Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tiểu luận cao học đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng đối với nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.65 KB, 23 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Đảng ta đã chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là
một trong những điều kiện và môi trường tiên quyết của một quốc gia tiến hành
cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa và một xã hội phát triển tiên tiến. Nội dung của
Nhà nước pháp quyền là khẳng định cội nguồn quyền lực Nhà nước là ở nhân dân.
Để đảm bảo quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, trong đó Nhà nước là của
nhân dân chứ không phải nhân dân là của Nhà nước, Nhà nước pháp quyền đề cao
tính hợp hiến, hợp pháp trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Nhà nước chỉ
được làm những gì pháp luật cho phép, còn nhân dân được làm tất cả những điều
pháp luật không cấm, pháp luật đảm bảo cho sự phát triển tự do tối đa của nhân
dân. Vai trò của pháp luật trong việc xây dựng và duy trì một xã hội trật tự ổn định,
trong đó khơng chỉ mỗi công dân, mỗi cá nhân, mà bản thân Nhà nước và những
nước đứng đầu chính quyền cũng phải tơn trọng pháp luật đã được khẳng định.
Hai mặt dân chủ và pháp luật trong Nhà nước pháp quyền gắn bó hữu cơ, làm tiền
đề cho nhau tồn tại và làm nên bản chất Nhà nước pháp quyền trong lịch sử nhân
loại. C. Mác, Ph. Ăng – ghen và V.I. Lê – nin đánh giá cao giá trị nhân văn của học
thuyết Nhà nước pháp quyền mà cách mạng tư sản đã cống hiến cho nhân loại.
Ở nước ta để đảm bảo phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy
mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh thì một trong những vấn đề chiến
lược đặt ra là xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa của dân, do dân và
vì dân do Đảng lãnh đạo. Do vậy cần làm sáng tỏ bản chất, nội dung cũng như
những đặc trưng của nó, tạo thành hệ thống quan điểm lý luận định hướng cho việc
hoàn thiện Nhà nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hiện nay, Việt Nam có đủ điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội để từng bước xây
dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền Việt Nam của
dân, do dân và vì dân có sắc thái riêng, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội,

1



văn hóa và truyền thống của Việt Nam. Cần nhận thức được rằng việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam là một quá trình lâu dài, phải được tiến hành từng bước,
chia thành nhiều giai đoạn, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mỗi
giai đoạn tương ứng với mức độ phát triển của xã hội và Nhà nước. Việc đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội
Chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân có ý nghĩa hết sức quan trọng. Vì lẽ đó nên em
chọn đề tài: “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều
kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” làm
tiểu luận mơn học. Do khả năng của bản thân có hạn, tiểu luận chăc khơng tránh khỏi
những thiếu sót. Kính mong Thầy , cơ giáo góp ý bổ sung để tiểu luận được hồn thiện
hơn. Em xin chân thành cảm ơn.

2


PHẦN NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI
NHÀ NƯỚC.
1. Đảng cảm quyền và sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Từ khi ra đời từ năm 1930 cho đến nay, Đảng ta, trên thực tế đã trờ thành lực
lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng nước ta. Mọi thắng lợi của của cách mạng
nước ta trong 80 năm qua luôn gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng. Nhân dân ta
suy tơn Đảng là người lãnh đạo của mình. Đảng ta! Đảng của chúng ta! Bởi nhân
dân thấy rõ chỉ có Đảng mới có thể lãnh đạo nhân dân xây dựng cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc. Đảng khơng có lợi ích nào khác ngồi lợi ích của nhân dân và
mục đích, lý tưởng cũng là mục đích, nguyện vọng của nhân dân.
Tuy nhiên, phải từ sau cách mạng Tháng Tám năm 1945 trở đi, Đảng ta mới
trờ thành “Đảng cầm quyền, tức Đảng nắm quyền, chấp chính”. Và chỉ sau khi
thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ thắng lợi, thống nhất đất
nước, Đảng ta mới trở thành Đảng cầm quyền trên phạm vi cả nước, đưa đất nước

đi lên Chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng ta là một Đảng
cầm quyền”.
“Đảng cầm quyền” đánh dấu sự chuyển biến giai đoạn cách mạng ở nước ta
và cũng đặt ra hàng loạt vấn đề mới, yêu cầu mới đối với Đảng xét về quy mơ, tầm
vóc, chiều sâu, tính phức tạp của vấn đề. “Đảng cầm quyền” đánh dấu sự thay đổi
về chất trong vị trí, vai trị của Đảng, nhất là trong phương thức lãnh đạo của Đảng
và trọng trách của Đảng trước vận mệnh của dân tộc, của nhân dân, trước tồn xã
hội. “Đảng cầm quyền” tức là chính quyền thuộc về nhân dân và chính quyền chịu
sự lãnh đạo của Đảng – nhân dân lao động do Đảng làm đại biểu đã có một cơng
cụ quyền lực mạnh mẽ là Nhà nước để trấn áp kẻ thù và tổ chức xây dựng xã hội
mới. Thông qua sự cầm quyền, Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với tồn
xã hội và trên quy mơ tồn xã hội, chịu trách nhiệm trước tồn xã hội. Điều đó có
nghĩa là mọi thành công hay thất bại, ưu điểm hay khuyết điểm trong quá trình xây
dựng và bảo vệ tổ quốc đều gắn với trách nhiệm của Đảng.
3


“Đảng cầm quyền” có nghĩa nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng phải
thay đổi căn bản sơ với khi giành được chính quyền. Đảng phải thực sự coi trọng
và tơn trọng chính quyền Nhà nước. Đảng khơng được bao biện, làm thay chính
quyền. Đảng phải hoạt động trong khn khổ hiến pháp và pháp luật. Mọi đảng
viên và tổ chức Đảng phải tuân thủ pháp luật – pháp luật là thể hiện ý chí của
Đảng, song sau khi ra đời, pháp luật ràng buộc trở lại hoạt động của đảng viên và
tổ chức Đảng, không cho phép chấp hành một cách tùy tiện.
Khi trở thành Đảng cầm quyền, vấn đề dân chủ và cơng khai nổi lên và có ý
nghĩa quan trọng trong hoạt động của Đảng, đòi hỏi Đảng phải không ngừng mở
rộng và phát huy dân chủ trong nội bộ và trong toàn xã hội, tăng cường tính cơng
khai, minh bạch trọng sự lãnh đạo của mình.
Để lãnh đạo được xã hội và Nhà nước, Đảng phải có đủ năng lực, trí tuệ và
phẩm chất, ban lĩnh để hoạch định đường lối đúng cho toàn xã hội, có khả năng thể

chế hóa đường lối và thực hiện đường lối đó. Khi cầm quyền, Đảng phải tích cực
chống nguy cơ quan liêu và xa dời quần chúng, thoái hóa biến chất, đặc quyền đặc lợi,
cắt đứt mối liên hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân – nguồn sức mạnh của Đảng.
Khái niệm “Đảng cầm quyền” không loại trừ khái niệm Đảng lãnh đạo chính
quyền mà trái lại, cịn bao hàm nó. Khơng lãnh đạo chính quyền thì Đảng khơng
thể cầm quyền được. Nhờ có cầm quyền, nên ý nguyện, đường lối, chủ trương của
Đảng mới được thể chế hóa thành pháp luật và qua đó chúng mang tính pháp lý đối
với mọi cơng dân trong xã hội. Mặt khác, Điều 4 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi
năm 2001) khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước
và xã hội”. Như vậy, bản thân sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước cũng mang
tính pháp lý, trở thành nguyên tắc hiến định. Và do đó, nếu ai phủ nhân sự lãnh đạo
của Đảng cũng có nghĩa là vi phạm Hiến pháp và pháp luật.
Là một tổ chức chính trị nằm trong hệ thống chính trị, hơn nữa lại là “hạt
nhân” của hệ thống chính trị, nên Đảng cũng có quyền lực chính trị, nhưng Đảng
khơng có quyền lực Nhà nước. Đảng khơng phải cơ quan quyền lực Nhà nước. Do
4


đó, nhất thiết khơng được lẫn lộn giữa Đảng và Nhà nước, giữa quyền lực của
Đảng với quyền lực của Nhà nước. Sự khác nhau giữa quyền lực của Đảng với
quyền lực của Nhà nước chủ yếu bắt nguồn từ sự khác nhau về bản chất và chức
năng giữa Đảng và Nhà nước. Đảng là lực lượng lãnh đạo xã hội, Nhà nước là bộ
máy thống trị, quản lý xã hội. Do đó, quyền lực của Đảng chủ yếu dựa trên quyền
uy do uy tín mang lại, cịn quyền lực Nhà nước chủ yếu dựa trên pháp luật, bộ máy
cưỡng chế chuyên biệt, bộ máy công quyền.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, làm sao cho Đảng khơng rơi vào tình
trạng lạm quyền, bao biện, làm thay các công việc của Nhà nước, trái lại, phải phát
huy hiệu quả, hiệu lực, vai trò quản lý xã hội của Nhà nước. Mặt khác khơng được
hạ thấp, bng lỏng vai trị lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đây cũng là vấn
đề khó khăn, phức tạp mà kinh nghiệm của chủ nghĩa xã hội trên thế giới vừa qua

chưa đủ để giải quyết, cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về lý luận và thực tiễn,
về đổi mới hệ thống chính trị, về xây dựng Đảng và xây dựng, hoàn thiện
Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa; trong đó, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội
Chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân là một phương hướng rất cơ bản.
2. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo và nguyên tắc Nhà nước pháp quyền
Xã hội Chủ nghĩa.
Trong lịch sử nhân loại, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền có từ rất lâu, ra
đời sớm trong các học thuyết triết học, pháp luật của các nhà tư tưởng Hy Lạp, La
Mã cổ đại như: Pla – tông, A – ri – stốt… Nhưng phải đến thời kỳ cách mạng tư
sản thế kỷ XVII – XIX ở Tây Âu, vấn đề về Nhà nước pháp quyền mới được đi sâu
nghiên cứu trong các học thuyết triết học, pháp luật, Nhà nước của các nhà tư
tưởng tư sản như: G. Lốc – cơ, S.L Mông – Te – xki – ơ, J.J Rút – xô, E. Can – tơ,
Ph. Hê – ghen… nhằm phục vụ cho việc hình thành, xây dựng Nhà nước pháp
quyền tư sản. Từ đó đến nay, lý luận về Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa đã
được quan tâm nghiên cứu, phát triển cùng với sự pháp triển và tiến bộ xã hội, nó
là thành quả của văn minh nhân loại.
5


Ở các nước Xã hội Chủ nghĩa, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền mới
được đặt ra trong thời kỳ cải tổ, cải cách, đổi mới. Sở dĩ trước đó khơng đặt ra vì
đồng nhất vấn đề Nhà nước pháp quyền với Nhà nước tư sản, cho rằng Nhà nước
pháp quyền chính là Nhà nước pháp quyền tư sản; mặt khác, do đem đối lập vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền (trong đó có một nguyên tắc tối
thượng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là vai trò tối thượng của pháp luật).
Ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập rất sớm tư tưởng về “phải có
thần linh pháp quyền” trong bài “Việt Nam yêu cầu ca”. Tuy nhiên trong các văn
kiện của Đảng từ khi giành được chính quyền đến Đại hội VII (1991), vấn đề xây
dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa vẫn chưa được chính thức đặt ra. Sở
dĩ như vậy vì thời kỳ đó chúng ta chưa đi sâu nghiên cứu vấn đề Nhà nước pháp

quyền, mặt khác chúng ta bị ảnh hưởng bởi nhận thức sai lầm về Nhà nước pháp
quyền của các nước Xã hội Chủ nghĩa anh em thời bấy giờ. Phải đến giữa nhiệm
kỳ khóa VII, Đảng ta mới chính thức đưa vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền
Xã hội Chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân vào văn kiện. Tuy nhiên sau đó, Nghị
quyết Trung ương 8, khóa (VII) về xây dựng Nhà nước cũng như trong văn kiện
Đại hội VIII, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền được đề cập không nhiều.
Phải đến Đại hội lần thứ IX của Đảng, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã
hội Chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân mới được khẳng định trong văn kiện, trở
thành một quan điểm chỉ đạo trong xây dựng Nhà nước ta và sau đó được đưa vào
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001).
Có tình hình trên vì trong nhận thức của cán bộ, đảng viên còn chưa rõ, chưa
thống nhất về bản chất, đặc trưng, nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền Xã hội
Chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, về mối quan hệ giữa vai trò lãnh đạo của
Đảng với yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa. Từ đó đã đem đối
lập vai trị lãnh đạo của Đảng với Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa và cho
rằng, nếu chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa vơ hình
chung sẽ hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, đặt Đảng dưới pháp luật.

6


Theo chúng tơi, nhận thức đó khơng đúng. Một đặc trưng chung và cơ bản
của Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa là Nhà nước và công dân đều phải
thừa nhận tính tối thượng của pháp luật (chủ yếu là Hiến pháp và các đạo luật).
Đảng và cán bộ, đảng viên phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật. Song pháp luật ở nước ta là thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, là thể chế hóa
chủ trương, đường lối của Đảng cầm quyền, là phản ánh ý nguyện của nhân dân.
Vì vậy, đề cao pháp luật cũng có nghĩa là đề cao quan điểm, đường lối, chủ trương,
quan điểm của Đảng. Ở đây không có sự đối lập nào giữa pháp luật với sự lãnh đạo
của Đảng (trên thực tế, ở một số trường hợp cụ thể, có thể nảy sinh vấn đề cần giải

quyết khi pháp luật không kịp thay đổi theo quan điểm của Đảng). Mặt khác, bản
thân Đảng cũng yêu cầu cán bộ, đảng viên phải hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật, chấp hành pháp luật cũng có nghĩa là chấp hành chủ
trương, đường lối lãnh đạo của Đảng. Do đó, khi nói rằng xây dựng Nhà nước
pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa thì ở đó đã bao hàm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
đối với Nhà nước pháp quyền. Đây cũng là đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp
quyền Xã hội Chủ nghĩa.
II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM VỀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI VIỆC
XÂY DỰNG HỆ THỐNG TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC.
Từ khi cầm quyền, đặc biệt là khi tiến hành lãnh đạo công cuộc đổi mới,
Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng chăm lo, xây dựng, củng cố và hoàn thiện
hệ thống bộ máy, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, và thực tế
đã đạt được những thành tựu quan trọng. Thành tựu đó thể hiện sự phát triển,
trưởng thành của Nhà nước ta trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý và tổ
chức thực tiễn, đồng thời cũng đánh dấu sự phát triển của tiến trình đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã quyết định đổi mới đường lối phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong đó có nội dung quan trọng là đổi mới
7


phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; xác định rõ hơn chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước trong điều kiện đổi mới cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý.
Đó là các nhiệm vụ: thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật,
chính sách cụ thể của Nhà nước; xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và
cụ thể hóa những chiến lược đó thành những kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội;
quản lý hành chính – xã hội và hành chính kinh tế; điều hành các hoạt động kinh tế
- xã hội của toàn xã hội theo kế hoạch, giữ vững pháp luật, kỷ cương của Nhà nước
và trật tự xã hội; giữ vững quốc phòng và an ninh, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch

của Nhà nước, phát hiện những mất cân đối và đề ra những biện pháp khắc phục;
thực hiện cơ chế làm việc khoa học, có hiệu xuất cao, xây dựng bộ máy gọn nhẹ,
có chất lượng với đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị, năng lực quản lý Nhà
nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
Đại hội lần thứ VII (6/1991) của Đảng đã thông qua Cương lĩnh phát triển
đất nước thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, trong đó nêu rõ sự cần thiết phải sửa
đổi lại hệ thống tổ chức Nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện tồn các cơ
quan pháp luật để thực hiện tốt chức năng quản lý của Nhà nước. “Tổ chức và hoạt
động của bộ máy quản lý Nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất
quyền lực, có sự phân cơng, phân cấp, đồng thời đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất
của Trung ương”. “Nhà nước Việt Nam thống nhất 3 quyền: lập pháp, hành pháp
và tư pháp, đồng thời phân định ràng mạch 3 quyền đó”. Đại hội VII cũng chủ
trương cải tiến hoạt động của Quốc hội và HĐND, sửa đổi cơ cấu, tổ chức và
phương hoạt động của Chính phủ, đứng đầu bộ, ngành trong quản lý và điều hành.
Tăng cường hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật Đổi mới tổ chức và hoạt
động của Viện Kiểm sát nhân dân và Tịa án Nhân dân các cấp.
Theo đó, Nghị quyết hội nghị Trung ương 2 (khóa VII) nhấn mạnh: “Đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng với Nhà nước là điều kiện quan trọng nhất để đổi mới tổ
chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, làm cho sự lãnh đạo của Đảng có chất
lượng và hiệu quả hơn, đồng thời làm cho sự quản lý và điều hành của Nhà nước

8


có hiệu quả, pháp luật được tơn trọng, quyền làm chủ của nhân dân được phát
huy”. Đảng lãnh đạo Nhà nước chứ khơng làm thay Nhà nước, do đó cần phải làm
rõ chức năng, nhiệm vụ và giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước.
Thực hiện quan điểm chỉ đạo đó, ngày 15/4/1992, Quốc hội khóa VIII đã
thơng qua Hiến pháp năm 1992, trong đó có quy định những vấn đề cơ bản nhất về
tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước: Quốc hội, Chính phủ, Chủ tịch nước,

Tòa án Nhân dân, Viện Kiểm sát Nhân dân.
Nghị quyết hội nghị Trung ương 8 (khóa VII) tháng 01/1995 chủ trương tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng
tâm là cải cách một bước nền hành chính quốc gia. “Tăng cường pháp chế Xã hội
Chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp
luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức Xã hội Chủ nghĩa”.
Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII), tháng 6/1997 đã khẳng định những
thành tựu quan trọng về xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa và
những đổi mới trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, để vừa
đảm bảo tưang cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy trách nhiệm, tính
chủ động của các cơ quan Nhà nước. Tuy nhiên, trước thực trạng Nhà nước còn
cồng kềnh và chưa thực sự minh bạch, vững mạnh, sự lãnh đạo của Đảng chưa đáp
ứng được yêu cầu của quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Nghị
quyết đã đề ra yêu cầu là cần nắm vững và thực hiện tốt ba nội dung trọng yếu về
sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, đó là:
- Lãnh đạo các cơ quan Nhà nước kịp thời thể chế hóa đường lối của Đảng
thành pháp luật.
- Tăng cường quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên trong bộ máy Nhà nước;
xây dựng đội ngũ cán bộ công chức trong sạch, vững mạnh, thực sự vừa là người
lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
- Tăng cường kiểm tra các tổ chức Đảng và đảng viên trong việc thực hiện
các Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

9


- Nghị quyết hội nghị Trung ương 7 (khóa VIII) chủ trương tiếp tục hoàn
thiện bộ máy Nhà nước trong tổng thể hệ thống chính trị, coi cải cách bộ máy hành
chính là nhiệm vụ thường xun, ứng dụng cơng nghệ thơng tin vào cơng tác cải
cách hành chính.

Kết quả là đã giảm dần sự can thiệp trực tiếp của các cơ quan Đảng đối với
hoạt động của Nhà nước; khắc phục phong cách hoạt động theo kiểu quan liêu,
nặng về mệnh lệnh hành chính, xem nhẹ sự thuyết phục, giáo dục, nêu gương,
kiểm tra của tổ chức Đảng; cán bộ Đảng bị cơng chức hóa… Từng bước quy chế
hóa sự lãnh đạo của các cơ quan Đảng đối với các cơ quan Nhà nước tương ứng;
từng bước dân chủ hóa mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước. Nêu cao vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước bằng việc đưa ra Cương lĩnh chính trị, đường lối
chiến lược, chủ trương và chính sách lớn về chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng,
an ninh… Chú trọng việc kiện toàn các tổ chức Đảng và giáo dục, rèn luyện đảng
viên trong các cơ quan Nhà nước… Đồng thời, phía Nhà nước cũng phải hạn chế
dần, tiến tới khắc phục tình trạng quản lý sơ cứng, thụ động, ỷ lại vào các cơ quan
lãnh đạo của Đảng. Các tổ chức trong hệ thống các cơ quan Nhà nước đã được
củng cố, kiện toàn cần thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của mình.
Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định việc đổi mới nội dung, phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước: “Đảng` lãnh đạo Nhà nước thông qua
việc đề ra chủ trương, đường lối và các chính sách lớn, định hướng cho sự phát
triển và kiểm tra việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến
pháp, pháp luật của Nhà nước…”.
Việc khẳng định Nhà nước là Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng (Văn kiện Đại hội IX của Đảng
và Điều 2 Hiến pháp năm 1992) đã thể hiện bước phát triển mới về quan điểm
chính trị của Đảng ta. Đồng thời cũng là sự đổi mới trong quan hệ giữa Đảng và
Nhà nước nói chung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống tổ chức
bộ máy Nhà nước nói riêng. Nó đặt ra nhiều vấn đề cần hồn chỉnh cả về phía
Đảng và phía Nhà nước.
10


Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ X khẳng định: “Khân
trương xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy định cụ thể về nguyên tắc, nội

dung và cơ chế Đảng lãnh đạo Nhà nước trong từng lĩnh vực: lập pháp, hành pháp,
tư pháp và từng loại, từng cấp tổ chức Nhà nước”.
Ngày 30/7/2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết
số 15 – NQ/TW về “Tiếp tục đối mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt
động của hệ thống chính trị”, trong đó nêu quan điểm chỉ đạo: “đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với chính trị phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi
mới, chỉnh đốn Đảng, tiến hành đồng bộ với đổi mới kinh tế, xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng Xã hội Chủ nghĩa…”.
Đó là sự đổi mới cần thiết nhằm tiếp tục phát triển và hoàn thiện phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam.
III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN,
ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC.
1. Tiếp tục nghiên cứu những vấn đề có tính chất lý luận về mối quan hệ
giữa Đảng và Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội
Chủ nghĩa.
Một là, tiếp tục đổi mới nhận thức về Đảng và Nhà nước: Đảng ta là Đảng cầm
quyền, là lực lượng lãnh đạo xã hội nhưng không phải là cơ quan quyền lực Nhà
nước, quyền lực của Đảng khác quyền lực Nhà nước.
Sự khác nhau đó được quy định bởi sự khác biệt về chức năng, nhệm vụ,
phưng thức và phương pháp hoạt động giữa Đảng và Nhà nước, giữa Đảng và các tổ
chức đoàn thể, chính trị - xã hội khác. Nếu khơng phân biệt sự khác biệt đó một
cách rõ ràng, thấu đáo và đặc biệt là không kiên quyết, mạnh dạn đổi mới từ nhận
thức sang đổi mới tổ chức và hoạt động của Đảng và Nhà nước thì khơng thể tránh
khỏi tình trạng đã từng xảy ra là “Nhà nước hóa Đảng” và “Hình thức hóa Nhà
11


nước”, làm cho Đảng hành chính hóa, quan liêu hóa kiểu Nhà nước và Nhà nước

thì khơng có thực quyền, vừa thụ động, vừa trì trệ, xơ cứng trong quản lý.
Thước đo hiệu quả lãnh đạo của Đảng phải thể hiện ở sức mạnh, hiệu lực, hiệu quả
quản lý thực tế của Nhà nước. Để quản lý, Nhà nước buộc phải dùng đến sức mạnh
của tổ chức và hành chính cũng như sức mạnh cưỡng chế của pháp luật.
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, Nghị quyết, bằng công tác tổ chức
cán bộ và kiêm tra việc Nhà nước thực hiện việc chấp hành đường lối, Nghị quyết
như thế nào, thông qua tổ chức Đảng trong các cơ quan Nhà nước và thông qua các
cơ quan chuyên trách của hệ thống tổ chức Đảng. Là lực lượng lãnh đạo chính trị,
Đảng quyết định những vấn đề chính trị thuộc về chiến lược phát triển, về đường
lối, chủ trương, quan điểm, nguyên tắc đối với tổ chức và hoạt động của Nhà nước
nhưng Nhà nước lại tổ chức quyền lực, thực thi vai trò, chức năng quản lý mọi mặt
của đời sống xã hội bằng pháp luật. Do đó, Đảng không can thiệp sâu vào hoạt
động quản lý của các cơ quan Nhà nước có tính chất đặc thù của khoa học quả lý;
Đảng cũng không thể lấn sâu, bao biện, làm thay những cơng việc của chính quyền
các cấp trong hệ thống quản lý hành chính… Điều đó chẳng những khơng hạ thấp
hay làm suy giảm vai trị lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước mà còn tăng thêm
sức mạnh bảo vệ và tự bảo vệ của Đảng, tránh cho Đảng rơi vào tình trạng độc
đốn, chun quyền, vi phạm pháp luật và vi phạm dân chủ.
Hai là: phân biệt rõ mục tiêu lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và mục
tiêu hoạt động của Nhà nước: Mục tiêu lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là
phát huy vai trò của Nhà nước trong việc thể chế hóa, thực hiện có hiệu quả các
quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, an ninh,
quốc phịng, đối ngoại. Mục tiêu quản lý của Nhà nước là biến tòa bộ các quan
điểm chỉ đạo của Đảng trên các phương diện tương ứng nói trên thành hiện thực.
Mục tiêu lãnh đạo của Đảng và mục tiêu quản lý của Nhà nước có nội dung
tương tự nhau, nhưng nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
và nội dung quản lý của Nhà nước nhằm đạt mục tiêu đó lại có nhiềm điểm khác
nhau. Điều đó được bộc lộ ở sự khác biệt giữa nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng với
nhiệm vụ của Nhà nước. Với tư cách là Đảng cầm quyền, Đảng đề ra những chủ
12



trương, đường lối có tính chiến lược và lãnh đạo việc tuyên truyền, cổ động quần
chúng thực hiện, đồng thời lãnh đạo các cơ quan Nhà nước thể chế hóa, tổ chức
thực hiện những quan điểm, chủ trương, đường lối đó, Đảng khơng trực tiếp giải
quyết các cơng việc của Nhà nước.
Nhà nước với quyền lực của mình có nhiệm vụ “bảo đảm và không ngừng
phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, nghiêm trị mọi hành động xâm
hại lợi ích của tổ quốc và của nhân dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện
công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển tồn diện”.
Ba là: hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng khác với hệ thống tổ chức bộ máy
của Nhà nước. Hiện nay, cả hai hệ thống này đều đang đứng trước yêu bức xúc cần
cần đổi mới theo hướng dân chủ, pháp quyền, trong sạch, vững mạnh, chống quan
liêu, tham nhũng có hiệu quả. Đảng đối mới cơ chế lãnh đạo của mình đối với
Nhà nước trên cơ sở tự chỉnh đốn Đảng, thực hiện dân chủ trong Đảng, “phải kiện
toàn tổ chức bộ máy của Đảng ở tất cả các cấp, từ Trung ương đến cơ sở” theo
hướng tinh gọn và tinh nhuệ, thể hiện thật rõ tính đặc thù của lãnh đạo chính trị. Sử
dụng những chuyên gia giỏi vào từng lĩnh vực được chun mơn hóa là một trong
những phương cách tốt nhất để khắc phục tình trạng “thừa” bộ máy mà “thiếu”
hoạt động như đã xảy ra.
Đòi hỏi bức xúc hiện nay đối với Nhà nước trên con đường tiến tới Nhà
nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa là hệ thống thống pháp luật đảm bảo đồng bộ,
cải cách hành chính để bộ máy Nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh, hiệu
lực và hiệu quả với một đội ngũ cán bộ, công chức được đào tạo bải bản, tinh
thông chuyên môn nghiệp vụ, tận tụy, mẫn cán, am hiểu và tơn trọng pháp luật, có
chế độ cơng vụ, kỷ luật và đạo đức công chức được đề cao.
Bốn là: Phương thức lãnh đạo của Đảng khác với phương thức quản lý của
Nhà nước; đào tạo và bố trí, sử dụng cán bộ của Đảng khác với đào tạo, bồi
dưỡng và bố trí, sử dụng cán bộ, cơng chức Nhà nước.

Để đảm bào thực hiện có hiệu quả phương thức lãnh đạo của Đảng cần đổi
mới tổ chức bộ máy Đảng và Nhà nước cùng đội ngũ cán bộ, công chức, nâng cao
13


mặt bằng dân trí, nhất là tri thức pháp luật; nâng cao vai trị của các cơ quan có
chức năng thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng, tổ chức thực hiện pháp
luật; nâng cao chất lượng của các ban Đảng có chức năng tư vấn trong việc lãnh
đạo hoạt động của Đảng đối với các cơ quan Nhà nước tương ứng.
Năm là: Đề cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên: Tiếp tục
xây dựng Đảng trong tình hình mới, nâng cao chất lượng lãnh đạo, chất lượng và
hiệu quả thực tế của các nghị quyết, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự là
đội ngũ tiên phong trong sự nghiệp đổi mới, mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự là
hạt nhân lãnh đạo, là tấm gương có sức lơi cuốn, tập hợp nhân dân trong tiến trình
thực hiện các mục tiêu của chính sách đổi mới kinh tế, cải cách hành chính, xây
dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa trong cải cách tư pháp, trong thực
hiện huy động sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân. Phát huy truyền thống người
đảng viên cộng sản đã đi đầu, hy sinh trong sự nghiệp cách mạng giành độc lập của
dân tộc trước đây, cũng vẫn và mãi mãi đi đầu trong mọi lĩnh vực của sự nghiệp
đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay.
Lãnh đạo chính trị của Đảng là lãnh đạo toàn diện ở tầm quan điểm, đường
lối, nguyên tắc, phương hướng, chủ trương lớn, những vấn đề nhạy cảm, do đó, nó
địi hỏi trình độ khoa học, tư tưởng, trí tuệ cao, nhạy bén, sâu sắc, ln theo kịp
trình độ thời đại.
2. Yêu cầu thể chế hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
và việc xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa, những
quan hệ cơ bản, nhất là quan hệ giữa lãnh đạo và quản lý phải được thể chế hóa, cả
về quyền hạn và trách nhiệm. Đảng vừa là một bộ phận cấu thành của hệ thống

chính trị, vừa lãnh đạo hệ thống đó. Đảng vừa là người lãnh đạo xây dựng Hiến
pháp và hệ thống pháp luật, nhưng cũng là một tổ chức chính trị, một bộ phận hữu
cơ của xã hội; do đó, trong tổ chức và hoạt động của mình, Đảng phải tuân thủ
đúng pháp luật, đảng viên và các tổ chức Đảng không được đứng trên pháp luật.

14


Mặt khác trên phương diện pháp lý, có thể nói, trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền, mọi Nghị quyết của Đảng chỉ có giá trị bắt buộc đối với
đảng viên và tổ chức Đảng tương ứng, muốn Nghị quyết quyết đó được thực hiện
bằng sức mạnh tồn dân, chúng phải được thể chế hóa thành pháp luật hay quy
định, quy chế… của các cơ quan Nhà nước. Nói cách khác, trong quản lý xã hội,
pháp luật phải được giữ vị trí tối thượng, việc quản lý Nhà nước đơn thuần bằng
Nghị quyết phải được khắc phục triệt để.
Nhu cầu thể chế hóa phưng thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói
chung và hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước nói riêng xuất phát từ địi hỏi khách
quan của nền kinh tế thị trường, xã hội công dân ngày càng phát triển, tổ chức và
hoạt động của bộ máy Nhà nước ngày càng trở nên chuyên nghiệp, hiện đại, nhu
cầu dân chủ hóa đời sống xã hội ngày càng cao… Thể chế hóa vai trị và phương
thức lãnh đạo của Đảng cịn có ý nghĩa đề cao trách nhiệm của Đảng bằng pháp
luật trước nhân dân.
Nhưng hiện nay, trong Hiến pháp mới chỉ ghi nhận vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước và xã hội nói chung (Điều 4). Do đó, các quan điểm chỉ
đạo cơ bản của Đảng về tổ chức bộ máy, nội dung và mục tiêu căn bản trong hoạt
động của Nhà nước cần phải được thể chế hóa , cơng khai hóa và triển khai thực
hiện bằng Nhà nước theo hệ chuẩn pháp luật đã xác định. Hệ thống quy phạm đó
phải xác định rõ phạm vi, thẩm quyền và trách nhiệm…. lãnh đạo của Đảng, nhiệm
vụ của Nhà nước trong quan hệ với chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng.
Thế chế hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước cần được cụ

thể hóa cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, cơ chế vận hành của từng loại cơ
quan trong bộ máy lập pháp, hành pháp, tư pháp, thích hợp với từng lĩnh vực và
từng cấp hành chính. Ở đây, trước hết từ các nguyên tắc Hiến pháp, hiến định cần
xác định rõ vai trò và phương thức lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành
Trung ương đối với Quốc hội trong công tác tổ chức bộ máy Nhà nước và việc
thực hiện các chức năng lập hiến, lập pháp, giám sát tối cao, quyết định những vấn
15


đề quan trọng của đất nước, đồng thời cần tính đến khả năng ban hành đạo luật chi
tiết về vai trò và phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đối với chính quyền các cấp.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng hệ thống tổ
chức bộ máy Nhà nước nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và phát huy
hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là vấn đề
hệ trọng, lớn và khó. Việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn trong quá trình cải cách,
đổi mới để bổ sung, hoàn thiện hơn nữa cả nhận thức lý luận và tổ chức thực hiện
những quan điểm đó chắc chắn sẽ mang lại cho Đảng và Nhà nước ta những năng
lực mới, ngang tầm với nhiệm vụ trong giai đoạn đổi mới hiện nay.
IV. NỘI DUNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM.
Sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện trên 3 bình diện: Nội dung lãnh đạo,
phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc và tác phong cơng tác. Ba điểm trên đây có
mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó phương thức lãnh đạo có vai trị hết sức
quan trọng, quyết định đến hiệu quả lãnh đạo.
Từ khi đổi mới đến nay, Đảng luôn quan tâm đến vấn đề phương thức và đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Trong các Nghị quyết từ Đại hội toàn quốc từ
lần thứ VI đến lần thứ IX của Đảng đều khẳng định yêu cầu đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng. Văn kiện Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “Tăng cường vai trò lãnh
đạo và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng
lãnh đạo Nhà nước thông qua việc đề ra đường lối, chủ trương, các chính sách lớn

định hướng sự phát triển và kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng và Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Ban Chấp hành Trung ương, tập thể
cấp ủy, Ban Cán sự Đảng, Đảng đoàn thảo luận dân chủ, biểu quyết và ra Nghị
quyết theo đa số những vấn đề quan trọng về đường lối, chủ trương, chính sách, về
tổ chức cán bộ. Tăng cường lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tinh thần chủ
động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân”.

16


Trong những năm đổi mới, trên cơ sở đổi mới tư duy và cũng là đổi mới về
kinh tế, hệ thống chính trị, văn hóa, xã hội, phương thức lãnh đạo của Đảng cũng
được đổi mới, có những bươc tiến, khác xa so với thời kỳ chiến tranh và thời kỳ
tập trung bao cấp. Bước tiến về đổi mới trong phương thức lãnh đạo thể hiện ở chỗ:
- Đảng và các cấp ủy Đảng ngày càng coi trọng và quan tâm đến đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng – một yêu cầu cơ bản và cấp bách của đổi mới,
chỉnh đốn Đảng cho phù hợp với tình hình đã thay đổi.
- Đảng ngày càng xác định rõ hơn nội dung của phương thức lãnh đạo và các
“kênh”, các con đường đổi mới phương thức lãnh đạo. Cương lĩnh Chính trị được
thông qua tại Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đã chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo xã hội
bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công
tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra bằng hành
động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ
phẩm chất và năng lực vào cơng tác trong các cơ quan chính quyền và đồn thể.
Đảng khơng làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”.
“Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng
liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
- Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với xã hội được đổi mới theo hướng
ngày càng mở rộng dân chủ và công khai; các phương tiện thông tin đại chúng

ngày càng phát huy vai trò tuyên truyền và giáo dục, thuyết phục nhân dân và vai
trò người phản biện đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Đảng và các tổ chức Đảng ngày càng coi trọng và tơn trọng vai trị cả các
cơ quan Nhà nước như Quốc hội, Chính phủ, Viện Kiểm sát Nhân dân, Tòa án
Nhân dân, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp. Vai trò của các cơ quan
Nhà nước ngày càng được phát huy, đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động,
tính chủ động, hiệu lực, hiệu quả ngày càng được nâng cao. Ngày càng phân định
rõ hơn chức năng của các tổ chức Đảng và các cơ quan Nhà nước, nhất là ở Trung
ương, giảm bớt sự chồng chéo, “lấn sân” của nhau.
17


- Đảng đã bố trí cán bộ, đảng viên của mình giữ những vị trí chủ chốt trong
chính quyền các cấp, nhờ đó giữ vững sự lãnh đạo tồn diện và tuyệt đối của Đảng
đối với hệ thống chính trị.
- Ngày càng xác định rõ hơn nội dung, phạm vi lãnh đạo, mối quan hệ lãnh
đạo của cấp ủy với Nhà nước. nhất là ở Trung ương. Đã xây dựng được quy chế
làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy các cấp, cũng như xây dựng được
chương trình cơng tác của cấp ủy tồn khóa, hằng năm.
Thơng qua đó xử lý đúng đắn hơn, rành mạch hơn (nhưng khơng cứng nhắc,
máy móc) mối quan hệ giữa Đảng và chính quyền, giữa các cơ quan Đảng và cơ
quan chính quyền, giúp cho cấp ủy tập trung chí tuệ và sức lực lãnh đạo những vấn
đề lớn và quan trọng.
- Quá trình xây dựng và ban hành Nhà nước của Đảng đã được cải tiến (chú
ý hơn đến công tác tham mưu, tư vấn sử dụng chuyên gia, làm thí điểm), việc phổ
biến nghị quyết cũng giảm bớt tính hình thức, tăng tính thiết thực, ngắn gọn, gắn
với chương trình hành động.
Tuy có những bước tiến quan trọng trên đây song những đổi mới về phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu của tình hình, yêu cầu cần đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng

Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa. Trên vấn đề này vẫn còn bộc lộ nhiều hạn
chế, vướng mắc làm hạn chế cả vai trò lãnh đạo của Đảng lẫn hiệu lực quản lý của
Nhà nước và vai trị làm chủ của nhân dân. Vẫn cịn tình trạng Đảng bao biện, làm
thay việc của chính quyền, cơ quan Đảng chạy theo những việc sự vụ, “buông cái
to, nắm cái nhỏ”, can thiệp quá sâu vào công việc của chính quyền. Vẫn cịn tình
trạng cơ quan chính quyền thụ động, ỷ lại vào cấp ủy, né tránh, không dám chịu
trách nhiệm hoặc đẩy các công việc thuộc thẩm quyền mình giải quyết sang cho
cấp ủy; vẫn cịn tình trạng cấp trên không dám mạnh dạn phân cấp cho cấp dưới
những công việc thuộc thẩm quyền giải quyết của họ nên cấp trên khơng có thời
gian để nghiên cứu những vấn đề lớn, quan trọng, có tầm chiến lược. Bên cạnh đó,
18


vẫn cịn tình trạng cấp ủy bng lỏng lãnh đạo chính quyền, khơng phát huy được
vai trị lãnh đạo, thậm chí bị các cơ quan chính quyền lấn sân…
Thực tế đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước, và theo tinh thần Nhà nước Trung ương 9 (khóa IX): “tiếp
tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm tránh hai khuynh hướng: hoặc
buông lỏng sự lãnh đạo, hoặc bao biện, làm thay, nhất là phương thức Đảng lãnh
đạo Nhà nước”.
Để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, cần
tập trung giải quyết tốt một số vấn đề sau:
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về phương
thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội
Chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Cần
nghiên cứu sâu hơn, có hệ thống và tồn diện hơn vấn đề đổi mới hệ thống chính
trị ở nước ta trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
hội nhập kinh tế quốc tế, xác định rõ mơ hình hệ thống chính trị ở nước ta làm cơ
sở cho đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
- Tiếp tục thực hiện việc kiện tồn tổ chức theo Nghị quyết Trung ương 7

(khóa VIII), tiếp tục xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức Đảng
và tổ chức chính quyền, tránh chồng chéo. Nâng cao vai trị cơng tác tham mưu của
ban Đảng các cấp. Tiếp tục làm rõ vai trò Ban Cán sự Đảng của bộ, mối quan hệ
giữa Ban Cán sự Đảng của bộ và của Tổng Công ty với Ban Cán sự Đảng Chính
phủ, Ban Bí thư.
- Bổ sung, hoàn thiện các quy chế về sự lãnh đạo của Ban Chấp hành,
Ban Bí thư, Bộ Chính trị đối với Quốc hội, Chính phủ, sự lãnh đạo của tổ chức
Đảng đối với cơ quan chính quyền cùng cấp. Cần cụ thể hóa và bổ sung một số
quy định về quan hệ và lề lối làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư với Đảng đồn
Quốc hội, Ban Cán sự Đảng trong Chính phủ trong lãnh đạo cơng tác an ninh, quốc
phòng, đối ngoại và tổ chức cán bộ…
19


- Cần cụ thể hóa nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và
quản lý đội ngũ cán bộ sao cho vừa giữ vững nguyên tắc này, vừa đảm bảo quyền
hạn và trách nhiệm pháp lý của người đứng đầu các tổ chức chính quyền. Cần có
quy chế về trách nhiệm và thẩm quyền của người đứng đầu tổ chức về công tác
cán bộ.
- Tăng cường công tác kiểm tra, nâng cao hiệu quả và chất lượng kiểm tra,
nhất là thường xuyên kiểm tra để phục vụ sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời kịp thời
phát hiện và sử lý nghiêm minh các vụ việc tiêu cực, tham nhũng, vi phạm
nguyên tắc…
- Tiếp tục mở rộng và phát huy dân chủ, trước hết là dân chủ trong nội bộ
Đảng cho đến dân chủ trong toàn xã hội; đẩy mạnh việc thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở, xây dựng và thực hiện các quy chế, cơ chế dân chủ, mở rộng dân chủ
trong hoạt động của Quốc hội và HĐND các cấp, cơ chế nhân dân tham gia giám
sát Đảng và chính quyền.
Tích cực đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy, hoàn thiện quy trình
xây dựng, ra Nhà nước và triển khai thực hiện Nhà nước; tăng cường chế độ làm

việc có tình khoa học, theo quy chế, chương trình, kế hoạch; cán bộ lãnh đạo cần
sâu sát quần chúng, cơ sở, coi trọng cơng tác tổng kết thực tiễn, coi trọng tính thiết
thực, hiệu quả, tránh bệnh hình thức, bệnh thành tích trong công tác.

20


KẾT LUẬN
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ
nghĩa là các phương pháp, các hình thức, các biện pháp mà Đảng tác động và Nhà
nước để hiện thực hóa ý chí và các mục tiêu của Đảng. Về nguyên tắc, mục tiêu
cao nhất của Đảng lãnh đạo Nhà nước là để tăng cường bản chất giai cấp công
nhân của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý của Nhà nước trong quá trình xây dựng xã hội mới, góp phần làm cho
mục tiêu của cả sự nghiệp cách mạng nói chung và mục tiêu của từng thời kỳ nói
riêng được thực hiện hiệu quả. Theo đó, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước được quy định bởi đặc tính khách quan và chức năng cơ bản của hệ
thống tổ chức Nhà nước và tính chất lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Nội
dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phản ảnh mối quan hệ
giữa mục tiêu và phương tiện, điều kiện đạt được mục tiêu, hay nói rộng ra, đó là
chức năng của hệ thống và cơ chế thực hiện.
Kinh nghiệm chỉ rõ rằng, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động
của Bộ máy Nhà nước và toàn xã hội là một trong những phương diện quan trọng
trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước nói chung.
Ở nước ta, yêu cầu giải quyết mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước nói
chung được đặt ra từ khi Đảng ta giành chính quyền và trở thành Đảng cầm quyền.
Về vấn đề này, từ năm 1992 Lê – nin đã phát hiện “những quan hệ không đúng”
giữa Đảng và các cơ quan Xô - viết và thừa nhận “sửa chữa được hiện tượng đó là
việc rất khó vì ở nước ta chỉ có một Đảng cầm quyền duy nhất đang lãnh đạo”.
Người đề nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng “cần phân định một cách rõ ràng

hơn nữa những nhiệm vụ của Đảng (và của Ban Chấp hành Trung ương của nó)
với nhiệm vụ của chính quyền Xơ – viết; tăng thêm trách nhiệm và tính chủ động
cho các cán bộ Xơ – viết và các cơ quan Xơ – viết; … cịn về Đảng thì dành quyền
lãnh đạo chung cơng tác của tất cả các cơ quan Nhà nước chung gộp lại mà không

21


can thiệp một cách q thường xun, khơng chính quy và thường là nhỏ nhặt, như
hiện nay”.
Phân biệt sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, quyền lực của
Đảng và của Nhà nước chỉ mang tính tương đối. Sự lãnh đạo của Đảng và sự quản
lý của Nhà nước là thống nhất nhưng không đồng nhất. Tuyệt đối hóa sự thống
nhất có thể làm lẫn lộn vai trò, chức năng của Đảng và Nhà nước. Tuyệt đối hóa sự
khác biệt có thể làm cơ lập vai trò lãnh đạo của Đảng với Nhà nước. Đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền Xã hội Chủ nghĩa là nhằm tăng cường và tiếp tục đổi mới vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước nhằm giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Nhà
nước, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân, đưa công cuộc đổi mới của Đảng
đi đúng định hướng Xã hội Chủ nghĩa.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh tồn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2002,
Tập 1
2. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1996.
3. Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia,

Hà Nội, 2001.
4. Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ X, XI, Nxb Chính trị Quốc
gia.
5. Văn kiện hội nghị lần thứ 9, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
6. Văn kiện hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về
đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, định hướng về đổi mới tổ
chức bộ máy Nhà nước, MTTQ, đồn thể và các tổ chức chính trị - xã hội.
7. Văn kiện hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về
tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống
chính trị.

23



×