thứ được”1.
Tư tưởng trên đây của V.I.Lênin đã đặt nền móng cho việc xây dựng Đảng
ở Nga, sau đó được các Đảng trong Quốc tế cộng sản thừa nhận. Một trong
những điều kiện để được gia nhập Quốc tế cộng sản là các đảng phải được xây
dựng theo nguyên tắc “tập trung dân chủ”.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập, giáo dục và rèn luyện. Người đã vận dụng sáng tạo học thuyết xây dựng Đảng
của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam để giải quyết đúng
đắn những vấn đề về xây dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng tập trung
dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Đồng thời Người chỉ ra thế nào là
tập trung, thế nào là dân chủ và mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nêu cụ thể như sau:
“... Nguyên tắc ấy tức là dân chủ tập trung. Nghĩa là:
A. Tập trung trên nền tảng dân chủ.

Cơ quan lãnh đạo của Đảng có uy tín và quyền lực chân chính. Những
phương châm, phương sách, nghị quyết của Đảng, mọi đảng viên nhất định phải

1

. V.I.Lênin, Toàn tập, Sđd, tập 8, 1979, tr.424
. V.I.Lênin, Toàn tập, Sđd, tập 24, 1980, tr.183

2


6
chấp hành. Kỷ luật của Đảng, mọi đảng viên phải tuân theo. Thế là tập trung.
Nhưng tập trung ấy không phải là cá nhân chun chính, nó là xây dựng trên nền
tảng dân chủ. Nghĩa là:
1. Các cơ quan lãnh đạo đều do quần chúng đảng viên bầu cử lên.
2. Phương châm, phương sách, Nghị quyết của Đảng đều do quần chúng
đảng viên tập trung kinh nghiệm và ý kiến lại mà thành. Rồi lại do các cuộc hội
nghị của Đảng thảo luận giải quyết, chứ không ai tự ý độc đoán.
3. Quyền lực của cơ quan lãnh đạo là do quần chúng đảng viên giao phó
cho, chứ khơng phải tự ai tranh giành được. Vì vậy, người lãnh đạo phải gần gũi
và học hỏi quần chúng đảng viên, nghe ngóng ý kiến của họ. Nếu lên mặt với
quần chúng, lạm dụng quyền lực - thế là sai lầm.
4. Trật tự của Đảng là: cá nhân phải phục tùng tổ chức; số ít phải phục
tùng số nhiều; cấp dưới phục tùng cấp trên; các địa phương phải phục tùng
Trung ương.
B. Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung.
Ở trong Đảng, mọi đảng viên có quyền nêu ý kiến, đặt đề nghị, tham gia
giải quyết vấn đề. Nhưng quyết không được trái sự lãnh đạo tập trung của Đảng,
trái nghị quyết và trái kỷ luật của Đảng, quyết chống: không xét thời gian, địa

điểm, điều kiện mà nói lung tung; tự do hành động; dân chủ quá trớn.
1. Chỉ có cơ quan lãnh đạo có quyền khai các cuộc hội nghị.
2. Tất cả các Nghị quyết của Đảng phải do cơ quan lãnh đạo chuẩn bị kỹ
càng, rồi giao cho các cấp thảo luận. Không được làm qua loa, sơ sài.
3. Khi bầu cử các cơ quan lãnh đạo trong Đảng, phải xem xét kỹ lưỡng để
để lập danh sách những đảng viên ứng cử.
4. Toàn thể đảng viên phải theo đúng Đảng chương thống nhất, kỷ luật
thống nhất của Đảng. Toàn thể đảng viên phải theo sự lãnh đạo thống nhất của
Trung ương.
Nói tóm lại: Để làm cho Đảng mạnh thì phải mở rộng dân chủ (thật thà tự
phê bình và phê bình), thực hành lãnh đạo tập trung, nâng cao tính tổ chức và
1

. V.I.Lênin, Tồn tập, Sđd, tập 24, 1980, tr.184


7
tính kỷ luật”1.
Thực tiễn xây dựng, hoạt động của Đảng ta, của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế đã khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của nguyên tắc tập
trung dân chủ: Đối với Đảng ta, trải qua 76 năm xây dựng và lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, Đảng luôn khẳng định tầm quan trọng của nguyên tắc tập trung dân
chủ. Đảng đã kiên trì, vận dụng sáng tạo nguyên tắc này cả trong điều kiện khi
chưa có hoặc khi đã có chính quyền; cả trong điều kiện chiến tranh cũng như khi
xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt trong điều kiện Đảng ta là một đảng cầm
quyền, Đảng đã trung thành, vận dụng đúng đắn, sáng tạo nguyên tắc tập trung
dân chủ. Nhờ vậy trong bất kỳ điều kiện, hồn cảnh nào, Đảng cũng ln ln là
một khối thống nhất về ý chí và hành động, Đảng thực sự là một chỉnh thể thống
nhất, đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Điều này đã khẳng định năng lực, vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu, sức mạnh của

Đảng xuất phát từ nhiều yếu tố, nhiều nguyên nhân, trong đó có ngun nhân đặc
biệt quan trọng chính là do Đảng ta kiên trì và vận dụng đúng đắn, sáng tạo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, trước yêu cầu
của nhiệm vụ cách mạng đang đặt ra cho công tác lãnh đạo, tổ chức bộ máy,
phương thức lãnh đạo của Đảng cần được đổi mới, chỉnh đốn. Điều đó càng địi
hỏi Đảng ta phải khơng ngừng coi trọng, cụ thể hố và vận dụng sáng tạo nguyên
tắc tập trung dân chủ.
Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, việc Đảng Bơn-sêvích
Nga ra đời, lãnh đạo Cách mạng Tháng 10 Nga thành công, lập nên Nhà nước
công nông đầu tiên và lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa thu được những
thắng lợi vĩ đại đã làm cho hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ về quy mô, từng bước đẩy lùi, thu
hẹp chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản. Tuy cịn có những mặt hạn chế trong
q trình tìm tịi mơ hình, con đường đi lên cho phù hợp, song chủ nghĩa xã hội
đã thể hiện rõ tính ưu việt, hơn hẳn của mình so với chủ nghĩa tư bản. Chính
nguyên tắc tập trung dân chủ đã góp phần làm cho các Đảng Cộng sản thực sự là
1

. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 7, Nxb CTQG, H, 2000, tr.240, 241


8
tổ chức chặt chẽ, có đủ năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu để tạo nên các thành
cơng đó. Trong những năm 90 của thế kỷ XX, quá trình tiến hành cải tổ, cải
cách, đổi mới, một số Đảng Cộng sản cầm quyền do sai lầm về đường lối làm
cho đất nước đi vào khủng hoảng trầm trọng về chính trị, kinh tế - xã hội, bên
cạnh đó lại bị chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ra sức tiến cơng trên
lĩnh vực chính trị tư tưởng, trong đó chúng tìm mọi cách xun tạc, phủ nhận
nguyên tắc tập trung dân chủ; cho việc thực hiện nguyên tắc này là nguyên nhân
làm cho các Đảng Cộng sản cầm quyền quan liêu, độc đốn, chun quyền, kìm

hãm sự phát triển...đã làm cho một số Đảng Cộng sản dần dần mất phương
hướng, xa rời, đi tới từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng Cộng sản mất vai
trò lãnh đạo, chủ nghĩa xã hội tan rã như ở Liên Xô và một số nước Đông Âu
vừa qua.
2. Vị trí, vai trị, bản chất và nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của các Đảng
Cộng sản, nguyên tắc này chỉ đạo toàn bộ và xuyên suốt quá trình xây dựng tổ
chức, sinh hoạt nội bộ và hoạt động lãnh đạo của Đảng. Trước hết, nguyên tắc
này quy định việc xây dựng cơ cấu, hình thức tổ chức của Đảng, như vấn đề chế
độ sinh hoạt, tổ chức đại hội, chế độ thủ tục bầu cử, các cơ quan lãnh đạo của
Đảng; nguyên tắc quy định các chế độ để giải quyết các mối quan hệ trong nội
bộ Đảng, như giữa cấp trên với cấp dưới, giữa tập thể với cá nhân, giữa đa số
với thiểu số...; nguyên tắc quy định các nguyên tắc, chế độ sinh hoạt Đảng,
phương pháp tác phong lãnh đạo của Đảng, bảo đảm cho các cấp uỷ, tổ chức
Đảng và mỗi đảng viên vừa phát huy trách nhiệm sáng tạo, tích cực, chủ động,
vừa tập trung được sức mạnh trí tuệ và sức mạnh của toàn Đảng. Nguyên tắc tập
trung dân chủ là cơ sở bảo đảm cho sự đoàn kết thống nhất trong Đảng về mặt tổ
chức, đồng thời sự thống nhất về mặt tổ chức là điều kiện vật chất để đảm bảo
cho sự thống nhất về mặt chính trị, tư tưởng được giữ vững và biến thành hiện
thực. Nguyên tắc này còn là cơ sở để xây dựng và giữ nghiêm kỷ luật Đảng, là
tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt Đảng cộng sản chân chính với các Đảng cơ hội,
cải lương về mặt tổ chức.


9
Nguyên tắc tập trung dân chủ mang bản chất tổ chức của giai cấp cơng
nhân. Nó là sự thống nhất, tác động biện chứng giữa hai thành tố tập trung và dân
chủ. Hai thành tố này là thuộc tính bản chất của giai cấp công nhân trong lao động
sản xuất và đấu tranh giai cấp. Thuộc tính bản chất giai cấp cơng nhân của Đảng
được xác định từ vị trí, vai trị của giai cấp cơng nhân, từ sự ra đời của giai cấp

công nhân, từ yêu cầu khách quan của sản xuất cơng nghiệp. Qua đó đã từng bước
tơi luyện làm cho giai cấp cơng nhân có những thuộc tính cơ bản như tính tập
trung hố cao độ, ý thức và trình độ tổ chức chặt chẽ, tính kỷ luật nghiêm minh,
tinh thần đoàn kết, hợp tác, tương trợ, dân chủ tập thể.
Tập trung là điều kiện, là tiền đề cho sự vận động, phát triển của dân chủ và
ngược lại. Hai thành tố này không mâu thuẫn nhau, mà luôn thống nhất, tác động
bổ sung cho nhau. Tập trung trên cơ sở dân chủ, dân chủ có sự bảo đảm của tập
trung, dân chủ có lãnh đạo. Thực hiện và phát triển dân chủ trong Đảng phải luôn
gắn liền với giữ vững tập trung và tăng cường tập trung trong Đảng phải luôn giữ
vững, phát huy dân chủ. Dân chủ càng phát triển thì tập trung càng vững chắc, do
vậy những hiện tượng tập trung quan liêu, chuyên quyền độc đốn, dân chủ hình
thức, dân chủ vơ tổ chức kỷ luật, phân tán, bè phái, cục bộ là sự vi phạm nguyên tắc
tập trung dân chủ, trái với bản chất của nguyên tắc này.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
tập trung dân chủ. Qua hoạt động thực tiễn của Đảng ta và từ bài học “xương
máu” của các đảng anh em, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam ghi rõ: “Đảng là
một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy nguyên tắc tập trung dân
chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách,
tự phê bình và phê bình, thương u đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồn kết trên
cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng”1. Trong điều 9, chương II về nguyên
tắc tổ chức và cơ cấu tổ chức của Đảng (Điều lệ Đảng khoá XI) đã cụ thể nguyên
tắc tập trung dân chủ thành 6 nội dung chính như sau:
“1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách.


10
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ
quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ
đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là

ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
3. Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình
trước đại hội cùng cấp, trước cấp trên và cấp dưới; định kỳ thơng báo tình hình
hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và
phê bình.
4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu
số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các
tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành
Trung ương.
5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành
khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu
quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến
thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến
Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết,
không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm
quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; khơng phân biệt đối xử với đảng viên có ý
kiến thuộc về thiểu số.
6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của
mình, song khơng được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên”2.
Như vậy, tập trung dân chủ theo quan điểm của Đảng ta có nghĩa là tất cả
các cơ quan Đảng đều phải do bầu cử lập ra và hoạt động theo nguyên tắc tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; thực hiện chế độ thơng báo tình hình hoạt động
của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê
bình và phê bình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số có quyền bảo lưu. Mặt

1
2

. Điều lệ Đảng CSVN, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2010, tr.4

. Điều lệ Đảng CSVN, Nxb chính trị quốc gia, HN, 2001, tr.15 - 17


11
khác, tập trung dân chủ đặt ra yêu cầu kỷ luật nghiêm ngặt và thống nhất đối với
toàn thể đảng viên, là phục tùng ý chí và nghị quyết của đa số, là việc các cơ
quan cấp dưới có nghĩa vụ phải chấp hành quyết định của các cơ quan có thẩm
quyền cấp trên. Điều đó sẽ bảo đảm cho công tác và sự lãnh đạo của Đảng luôn
được tập trung, có tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, tạo nên sức
mạnh của toàn Đảng trong lãnh đạo và hoạt động.
3. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung dân chủ đối với công tác xây
dựng và hoạt động của Đảng ta hiện nay
3.1. Thực trạng của việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong
Đảng ta hiện nay
Trong hơn tám thập kỷ xây dựng và hoạt động lãnh đạo, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã quán triệt, vận dụng đúng đắn, sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác xây dựng Đảng, đặc biệt Đảng ta
quan tâm vận dụng tổng hợp các nguyên lý về xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc
tập trung dân chủ trong điều kiện đảng cầm quyền. Vì vậy, cách mạng Việt Nam
luôn dành được những thắng lợi to lớn, vĩ đại, đó là đã lãnh đạo nhân dân cả nước
tiến hành Cách mạng tháng Tám thành công; đánh bại thực dân Pháp, đế quốc
Mỹ, thống nhất đất nước và hiện nay đang lãnh đạo tiến hành công cuộc đổi mới
thu được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động lãnh đạo của Đảng còn nhiều vấn đề cần
phải tiếp tục được chấn chỉnh, khắc phục. Trước hết, việc nhận thức và thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ vẫn còn nhiều thiếu sót, khuyết điểm. Nhận thức
của nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên chưa thật sâu sức, đầy đủ,
thống nhất về vị trí, vai trị, bản chất của nguyên tắc; chưa thấu suốt và thực hiện
tốt các nội dung nguyên tắc đã được xác định trong Điều lệ Đảng, thậm chí có
biểu hiện thiếu tơn trọng ngun tắc. Chế độ sinh hoạt Đảng, chế độ tập thể lãnh

đạo, cá nhân phụ trách vừa thiếu quy định cụ thể, vừa chấp hành nguyên tắc
không nghiêm túc, chặt chẽ cho nên khơng ít nơi vừa có tình trạng quan liêu, vi
phạm dân chủ, vừa có biểu hiện dân chủ hình thức hoặc dân chủ cực đoan, kỷ
luật lỏng lẻo, cục bộ bản vị, gây mất đoàn kết nội bộ, có nơi rất nghiêm trọng và


12
kéo dài. Vẫn còn hiện tượng coi thường kỷ cương phép nước, vơ tổ chức, vơ kỷ
luật, cố tình khơng chấp hành nghị quyết, chỉ thị, làm suy yếu khối đoàn kết
thống nhất tư tưởng và tổ chức, chất lượng sinh hoạt Đảng giảm sút, nhất là tổ
chức đảng ở cơ sở. Việc nghiên cứu, tổng kết, cụ thể hoá, hướng dẫn, kiểm tra
và chỉ đạo nguyên tắc này cho phù hợp với từng thời gian, từng lĩnh vực, phù
hợp với đặc điểm, nhiệm vụ, phạm vi của từng cấp uỷ, tổ chức đảng còn nhiều
yếu kém. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm và lúng túng.
Báo cáo về công tác xây dựng Đảng của Ban Chấp hành Trung ương khoá X tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: “Nguyờn tắc tập trung
dõn chủ cũn bị vi phạm, ảnh hưởng đến sự đồn kết, thống nhất trong Đảng”1.
Thậm chí có người lợi dụng việc sử dụng nguyên tắc này nhằm thực hiện những
động cơ, lợi ích cá nhân hoặc phe nhóm đi ngược lại lợi ích tồn Đảng. Những
khuyết điểm trên nếu Đảng ta không kịp thời phát hiện và kiên quyết khắc phục
sẽ trở thành vấn đề hết sức nguy hiểm, nó kết hợp với các yếu tố khác, nhất là sự
chống phá trên lĩnh vực chính trị tư tưởng của kẻ thù dần dần làm mất vai trị,
tác dụng, tính cách mạng, khoa học của ngun tắc tập trung dân chủ, từng bước
làm cho Đảng suy yếu, tan rã về tổ chức.
Một vấn đề đáng quan tâm hiện nay là đa số cán bộ, đảng viên của Đảng
xuất thân từ nông dân, chịu ảnh hưởng tư tưởng của người sản xuất nhỏ, phân
tán, tuỳ tiện, bảo thủ, kinh nghiệm chủ nghĩa. Khi Đảng trở thành đảng cầm
quyền, cán bộ đảng viên có chức có quyền thì biểu hiện trên, nhất là tệ quan liêu
càng có điều kiện nảy sinh, phát triển. Tệ quan liêu ở nước ta gắn liền với tư
tưởng phong kiến, gia trưởng, tính trì trệ, bảo thủ; biểu hiện của nó trong sinh

hoạt đảng rất đa dạng: bệnh tập trung quan liêu, cửa quyền trong lãnh đạo, xa rời
thực tế, cơ hội, ngại nghiên cứu học tập, ngại đổi mới, hẹp hịi, bệnh cơng thần,
tính quân phiệt, mệnh lệnh... Khi cán bộ, đảng viên đã mắc bệnh quan liêu thì tất
yếu tình cảm cách mạng bị nguội lạnh, họ chỉ cốt thu vén cho cá nhân, sẵn sàng
bán rẻ lương tâm, danh dự, làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng, dẫn đến

. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.

1


13
làm suy yếu Đảng.
Những khuyết điểm, yếu kém nêu trên, ngoài nguyên nhân chủ quan về
nhận thức, về quy chế, về kinh nghiệm lãnh đạo,...thì có một ngun nhân khơng
kém phần quan trọng mà Đảng ta chỉ ra là: “Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa
làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng, chất lượng và hiệu
quả kiểm tra, giám sát chưa cao; chưa coi trọng việc kiểm tra, giám sát thực
hiện đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị quyết, thi hành Điều lệ Đảng, kiểm tra,
giám sát phũng ngừa tiờu cực và phỏt huy nhõn tố tớch cực. Nhiều khuyết điểm,
sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm được phát hiện. Tỡnh trạng thiếu
trỏch nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức, lối sống vẫn diễn ra khá phổ biến trong
một bộ phận cán bộ, đảng viên. Kỷ luật, kỷ cương ở nhiều tổ chức đảng khơng
nghiêm. Sự đồn kết, nhất trí ở khơng ít cấp uỷ chưa tốt” 1.
Cùng với những biểu hiện không đúng, vi phạm khi thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ trong nội bộ Đảng nói trên, các thế lực thù địch, chống cộng
cũng tập trung đánh vào nguyên tắc tổ chức của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập
trung dân chủ. Chúng xuyên tạc, cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ đến nay
đã lỗi thời, thực hiện tập trung dân chủ sẽ dẫn đến mất dân chủ trong Đảng, làm
cho Đảng rơi vào quân phiệt, độc đoán, độc tài. Họ ra sức tán dương và khuyến

khích thực hiện dân chủ tự do, dân chủ cực đoan, trong Đảng nên có nhiều phe
nhóm đối lập để đấu tranh, bàn cãi, tranh luận; chúng sử dụng triệt để những
chiêu bài “dân chủ”, “đa nguyên”, cổ vũ sự bất đồng ý kiến về quan điểm trong
Đảng, rồi lợi dụng sự bất đồng đó để chia rẽ Đảng thành những phe phái đối lập;
những kẻ phản bội lý tưởng xã hội chủ nghĩa, cơ hội, hữu khuynh, xét lại, những
hành động chống Đảng, chống chế độ thì được chúng ve vãn, tâng bốc lôi kéo,
mời chào tặng cho đủ thứ danh hiệu, cịn những đảng viên chân chính kiên quyết
bảo vệ Đảng, bảo vệ lý tưởng của Đảng thì bị chúng nhạo báng, chế giễu là bảo
thủ, cứng nhắc. Chúng đối lập những người lãnh đạo Đảng với đông đảo đảng
viên, chia rẽ lớp đảng viên này với lớp đảng viên khác, mưu toan gây mâu thuẫn

. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.

1


14
trong nội bộ. Mục đích các thế lực thù địch đánh vào nguyên tắc tập trung dân
chủ là nhằm phá vỡ sự thống nhất nội bộ Đảng, đi tới phân liệt và làm tan rã Đảng
về tổ chức.
Từ thực trạng tình hình nội bộ Đảng và những âm mưu, thủ đoạn của các
thế lực thù địch, chống cộng nhằm phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ trong
xây dựng, hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu trên. Đòi hỏi Đảng ta
phải có những chủ trương, giải pháp đồng bộ, phù hợp nhằm giữ vững, phát huy
nguyên tắc tập trung dân chủ, làm cho Đảng có đủ năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
3.2. Một số vấn đề về giữ vững và tăng cường nguyên tắc tập trung dân
chủ trong công cuộc đổi mới, chỉnh đốn Đảng hiện nay
Hiện nay, đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta là tiếp tục thực hiện sự nghiệp đổi mới,

đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu xây dựng một nước
Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo
Cương lĩnh và Nghị quyết các nhiệm kỳ Đại hội toàn quốc của Đảng đã xác
định. Đây là sự nghiệp vơ cùng khó khăn, phức tạp, địi hỏi hơn bao giờ hết,
phải phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng khối đoàn kết toàn dân gắn với
việc thực hiện dân chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, động viên và
tổ chức mọi tầng lớp nhân dân phát huy truyền thống yêu nước và lòng tự hào
dân tộc, ra sức thi đua khắc phục mọi khó khăn, phấn đấu thực hiện có kết quả
mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Đồng thời phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng.
Thực tiễn hơn 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới cho thấy: Thắng lợi
của công cuộc đổi mới tuỳ thuộc vào bản lĩnh, trình độ và năng lực lãnh đạo của
Đảng. Với bản lĩnh chính trị vững vàng, tính kiên định cách mạng, tinh thần độc
lập, tự chủ, sáng tạo, Đảng ta đã tiếp tục giữ vững và phát huy truyền thống vẻ
vang, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lãnh đạo sự
nghiệp đổi mới dành được những thành tựu đáng phấn khởi, như trong Báo cáo


15
Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khố X tại Đại hội XI của Đảng
đã khẳng định những thành tựu trong 20 năm thực hiện cương lĩnh 1991:
“Những thành tựu đạt được trong 20 năm thực hiện Cương lĩnh là to lớn và có ý
nghĩa lịch sử. Đất nước bước đầu thực hiện thành công công cuộc đổi mới, ra
khỏi tỡnh trạng kộm phỏt triển, bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân
có nhiều thay đổi; sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, độc lập chủ quyền và
chế độ xó hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế được nâng cao; tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh
mẽ hơn trong giai đoạn mới” 1.
Để có đủ khả năng và điều kiện lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước

dành thắng lợi, Đảng phải không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao bản
lĩnh, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình. Là Đảng cầm quyền, lại hoạt
động trong điều kiện mới hết sức phức tạp, Đảng ta đã ý thức rất sâu sắc về vai
trò, ý nghĩa của công tác đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Từ Đại hội VI đến Đại hội
XI, Đảng ta đã nghiêm khắc chỉ ra: bên cạnh những ưu điểm đã đạt được, còn có
những khuyết điểm trong cơng tác xây dựng Đảng; thừa nhận công tác tư tưởng,
công tác lý luận, công tác tổ chức cán bộ có nhiều yếu kém, bất cập; “Việc đổi
mới công tác cán bộ cũn chậm; thiếu cơ chế, chính sách cụ thể để thực sự phát
huy dân chủ trong công tác cán bộ, phát hiện và sử dụng người tài; chậm đổi
mới cơ chế, phương pháp và quy trỡnh đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức
đối với cán bộ; đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu. Tỡnh trạng chạy chức, chạy
quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, hũn chương chưa được khắc phục. Cơng tác
cán bộ thiếu tầm nhỡn xa. Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thấp. Mơi
trường làm việc, chính sách cán bộ chưa tạo được động lực để khuyến khích, thu
hút, phát huy năng lực, sự cống hiến của cán bộ; chưa cổ vũ ý chí phấn đấu
vươn lên, sự gắn bó, tận tụy của cán bộ đối với công việc.
Năng lực lónh đạo và sức chiến đấu của khơng ít tổ chức đảng cũn thấp;
cụng tỏc quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội

. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.

1


16
dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bỡnh và phờ bỡnh yếu. Việc xõy dựng tổ chức
cơ sở đảng trong doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
cũn chậm, vai trũ của tổ chức đảng ở đây mờ nhạt. Động cơ phấn đấu vào Đảng
của một số người có biểu hiện lệch lạc, cơ hội.
Việc xử lý, sử dụng và quản lý cỏn bộ, đảng viên có vấn đề lịch sử chính

trị cũn phiến diện, thiếu chặt chẽ. Việc xem xột, giải quyết những vấn đề chính
trị hiện nay của cán bộ, đảng viờn cũn lỳng tỳng. Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng
chưa quan tâm chỉ đạo đúng mức công tác này” 1.
Đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ tiếp tục thực hiện các nghị
quyết, chủ trương về xây dựng Đảng, nhất là Nghị quyết Hội nghị Trung ương
sáu (lần 2) - khoá VIII, kết luận của Hội nghị Trung ương bốn - khoá IX và Nghị
quyết Trung ương bốn – khóa XI đã chỉ rõ “Nguyờn tắc "tập thể lónh đạo, cá
nhân phụ trách" trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hỡnh thức, do khụng xỏc định
rừ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, khi sai sót, khuyết
điểm khơng ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập
thể, không rừ trỏch nhiệm cỏ nhõn, vừa khụng khuyến khớch người đứng đầu có
nhiệt tỡnh, tõm huyết, dỏm nghĩ, dỏm làm, tạo kẽ hở cho cỏch làm việc tắc
trỏch, trỡ trệ, hoặc lạm dụng quyền lực một cỏch tinh vi để mưu cầu lợi ích cá
nhân… Cỏc nguyờn tắc tập trung dõn chủ, tự phờ bỡnh và phờ bỡnh ở nhiều nơi
vừa bị buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở
cho công tác kiểm tra, giám sát. Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế,
chính sách, pháp luật thích ứng với quá trỡnh vận hành của nền kinh tế thị
trường định hướng xó hội chủ nghĩa chưa kịp thời; nhiều văn bản quy định thiếu
chế tài cụ thể. Đánh giá, sử dụng, bố trớ cỏn bộ cũn nể nang, cục bộ, chưa chú
trọng phát hiện và có cơ chế thật sự để trọng dụng người có đức, có tài; khơng
kiên quyết thay thế người vi phạm, uy tín giảm sút, năng lực yếu kém.
Cơng tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống
nhiều khi cũn hỡnh thức, chưa đủ sức động viên và thường xuyên nâng cao ý chí

. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.

1


17

cách mạng của cán bộ, đảng viên; một số nơi có tỡnh trạng những việc làm
đúng, gương người tốt khơng được đề cao, bảo vệ; những sai sót, vi phạm không
được phê phán, xử lý nghiờm minh. Cụng tỏc kiểm tra, giỏm sỏt, giữ gỡn kỷ
cương, kỷ luật ở nhiều nơi, nhiều cấp chưa thường xuyên, ráo riết; đấu tranh
với những vi phạm cũn nể nang, khụng nghiờm tỳc. Vai trũ giỏm sỏt của nhõn
dõn thụng qua Mặt trận Tổ quốc và cỏc đồn thể chính trị - xó hội chưa được
phát huy, hiệu quả chưa cao.
Để đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhằm
không ngừng tăng cường vai trò lãnh đạo, nâng cao năng lực và sức chiến đấu
của Đảng, củng cố mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, Đảng ta cũng
đặc biệt nhấn mạnh trong thời gian tới phải tập trung làm tốt cơng tác giáo dục
tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân,
chống tư tưởng cơ hội thực dụng. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, quan liêu, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, bảo đảm sự thống
nhất cả về ý chí và hành động trong tồn Đảng.
Việc giữ vững và tăng cường nguyên tắc tập trung dân chủ là vấn đề sống
còn của Đảng ta, do vậy trong Báo cáo “Về công tác xây dựng Đảng” của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội XI đã xác định: Phải “Thật sự
phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp uỷ ở
cơ sở đến sinh hoạt Ban Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương; đồng
thời giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ. Chống quan liêu, bè phái, cục bộ, địa phương, lối làm việc vô nguyên tắc,
vi phạm kỷ luật, vi phạm dân chủ” 1.
Nguyên tắc tập trung dân chủ được thể hiện xuyên suốt trong toàn bộ mọi
hoạt động, mọi lĩnh vực, mọi giai đoạn phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam,
nó biểu hiện thành các nội dung trong chức năng, quyền hạn, mối quan hệ, chế độ
công tác của tổ chức đảng, các cấp uỷ; trong hoạt động của từng cán bộ, đảng
viên từ trung ương đến cơ sở. Sức sống của nguyên tắc tập trung dân chủ chính là

. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.


1


18
sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo những nội dung cơ bản của nguyên tắc cho phù
hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Linh hồn của nguyên tắc tập trung dân chủ là
nhằm tăng cường thêm năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, củng cố khối đoàn kết
thống nhất trong Đảng để Đảng ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng từng
giai đoạn; thể hiện ở những chủ trương, biện pháp lãnh đạo sát đúng, được chấp
hành triệt để, thực hiện có kết quả cao. Vì thế, việc thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ không phải là vấn đề mới, nhưng phải thực hiện nghiêm túc, phát huy tác
dụng của nguyên tắc, tránh những sai lầm hoặc coi trọng yếu tố tập trung, coi nhẹ
yếu tố dân chủ và ngược lại.
Đối với các tổ chức đảng, cấp uỷ và mọi cán bộ, đảng viên, trước hết phải
thường xuyên quán triệt, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, bản chất và nội
dung của nguyên tắc tập trung dân chủ. Tăng cường, giữ vững nguyên tắc tập
trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt Đảng, chống mọi biểu hiện vi phạm
quyền dân chủ, dân chủ hình thức, hoặc lợi dụng dân chủ để mưu cầu lợi ích
riêng, cục bộ làm suy yếu sức mạnh của tổ chức đảng. Hết sức cảnh giác với
những âm mưu, thủ đoạn nhằm xuyên tạc, bóp méo bản chất của nguyên tắc; các
luận điệu phủ định nguyên tắc, hay đối lập giữa tập trung và dân chủ. Đồng thời,
cần quan tâm phát hiện, ngăn chặn những động cơ với mục đích xấu của tư
tưởng cơ hội, cá nhân chủ nghĩa, với ý đồ làm sai lệch nội dung nguyên tắc để
đem lại lợi ích cho cá nhân, phe phái.
Những nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ được xác định trong
Điều lệ Đảng bổ sung, sửa đổi (đã được Đại hội XI của Đảng thơng qua) cần
được cụ thể hố và có những quy định, chế độ cơng tác rõ ràng đối với cấp uỷ,
tổ chức đảng các cấp như về: Chế độ lãnh đạo; chế độ triển khai, chấp hành nghị
quyết; chế độ thông tin, báo cáo; chế độ tự phê bình, phê bình; quy chế hoạt

động của các loại hình cấp uỷ, tổ chức đảng; quy chế kiểm tra, quy định các mối
quan hệ trong Đảng; phương pháp, tác phong cơng tác,...có như vậy mới bảo
đảm cho ngun tắc tập trung dân chủ được thực hiện đúng đắn, phù hợp. Bảo
đảm phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng từ sinh hoạt chi bộ đến sinh hoạt cấp
uỷ đảng và cơ quan lãnh đạo ở các cấp.


19
Trong các cấp uỷ và tổ chức đảng từ trung ương đến chi bộ phải thực hiện
đúng chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Từng đảng bộ phải chủ động
ngăn chặn và khắc phục tình trạng kém đoàn kết, thiếu thống nhất. Những cấp
uỷ, tổ chức đảng nào vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, cán bộ độc đoán,
chuyên quyền, kéo bè, kéo cánh, gây mất đồn kết nội bộ thì cấp uỷ cấp trên
phải kiên quyết chỉ đạo kiểm điểm làm rõ đúng sai, kiện tồn tổ chức cán bộ, xử
lý nghiêm những người có khuyết điểm. Chủ động xây dựng cấp uỷ các cấp ln
là hạt nhân lãnh đạo, đồn kết, mẫu mực trong thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ.
Các cấp uỷ, tổ chức đảng phải giữ vững nền nếp, chế độ và nâng cao chất
lượng sinh hoạt, chế độ tự phê bình và phê bình, đặc biệt là ở cấp chi bộ. Trong
phê bình và tự phê bình nghiêm cấm việc trấn áp, trù dập người phê bình, cũng
như lợi dụng phê bình để đả kích cá nhân, gây rối nội bộ. Cần phát huy trí tuệ tập
thể để có những quyết định đúng đắn, phát huy năng lực, trình độ, kinh nghiệm,
trách nhiệm của cá nhân trong việc triển khai, tổ chức thực hiện các mặt, các
nhiệm vụ. Đồng thời, cấp uỷ, chi bộ phải trực tiếp phân công, kiểm tra đảng viên
thực hiện tốt nhiệm vụ được giao; giữ mối liên hệ với nhân dân ở nơi cư trú và ở
nơi làm việc theo đúng quy định 76 của Bộ Chính trị.
Bên cạnh việc nâng cao nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ, ở các cấp uỷ và tổ chức đảng cần tăng cường công tác kiểm tra việc chấp
hành nguyên tắc tập trung dân chủ. Trước hết phải kiểm tra việc chấp hành
đường lối, nghị quyết, chủ trương, chính sách, Điều lệ Đảng, nhiệm vụ chính trị,

chức trách được giao, cũng như tinh thần, thái độ trong sinh hoạt đảng. Những
cán bộ, đảng viên có phát ngôn và việc làm vô tổ chức, vô kỷ luật, không chấp
hành nghị quyết, Điều lệ Đảng phải được xử lý kịp thời, không bao chen nhân
nhượng; đấu tranh kiên quyết loại bỏ những tư tưởng, hành động hữu khuynh,
nể nang trong xử lý kỷ luật. Đối với đảng viên là cán bộ chủ chốt ở các cấp uỷ
phải gương mẫu chấp hành và có trách nhiệm tuyên truyền, kiểm tra phát hiện
những đảng viên, tổ chức đảng không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ,
nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng để có những biện pháp uốn


20
nắn và khắc phục.
Để thực hiện tốt nguyên tắc này, trước hết đũi hỏi cỏc tổ chức đảng cần
làm tốt việc giáo dục, học tập cho đảng viên trong đảng bộ nhận thức đúng về
nguyên tắc này.
Nhận thức đúng về vị trí, vai trũ, về những nội dung cụ thể của nguyờn
tắc, từ đó đảng viên tự giác chấp hành vận động mọi người cùng thực hiện; đồng
thời tích cực đấu tranh ngăn chặn, phê phán những tổ chức, cá nhân độc đoán,
chuyên quyền, thực hiện dân chủ hỡnh thức, lợi dụng dõn chủ để đạt lợi ích
riêng.
Các đảng ủy, các chi bộ phải cụ thể hóa nội dung nguyên tắc này thành
quy chế trong tổ chức, hoạt động, như quy định về quy trỡnh chuẩn bị, thảo luận
và thụng qua nghị quyết; quy chế sinh hoạt cấp ủy, về hoạt động kiểm tra, giám
sát; quy định về chế độ thông tin, giám sát…
Chấp hành tốt những quy định hướng dẫn của cấp trên, thực hiện tốt
nguyên tắc cấp dưới phục tùng cấp trên, thiểu số phục tùng đa số, bảo đảm chế
độ lónh đạo tập thể. Thực hiện tốt các quyền của thành viên cấp ủy, chi bộ, thực
hiện đúng các nội dung phải biểu quyết và các hỡnh thức biểu quyết.
Thực hiện tốt việc cơng khai hóa trong tổ chức đảng, thực hiện đúng các
quy định của Đảng về chế độ thông tin, báo cáo để cấp ủy viên, đảng viên có

được thơng tin đầy đủ, chính xác, kịp thời cùng với tổ chức đảng bàn bạc, đề
xuất, quyết định những việc mà cỏ nhõn cú trỏch nhiệm tham gia.
Kiên quyết, mạnh dạn đấu tranh, phê phán, xử lý, chấn chỉnh những biểu
hiện nhận thức không đúng, xem thường, cố tỡnh vi phạm nguyờn tắc tập trung
dõn chủ.
Tự phờ bỡnh và phờ bỡnh, nờu cao tớnh tiờn phong, gương mẫu của cán
bộ, đảng viên là hoạt động không thể thiếu của mỗi tổ chức, mỗi cá nhân, đó là
quá trỡnh đấu tranh, tự đấu tranh để tỡm ra chõn lý, để cải tạo nhận thức của con
người. Phê bỡnh, tự phờ bỡnh được nhận thức dưới nhiều góc độ khác nhau,
trong lý luận xây dựng đảng, Đảng ta xác định đây là biện pháp hết sức quan
trọng để xây dựng đảng, nó là quy luật phát triển của Đảng, hiện nay Đảng ta


21
xác định tự phê bỡnh và phờ bỡnh là một nguyờn tắc sinh hoạt của Đảng. Đối
với các tổ chức đảng, việc thực hiện tốt tự phờ bỡnh và phờ bỡnh là việc làm rất
cần thiết để nhằm tăng cường năng lực lónh đạo, sự đồn kết nhất trí trong tổ
chức đảng. Để thực hiện tốt vấn đề này cần quan tâm một số vấn đề sau:
Cấp ủy cần quan tâm chỉ đạo, tổ chức cho các ủy viên ban chấp hành, các
đảng viên nghiên cứu học tập để nắm, hiểu đầy đủ, sâu sắc nội dung, ý nghĩa của
việc tự phờ bỡnh và phờ bỡnh trong đảng, nhằm làm cho từng đảng viên nâng
cao bản lĩnh chính trị trong sinh hoạt đảng, trong đấu tranh chống các biểu hiện
tiêu cực, đồng thời tạo cho đảng viên ý thức nghiờm tỳc trong tự phờ bỡnh và
phờ bỡnh.
Thực hiện nền nếp, duy trỡ thường xuyên việc tự phê bỡnh và phờ bỡnh
trong cấp ủy, trong chi bộ. Cỏc đảng viên giữ vai trũ lónh đạo phải hết sức
gương mẫu trong chỉ đạo thực hiện nguyờn tắc và trong tự phờ bỡnh của cỏ
nhõn. Khuyến khớch những đảng viên tiêu biểu trong tự phê bỡnh, phờ bỡnh.
Cần tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân kiểm tra, giám sát và góp ý kiến
cho đảng viờn, cho cấp uỷ, chi bộ. Nờn tổ chức lấy ý kiến thăm dũ sự tín nhiệm

của quần chúng đối với đảng viên, lónh đạo đảng uỷ, chi bộ.
Cấp uỷ, lónh đạo các chi bộ phải tạo điều kiện giúp đỡ, giáo dục, kiểm tra
những đảng viên mắc sai lầm khuyết điểm mà họ đó tự giỏc sửa chữa, cầu tiến;
kiờn quyết xử lý những đảng viên sai phạm mà không thành khẩn tiếp thu sửa
chữa, những đảng viên lợi dụng tự phê bỡnh và phờ bỡnh để trả thù, chia rẽ nội
bộ.
Đảng ta coi sự đoàn kết thống nhất là sinh mệnh của Đảng, là vấn đề sống
cũn của cỏch mạng, là cơ sở để thống nhất giai cấp, là điều kiện để thống nhất
toàn dân và đưa cách mạng đến thắng lợi. Đồng thời, Đảng ta coi sự chia rẽ là
một tội ác lớn nhất đối với Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đó dạy: “Đồn kết là
sức mạnh, là then chốt của thành công”, cho nên “các đồng chí từ Trung ương
đến cỏc chi bộ cần phải giữ gỡn sự đồn kết nhất trí của Đảng”.
Qua thực tế các tổ chức đảng ở Cục thi hành án dân sự Thành phố Hà Nội
cho thấy, nơi nào cấp uỷ, chi bộ tinh thần đoàn kết thống nhất không cao, thậm


22
chí cũn kốn cựa địa vị, cục bộ, phe cánh… thỡ nơi đó tổ chức đảng yếu kém. Vỡ
vậy, đồn kết thống nhất cần phải học tập, quán triệt, những bài học, những kinh
nghiệm quý báu của Đảng ta đó đúc kết và chỉ ra, để mỗi đảng viên phải giữ
vững tinh thần, giữ gỡn sự đoàn kết trong Đảng “như giữ gỡn con ngươi mắt
mỡnh”.
Các đảng uỷ, chi bộ phải xây dựng, tuân thủ quy chế hoạt động, thực hiện
tốt các nguyên tắc, quy định của Đảng, nhất là nguyên tắc tập thể lónh đạo, tập
trung dân chủ. Cần tuân thủ nghiêm quy trỡnh, nguyờn tắc làm cụng tỏc cỏn bộ.
Cần lựa chọn bố trí đúng cán bộ, kiên quyết khơng bố trí những người có
tư tưởng bè phái, cục bộ. Ở những đảng bộ, cấp uỷ, chi bộ có hiện tượng mất
đồn kết phải phân tích, tỡm hiểu đúng nguyên nhân và có biện pháp giải quyết
phù hợp, kịp thời, tránh để kéo dài.
Nõng cao năng lực lónh đạo của các tổ chức đảng trong giai đoạn hiện nay

là trách nhiệm của tất cả các cấp uỷ đảng và đảng viên. Để làm tốt vấn đề này,
các cấp uỷ đảng và cán bộ, đảng viên phải nỗ lực phấn đấu về mọi mặt, đảm bảo
cho đảng bộ thực sự là hạt nhân chớnh trị, lónh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi
chủ trương đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, mọi
nhiệm vụ chính trị ở địa phương, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI và Nghị quyết hội nghị Trung ương 4 ( khố XI) đó đề ra,
góp phần xây dựng Đảng bộ tỉnh ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ trong giai đoạn mới.
KẾT LUẬN
Nguyên tắc tập trung dân chủ cũng như các nguyên tắc, chế độ khác là
chính do con người hoặc tổ chức đặt ra trên cơ sở nhận thức đúng quy luật
khách quan. Cho nên việc thực hiện như thế nào, chất lượng hiệu quả đến đâu
tuỳ thuộc rất nhiều vào phẩm chất, năng lực nói chung, ý thức giác ngộ, trách
nhiệm chính trị, đạo đức lối sống, năng lực nhận thức nói riêng của người lãnh
đạo.
Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn của việc thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ, có thể khẳng định rằng: Nguyên tắc tập trung dân chủ đến nay


23
không lỗi thời, các Đảng Cộng sản và mỗi đảng viên cộng sản không được phép
từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy nhiên, trong điều kiện, hoàn cảnh mới
hiện nay, chúng ta phải hiểu và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ một cách
đúng đắn, sáng tạo, theo đúng quan điểm của Đảng; chống các biểu hiện tập
trung quan liêu, dân chủ hình hoặc giáo điều, dập khn máy móc khi thực hiện
ngun tắc tập trung dân chủ.
Hiểu đúng bản chất, nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ đã khó.
Nhưng khó hơn và điều quyết định là phải có cơ chế đúng, có những quy định
cụ thể và phải đấu tranh kiên quyết để việc thực hiện nguyên tắc này đạt hiệu
quả cao. Có như vậy mới làm cho Đảng ta vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng

và tổ chức, có đủ năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu đưa sự nghiệp đổi mới đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiến lên dành được những thành tựu to
lớn và vững chắc hơn.



×