Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Giáo trình Triết học Mác - Lênin (Tập 2: Chủ nghĩa duy vật lịch sử): Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (990.81 KB, 112 trang )

98

Chương 8

CÁCH MẠNG XÃ HỘI
1. Thực chất và vai trò của cách mạng xã hội
1.1. Khái niệm cách mạng xã hội
Cách mạng xã hội, theo nghĩa rộng, là sự biến đổi căn bản về chất trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, là phương thức để chuyển từ hình thái
kinh tế - xã hội lỗi thời, lạc hậu sang một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, tiến
bộ hơn; theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị - xã
hội đã lỗi thời và thiết lập một chế độ chính trị - xã hội tiến bộ hơn.
Cách mạng xã hội trước hết là sự biến đổi về chất trên toàn bộ các lĩnh
vực cơ bản của đời sống xã hội, như về chính trị; kinh tế; văn hố, tư tưởng.
Bước nhảy vọt căn bản về chất này vừa là kết quả vừa là biểu hiện cao nhất của
cuộc đấu tranh giai cấp. C.Mác viết: “Đấu tranh giữa giai cấp với giai cấp… khi
đạt đến trình độ cao nhất của nó trở thành một cuộc cách mạng tồn diện”1. Đây
là đặc trưng cơ bản nhất của cách mạng xã hội để phân biệt cách mạng xã hội
với các hiện tượng khác của đời sống xã hội.
Cách mạng xã hội cịn là phương thức để chuyển từ hình thái kinh tế - xã
hội lỗi thời lên một hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ hơn. Khi các mâu thuẫn xã
hội và đấu tranh giai cấp đạt đến đỉnh cao, thì cách mạng xã hội là phương thức
tất yếu để xố bỏ hình thái kinh tế - xã hội đã lỗi thời và xây dựng thành cơng
hình thái kinh tế - xã hội mới.
Trong cách mạng xã hội, dấu hiệu đầu tiên và chủ yếu là bước ngoặt
chuyển giao chính quyền từ tay giai cấp lỗi thời, phản động sang tay giai cấp
tiến bộ, cách mạng. Bởi vì, “Vấn đề chính quyền nhất định là vấn đề chủ yếu
nhất của mọi cuộc cách mạng ... Chính đó là vấn đề cơ bản, vấn đề quyết định
tất cả mọi cái trong sự phát triển của cách mạng”2.
Những đặc trưng cơ bản trên là các tiêu chí khách quan để phân biệt cách
mạng xã hội với các hiện tượng xã hội khác. Cải cách xã hội là tổng thể những


hoạt động, tạo nên những biến đổi về chất của xã hội, nhưng chỉ là sự biến đổi
1

1

C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, tr 258.
V.I Lênin, Toàn tập, tập 34, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr. 268.


99
mang tính chất riêng lẻ, bộ phận, trên từng lĩnh vực trong khuôn khổ của chế độ
xã hội hiện tồn. Tiến hố xã hội là hình thức phát triển xã hội, nhưng sự phát
triển này lại diễn ra một cách tuần tự, dần dần trong phạm vi của một hình thái
kinh tế - xã hội nhất định.
Cách mạng xã hội, cải cách xã hội và tiến hoá xã hội là những hiện tượng xã
hội khác nhau, nhưng có liên quan mật thiết với nhau, tạo tiền đề điều kiện cho
nhau phát triển. Trong xem xét và cải tạo xã hội cần giải quyết đúng mối quan hệ
biện chứng giữa cách mạng xã hội, cải cách xã hội và tiến hoá xã hội, khắc phục tư
tưởng tả khuynh hoặc hữu khuynh trong giải quyết vấn đề này.
Ngoài ra, cần phân biệt cách mạng xã hội với đảo chính. Đảo chính là thủ
đoạn tranh giành quyền lực nhà nước của một cá nhân hay một nhóm người và
khơng phải là phong trào cách mạng của quần chúng. Trong lịch sử, đa số các
cuộc đảo chính là do các lực lượng phản động (có thể có sự can thiệp của nước
ngồi) tiến hành nhằm giải quyết mâu thuẫn nội bộ trong giai cấp thống trị. Chỉ
có những cuộc đảo chính nào hồ nhập được với phong trào cách mạng của
quần chúng mới có ý nghĩa cách mạng.
1.2. Nguyên nhân và vai trò của cách mạng xã hội
Cách mạng xã hội do nhiều nguyên nhân đưa đến. Nguyên nhân sâu xa
của cách mạng xã hội được bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất phát
triển với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu. Và khi đó “Từ chỗ là những hình

thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ sản xuất ấy trở thành
xiềng xích của lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng
xã hội”1. Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất được biểu hiện về mặt chính trị - xã hội thành mâu thuẫn giữa giai
cấp thống trị, phản động với giai cấp và các lực lượng cách mạng. Như vậy,
nguyên nhân trực tiếp của cách mạng xã hội là mâu thuẫn đối kháng giữa các
giai cấp có lợi ích cơ bản đối lập, khơng thể dung hồ.
Trong lịch sử, có nhiều quan điểm khác nhau về vai trò của cách mạng xã
hội. Các nhà thần học cho rằng, cách mạng xã hội sẽ tạo ra tai hoạ và nhiều bất
công xã hội. Đối lập với quan điểm trên, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định,
cách mạng xã hội có vai trò là động lực của tiến bộ xã hội. Đây là phương tiện
quan trọng nhất để giải quyết các mâu thuẫn đối kháng trong lòng xã hội. Cách
1

C. Mác và Ph.Ăng ghen, Tồn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.15.


100
mạng xã hội là phương thức để xoá bỏ quan hệ sản xuất lạc hậu và các giai cấp
phản động. C.Mác khẳng định, các cuộc cách mạng xã hội là đều là “đầu tàu của
lịch sử”1. Cách mạng xã hội mở ra địa bàn thuận lợi cho sự phát triển của lực
lượng sản xuất và tạo dựng một hình thái kinh tế - xã hội mới, tiến bộ hơn.
Cách mạng xã hội tiến hành cải biến toàn diện xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra các điều kiện để giai cấp và quần
chúng cách mạng tự cải tạo mình và có sự trưởng thành tồn diện về mọi mặt.
1.3. Tính chất và động lực của cách mạng xã hội
Tính chất của cách mạng xã hội là những dấu hiệu, đặc trưng để phân
biệt các cuộc cách mạng khác nhau trong lịch sử. Tính chất của một cuộc cách
mạng xã hội được xác định bởi nhiệm vụ giải quyết các mâu thuẫn kinh tế - xã
hội. Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng quy định đến lực lượng cách mạng và

giai cấp lãnh đạo cuộc cách mạng đó.
Động lực cách mạng là các giai cấp, các lực lượng xã hội do lợi ích
khách quan gắn bó mật thiết, tạo ra sức mạnh hiện thực để thúc đẩy cách mạng
đến thắng lợi. Lực lượng cách mạng là các giai cấp, các lực lượng xã hội bị áp
bức có nguyện vọng và khả năng đánh đổ giai cấp thống trị phản động. Lực
lượng cách mạng vận động, biến đổi tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể khác
nhau của mỗi cuộc cách mạng và trong các giai đoạn khác nhau của mỗi cuộc
cách mạng. Khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đang lên, giai cấp tư sản
là giai cấp tiến bộ, lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản để lật đổ chế độ phong kiến.
Khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trở nên lỗi thời, lạc hậu thì giai cấp
tư sản trở thành phản động, phản cách mạng. Ngày nay, giai cấp vô sản là giai
cấp tiến bộ và cách mạng nhất, có vai trị lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa nhằm xoá bỏ hình thái kinh tế - xã hội cũ, xây dựng thành cơng hình thái
kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Trong lực lượng cách
mạng có giai cấp lãnh đạo cách mạng, đây là giai cấp đại biểu cho phương thức sản
xuất mới mà cuộc cách mạng đó có nhiệm vụ phải xây dựng.
1.4. Các kiểu cách mạng xã hội trong lịch sử và đặc thù của cách mạng
vô sản
Kiểu cách mạng xã hội là phạm trù dùng để chỉ các cuộc cách mạng xã
hội có chung nhiệm vụ. Lịch sử lồi người đã trải qua bốn kiểu cách mạng xã
1

C. Mác và Ph Ăngghen, Tồn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.119


101
hội. Một là, kiểu cách mạng xã hội chuyển từ chế độ cộng sản nguyên thuỷ lên
chế độ chiếm hữu nô lệ; hai là, kiểu cách mạng xã hội chuyển từ chế độ chiếm
hữu nô lệ lên chế độ phong kiến; ba là, kiểu cách mạng xã hội chuyển từ chế độ
phong kiến lên chế độ tư bản chủ nghĩa (cách mạng tư sản); bốn là, kiểu cách

mạng xã hội chuyển từ chế độ tư bản chủ nghĩa lên chế độ xã hội chủ nghĩa
(cách mạng vô sản).
Trong mỗi kiểu cách mạng lại có các loại hình khác nhau. Đó là tồn bộ
những hình thức, phương thức tồn tại của kiểu cách mạng xã hội trong những
hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Ví dụ, kiểu cách mạng tư sản có hai loại hình cơ bản,
cách mạng dân chủ tư sản kiểu cũ và cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới. Đặc
trưng và vai trò của cách mạng xã hội ngày càng tăng cùng với sự phát triển của
lịch sử. Trước cách mạng tư sản, nhân tố chính trị - giai cấp chưa được thể hiện
rõ trong các cuộc cách mạng. Đến cách mạng tư sản và cách mạng xã hội chủ
nghĩa nhân tố chính trị - giai cấp mới được thể hiện rõ nét và trở thành nhân tố
chủ đạo của cách mạng xã hội.
Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo, nhằm
xố bỏ hình thái kinh tế - xã hội bóc lột, xây dựng thành cơng hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng triệt để nhất từ
trước đến nay, nó xóa bỏ mọi hình thức bóc lột và xây dựng một xã hội mới
khơng cịn áp bức, bóc lột, bất công. Các cuộc cách mạng trước kia chỉ là sự
thay thế chế độ chiếm hữu tư nhân này, hình thức áp bức bóc lột này, bằng chế
độ chiếm hữu tư nhân và hình thức áp bức bóc lột khác. Cách mạng vô sản
không chỉ đoạn tuyệt với sở hữu cổ truyền mà còn đoạn tuyệt với những tư
tưởng cổ truyền. Cách mạng vơ sản khơng chỉ giải phóng giai cấp vô sản, quần
chúng nhân dân lao động khỏi áp bức bóc lột giai cấp mà cịn giải phóng tồn
nhân loại khỏi mọi ách áp bức vật chất, tinh thần.
Trong cách mạng vơ sản, giành chính quyền mới chỉ là bước đầu, nó phải
trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài để tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây dựng
thành công xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là một
nhiệm vụ trọng đại, phức tạp và lâu dài của cuộc cách mạng vơ sản và nó khác
với các cuộc cách mạng xã hội trước, khi giành được được chính quyền thì mục
tiêu cơ bản về cơ bản đã hoàn thành. Cách mạng vơ sản khơng dừng lại ở vấn đề
giành chính quyền, nhiệm vụ của nó là thủ tiêu chế độ tư hữu, xố bỏ giai cấp và
xây dựng thành cơng xã hội xã hội cộng sản chủ nghĩa. Cách mạng vô sản là



102
cuộc cách mạng mang tính nhân dân thực sự và giải quyết vấn đề lợi ích của
tuyệt đại đa số quần chúng nhân dân lao động.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, chỉ có cách mạng vơ sản mới giải quyết triệt
để vấn đề lợi ích của quần chúng nhân dân lao động, còn các cuộc cách mạng xã
hội trước chỉ đi giải quyết lợi ích của thiểu số giai cấp thống trị bóc lột. Do giải
quyết vấn đề lợi ích của tuyệt đại đa số quần chúng nhân dân lao động, nó đã
phát huy cao độ vai trị của quần chúng cách mạng trong sự nghiệp sáng tạo xã
hội mới.
Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng do giai cấp vơ sản lãnh đạo, thơng
qua đội tiền phong của nó là đảng cộng sản; đồng thời nó địi hỏi phải phát huy
sức mạnh sáng tạo to lớn của quần chúng cách mạng để cải tạo triệt để xã hội cũ
và xây dựng thành công xã hội mới trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Những đặc điểm cơ bản của cách mạng vô sản không chỉ là những dấu hiệu để
phân biệt cách mạng vô sản với các cuộc cách mạng xã hội khác trong lịch sử,
mà còn là yêu cầu khách quan đảm bảo cho sự thắng lợi của các cuộc cách mạng
vô sản.
2. Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cách mạng xã hội
Điều kiện khách quan của cách mạng xã hội là tổng hợp các yếu tố, các
mâu thuẫn khách quan và sự vận động của các yếu tố, các mâu thuẫn đó đưa tới
tình thế cách mạng. Sự vận động của các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội tất yếu
sẽ làm các mâu thuẫn kinh tế - xã hội ngày càng phát triển. Nhưng cách mạng xã
hội chỉ có thể nổ ra khi các mâu thuẫn trên đây đã phát triển đến đỉnh cao, làm
cho xã hội lâm vào một cuộc “khủng hoảng kinh tế và chính trị”1 tồn diện và
đưa tới sự xuất hiện của tình thế cách mạng.
Tình thế cách mạng là tổng hợp những điều kiện chính trị - xã hội do mâu
thuẫn giai cấp phát triển đến độ gay gắt, nhờ đó cách mạng có thể nổ ra và giành
được thắng lợi. Nội dung và hình thức biểu hiện của tình thế cách mạng ở mỗi
kiểu cách mạng có sự khác nhau. Song cơ sở hiện thực của tình thế cách mạng

là, hình thái kinh tế - xã hội hiện tại đã lỗi thời lạc hậu; nhà nước của giai cấp
thống trị đã thối nát và khơng cịn đủ sức làm trịn chức năng vai trị của mình,
trở thành vật cản của tiến bộ xã hội. Tổng kết kinh nghiệm các cuộc cách mạng
trong lịch sử, V.I.Lênin chỉ rõ: "Muốn có cách mạng thì riêng việc quần chúng
bị áp bức ... nhận thức không thể sống như trước nữa.... cũng chưa đủ... còn phải
1

V.I.Lênin, Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 269


103
... những kẻ bóc lột cũng khơng thể sống và thống trị như trước được nữa"1. Do
những nguyên nhân nêu trên mà "...tính tích cực của quần chúng được nâng lên
rõ rệt...”2.
Như vậy, theo hình thái điển hình, tình thế cách mạng có các đặc trưng cơ
bản là, khủng hoảng chính trị đạt tới cực điểm và ngay cả tầng lớp trên cũng
không thể sống như trước được nữa; nỗi cùng khổ và quẫn bách của các giai cấp
bị áp bức trở nên nặng nề hơn mức bình thường; tính tích cực của quần chúng
được nâng cao rõ rệt. Các đặc trưng trên quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành
một hoàn cảnh hiện thực để cách mạng xã hội có thể nổ ra và giành được thắng
lợi. Tình thế cách mạng là một trạng thái đặc biệt, đúng như V.I.Lênin khẳng
định: “Khơng thể có cách mạng nếu khơng có tình thế cách mạng”3.
Tình thế cách mạng vận động, biến đổi tuỳ thuộc điều kiện hoàn cảnh lịch
sử cụ thể. Sự vận động, biến đổi của tình thế cách mạng sẽ làm xuất hiện thời cơ
cách mạng. Thời cơ cách mạng là thời điểm thuận lợi nhất trong tình thế cách
mạng, là sự hội tụ của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan đã phát triển
đến độ chín muồi bảo đảm cho cách mạng nổ ra và giành thắng lợi. Thời cơ
cách mạng thường xuất hiện trong thời gian ngắn, thậm chí là rất ngắn. Nó có
thể do sự chín muồi của các nhân tố bên trong tạo ra hoặc do hoàn cảnh thuận
lợi từ bên ngoài đưa lại.

Để cách mạng xã hội nổ ra, ngồi sự chín muồi của điều kiện khách quan,
cịn phải có sự chín muồi của cả nhân tố chủ quan. V.I.Lênin khẳng định:
“Không phải tình thế cách mạng nào cũng làm nổ ra cách mạng, mà chỉ có trong
trường hợp cùng với tất cả những thay đổi khách quan nói trên, lại cịn có thêm
thay đổi chủ quan”4. Nhân tố chủ quan của cách mạng xã hội là tồn bộ trình độ
nhận thức, ý chí, và năng lực tổ chức thực tiễn của các giai cấp và lực lượng
cách mạng. Sự phát triển nhân tố chủ quan của cách mạng xã hội có quan hệ
biện chứng với điều kiện khách quan. Sự chín muồi nhân tố chủ quan của cách
mạng xã hội được biểu hiện ở trình độ giác ngộ, tính tích cực chính trị, ý chí
quyết tâm, tinh thần sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của giai cấp và
quần chúng cách mạng. Sự trưởng thành về chính trị, tư tưởng và tổ chức của
giai cấp lãnh đạo cách mạng là yếu tố quyết định trực tiếp để cách mạng xã hội
có thể nổ ra và đi tới thành cơng.
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 269
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr. 86-87
3
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 268
4
V.I Lênin, Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr 269.
1
2


104
V.I Lênin chỉ rõ: "Một là đa số công nhân (hay dù sao cũng là đa số công
nhân giác ngộ, có suy nghĩ, tích cực về mặt chính trị) hồn toàn hiểu được rằng
cách mạng là cần thiết và sẵn sàng hy sinh vì cách mạng; hai là ... cuộc khủng
hoảng lôi cuốn cho đến cả những quần chúng lạc hậu nhất vào trong sinh hoạt
chính trị (...) làm yếu chính phủ và tạo điều kiện cho những người cách mạng có
thể lật đổ chính phủ một cách nhanh chóng"1 và khẳng định: “… cùng với tất cả

những thay đổi khách quan nói trên, lại cịn có thêm một thay đổi chủ quan, tức
là giai cấp cách mạng có khả năng phát động những hành động cách mạng có
tính chất quần chúng, khá mạnh mẽ để đập tan (hoặc lật đổ) chính phủ cũ…”2.
Thơng qua nhân tố chủ quan, bằng hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn của mình các lực lượng cách mạng thúc đẩy tình thế cách mạng phát triển
nhanh chóng hơn. Nếu nhận thức đúng đắn tình thế cách mạng, các lực lượng
cách mạng sẽ có khả năng xác lập đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn, từ
đó tuyên truyền vận động, tổ chức quần chúng tham gia ngày càng đông đảo vào
phong trào cách mạng. Kết quả các hoạt động này vừa là một tác nhân vơ cùng
quan trọng thúc đẩy tình thế cách mạng phát triển; vừa giúp các lực lượng cách
mạng tôi luyện ý chí đấu tranh, lớn mạnh khơng ngừng về lực lượng, tổ chức và
phương pháp, nghệ thuật đấu tranh cách mạng. Giải quyết được những nhiệm vụ ấy
chính là biểu hiện rõ nhất của vai trò nhân tố chủ quan trong việc tạo thời cơ, nắm
bắt thời cơ, giành thắng lợi quyết định trong cách mạng xã hội.
Trái lại, nếu các lực lượng cách mạng, nhất là giai cấp lãnh đạo cách
mạng khơng phát huy được vai trị của nhân tố chủ quan; không đánh giá đúng
sự biến đổi của điều kiện khách quan và không nhạy bén, chủ động trong phát
hiện thời cơ và tận dụng thời cơ thì dù điều kiện khách quan có chín muồi, cách
mạng xã hội cũng không thể nổ ra và giành được thắng lợi. Thực tiễn lịch sử cho
thấy, việc phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng quân Đồng minh năm 1945 là thời cơ
vơ cùng thuận lợi của tồn bộ phong trào cách mạng ở Đông - Nam Á, nhưng
chỉ ở Việt Nam cách mạng vô sản mới thành công. Thành cơng đó là do đường
lối đúng đắn, phương pháp cách mạng sáng tạo và nghệ thuật nắm bắt thời cơ tài
tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Vai trị ngày càng tăng của nhân tố chủ quan là một vấn đề mang tính
quy luật trong cách mạng xã hội. Vai trò tăng lên của nhân tố chủ quan xuất
1
2

V.I Lênin, Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr 86 - 87.

V.I Lênin, Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 269.


105
phát chính từ nhiệm vụ ngày càng tăng của cách mạng xã hội. Ở cách mạng
tư sản, vai trò tổ chức, lãnh đạo của giai cấp tư sản chủ yếu dừng lại ở giai
đoạn giành chính quyền, nhưng với cách mạng vơ sản giành chính quyền
mới chỉ là bước đầu. Nên đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của các đảng
cộng sản và ý chí, nghị lực, khả năng sáng tạo to lớn của toàn thể quần
chúng nhân dân lao động.
Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan có quan hệ biện chứng với
nhau và bất cứ cuộc cách mạng xã hội nào cũng đều phụ thuộc vào cả hai nhân
tố này. Trong mối quan hệ này, yếu tố suy đến cùng quyết định để cách mạng xã
hội nổ ra và giành được thằng lợi là điều kiện khách quan, nhưng khi điều kiện
khách quan đã phát triển đến độ chín muồi thì sự thành bại của sự nghiệp cách
mạng lại hoàn toàn phụ thuộc vào vai trò của nhân tố chủ quan. V.I Lênin cho
rằng: “Thật là sai lầm nếu nghĩ rằng các giai cấp cách mạng bao giờ cũng có đủ
lực lượng để thực hiện cách mạng, khi cách mạng đó đã hồn tồn chín muồi do
điều kiện của sự phát triển kinh tế - xã hội ... Cuộc cách mạng có thể đã chín
muồi, nhưng những con người cách mạng sáng tạo ra cuộc cách mạng đó lại có
thể chưa đủ sức để thực hiện nó”1.
Để giành thắng lợi cho cuộc cách mạng vơ sản, những người cộng sản
cần xem xét toàn diện cả điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, tránh
khuynh hướng tuyệt đối hoá, hoặc tách rời hai yếu tố trên. Kiên quyết chống
mọi biểu hiện của tư tưởng “tả khuynh” nơn nóng, chủ quan duy ý chí, phát
động quần chúng làm cách mạng khi điều kiện khách quan chưa chín muồi,
tình thế cách mạng chưa xuất hiện. Đồng thời, thường xuyên đấu tranh, khắc
phục tư tưởng “hữu khuynh”, thụ động, trơng chờ sự phát triển tự phát của
tình thế và thời cơ cách mạng, không phát huy hoặc phát huy khơng đầy đủ
vai trị của nhân tố chủ quan.

3. Hình thức và phương pháp cách mạng
3.1. Cách mạng bạo lực là quy luật phổ biến của mọi cuộc cách mạng
xã hội
Bạo lực cách mạng là sức mạnh của quần chúng bị áp bức bóc lột, được
hướng dẫn và tổ chức bởi một đường lối chính trị tiên tiến, nhằm chống lại bạo
lực phản cách mạng của giai cấp thống trị để giành, giữ và sử dụng chính
quyền nhà nước. Bạo lực cách mạng được cấu thành bởi hai lực lượng cơ bản,
1

V.I Lênin, Toàn tập, tập 11, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr. 459


106
đó là lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị của quần chúng. Hình thức của
bạo lực cách mạng được thể hiện phong phú đa dạng, tuỳ thuộc hoàn cảnh lịch
sử và so sánh lực lượng giữa lực lượng cách mạng và lực lượng phản cách
mạng. Bạo lực cách mạng có các hình thức phổ biến là đấu tranh chính trị và
đấu tranh vũ trang và sự kết hợp giữa hai hình thức đó. Đương nhiên, khơng
phải hình thức đấu tranh chính trị nào của quần chúng cũng là bạo lực cách
mạng. Nó chỉ thực sự là bạo lực cách mạng khi cuộc đấu tranh chính trị đó trực
tiếp chống lại bạo lực phản cách mạng và hướng tới nhiệm vụ giành, giữ, sử
dụng chính quyền nhà nước.
Mục đích sử dụng bạo lực cách mạng là ngăn chặn hoặc đập tan bạo lực
phản cách mạng của giai cấp thống trị và các lực lượng phản động để giành, giữ
và sử dụng chính quyền nhà nước.
Trong lịch sử, có nhiều quan điểm khác nhau về vai trò của bạo lực. Có
quan điểm tuyệt đối hố mặt “phá huỷ” của bạo lực, coi đó là “tội ác”, là vơ
nhân đạo. Đặc biệt, có quan điểm cịn coi bạo lực là “vạn năng”, là nguyên nhân
sản sinh ra xã hội mới. Đối lập với các quan điểm trên, chủ nghĩa Mác - Lênin
khẳng định, bạo lực cách mạng là điều kiện cần thiết cho các cuộc cách mạng xã

hội, là công cụ và phương tiện để các giai cấp cách mạng lật đổ các thể chế
chính trị lỗi thời, xây dựng chế độ xã hội tiến bộ. Ph.Ăngghen chỉ rõ: "theo Mác,
bạo lực còn là bà đỡ của một xã hội cũ đang thai nghén trong lòng một xã hội
mới, bạo lực là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để tự mở đường cho mình
và đập tan những hình thức chính trị cứng đờ và chết"1. Như vậy, theo tư tưởng
của các nhà kinh điển mácxít, bạo lực cách mạng khơng chỉ góp phần đập tan
những chướng ngại cuối cùng, những chướng ngại dù yếu tới mấy cũng không
bao giờ tự đổ để đưa tới sự ra đời của xã hội mới. Mà nó cịn là điều kiện tất yếu
để củng cố và giữ vững chính quyền cách mạng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin không bao giờ coi bạo lực là mục đích, là chìa
khố vạn năng và phương tiện duy nhất của cách mạng xã hội. Hình thức của
bạo lực ra sao và sử dụng bạo lực khi nào, ở đâu, đến mức nào là tuỳ thuộc vào
hoàn cảnh cụ thể, vào so sánh giữa lực lượng cách mạng và lực lượng phản cách
mạng, mà trước hết phụ thuộc vào mức độ chống đối của kẻ thù.
1

C. Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.259


107
Trên cơ sở nghiên cứu toàn diện, sâu sắc vấn đề bạo lực cách mạng, đồng
thời tổng kết kinh nghiệm các cuộc cách mạng xã hội trong lịch sử, các nhà kinh
điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định cách mạng bạo lực là một quy luật
phổ biến của mọi cuộc cách mạng. Cách mạng bạo lực là phương thức tất yếu
để tiến hành cách mạng xã hội, trong đó giai cấp cách mạng sử dụng bạo lực
cách mạng để giành, giữ chính quyền nhà nước.
Tính tất yếu và phổ biến của cách mạng bạo lực được xuất phát trước hết
từ vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội là vấn đề chính quyền nhà
nước. Việc giành, giữ chính quyền ln là cơ sở, nền tảng chi phối các nhiệm vụ
khác của cách mạng. Thời điểm giành được chính quyền hoặc để mất đi chính

quyền đánh dấu sự thành công hay thất bại của một cuộc cách mạng xã hội.
Nhưng bao giờ “quyền lực nhà nước tức là bạo lực xã hội tập trung và có tổ
chức”1 cũng là cơng cụ bảo vệ có hiệu quả nhất quyền lợi của giai cấp thống trị.
Cho nên, giai cấp thống trị sử dụng nhà nước để đàn áp phong trào cách mạng
và thường xuyên cố gắng cao nhất để bảo vệ sự tồn tại của nhà nước ấy; đồng
thời, tìm mọi cách để giành lại khi nó mất đi. Giai cấp cách mạng cũng không
thể thực hiện được nhiệm vụ cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nếu khơng
giành và giữ được chính quyền nhà nước.
Việc sử dụng cách mạng bạo lực không phải được bắt nguồn từ ý muốn
chủ quan của các giai cấp cách mạng mà từ chính bản chất và sự chống phá của
kẻ thù, đặc biệt là trong các cuộc cách mạng vô sản. V.I.Lênin khẳng định: “Nhà
nước tư sản bị thay thế bởi nhà nước vơ sản (chun chính vơ sản) không thể
bằng con đường tiêu vong được mà chỉ có thể theo quy luật chung, bằng một
cuộc cách mạng bạo lực thơi ”2.
Trong khi khẳng định tính phổ biến của cách mạng bạo lực, các nhà kinh
điển mácxit cũng khơng phủ nhận khả năng cách mạng xã hội có thể giành
thắng lợi bằng phương pháp hồ bình. Phương pháp hồ bình là hình thức đấu
tranh giành, giữ chính quyền nhà nước mà không diễn ra đấu tranh vũ trang, đổ
máu. Đây là phương pháp rất quí và hiếm, phù hợp với bản chất, nguyện vọng
của các giai cấp cách mạng, nhất là giai cấp vô sản. Để cách mạng có thể giành
thắng lợi bằng phương pháp hồ bình, điều kiện tiên quyết là các lực lượng cách
mạng đã chiếm ưu thế áp đảo trong so sánh lực lượng và khả năng chống cự
1
2

C. Mác và Ph.Ăng ghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.1043.
V.I Lênin, Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva,1976, tr. 27.


108

của giai cấp thống trị là vô cùng yếu ớt. Như vậy, phương pháp hồ bình chỉ có
hiệu quả khi dựa chắc vào bạo lực cách mạng, có sự hậu thuẫn của lực lượng
chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang cách mạng đã lớn mạnh. Cho nên về
thực chất, phương pháp hồ bình chỉ là hình thức biểu hiện khác của cách mạng
bạo lực và vẫn nằm trong phạm trù cách mạng bạo lực.
Con đường giành thắng lợi bằng phương pháp hồ bình của chủ nghĩa
Mác - Lênin hoàn toàn đối lập với quan điểm “quá độ hoà bình” của các trào lưu
cơ hội chủ nghĩa. Các trào lưu này chủ trương lấy đấu tranh nghị trường là hình
thức đấu tranh chủ yếu và duy nhất. Họ mơ tưởng lợi dụng chế độ dân chủ tư
sản để “giành lấy đa số trong nghị viện”, từ đó biến nhà nước tư sản thành công
cụ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Họ khơng nhận thức đúng vai trị to lớn của bạo
lực cách mạng, các hình thức đấu tranh của quần chúng cách mạng cho nên chủ
trương điều hoà giai cấp, từ bỏ cách mạng bạo lực và chuyên chính vô sản, từ
bỏ những tư tưởng nền tảng của chủ nghĩa Mác.
3.2. Vấn đề cách mạng xã hội trong thời đại ngày nay
Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới, nên cách mạng xã hội trong thời đại ngày nay chỉ
có thể là cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại, sự thoái trào tạm thời của phong trào cách mạng làm cho khơng ít người
hồi nghi về vai trị của cách mạng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Song, thực tiễn đã
khẳng định, dù cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại có phát triển tới
đâu cũng khơng thể thay thế được cách mạng xã hội. Bởi cách mạng khoa
học và cơng nghệ chỉ có thể cải biến trong một lĩnh vực của đời sống xã hội,
thậm chí trong xã hội tư bản các thành tựu của nó cịn dẫn đến những hậu
quả to lớn cho nhân loại, như tạo ra các loại vũ khí huỷ diệt; làm cạn kiệt tài
nguyên; ô nhiễm môi trường sinh thái, v.v.. Chỉ có cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa, “một cuộc cách mạng mà tất cả các cuộc cách mạng từ trước đến
nay không thể nào so sánh được” 1 mới đem lại khả năng nhảy vọt về chất
trong toàn bộ đời sống xã hội.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định tính tất yếu của cách mạng xã hội
xuất phát từ chính nhu cầu của nền sản xuất xã hội, từ nhu cầu giải quyết mâu
1

C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, tr. 696


109
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong xã hội tư bản hiện
nay, nhờ lợi dụng được những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và cơng
nghệ hiện đại, lực lượng sản xuất của nó đã được xã hội hoá cao độ. Quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa mặc dù có những điều chỉnh, nhưng bản chất vẫn là
chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Do vậy, có thể khẳng định, xung đột giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất trong lịng chế độ tư bản khơng những khơng mất đi, mà cịn gay gắt
hơn. Tính chất gay gắt của mâu thuẫn cơ bản này biểu hiện không chỉ ở các
nước tư bản phát triển, mà còn ở các nước mới đi vào con đường tư bản chủ
nghĩa; không chỉ biểu hiện trong lĩnh vực sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần
trong từng nước tư bản chủ nghĩa, mà đã biến thành các mâu thuẫn thời đại,
thành những vấn đề toàn cầu. Đảng ta khẳng định: “ Chủ nghĩa tư bản hiện đại
đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường, song không thể
khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính chất xã
hội hố ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất…”1. Bởi vậy, việc tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa để lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, lật đổ “một thế giới không thể chấp
nhận được”2, xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn là một tất yếu của lịch sử.
Mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong lòng
chế độ tư bản hiện đại và vấn đề gia tăng mạnh mẽ sự bần cùng hố của giai cấp
cơng nhân, của nhân dân lao động đã làm cho cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động chống chủ nghĩa tư bản vẫn tiếp tục diễn ra. Nhưng

tình thế cách mạng khơng chỉ là q trình phát triển tự phát mà nó cịn là kết quả
của những hoạt động tự giác của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao
động; không chỉ phụ thuộc vào so sánh lực lượng cách mạng với lực lượng phản
cách mạng, mà cịn phụ thuộc vào bối cảnh chung của tình hình quốc tế.
Hiện nay, sau sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông Âu làm cho so sánh lực lượng tạm thời nghiêng về phía các lực lượng
phản cách mạng. Với những thủ đoạn xảo quyệt, đúc kết từ quá trình chống phá
các phong trào cách mạng và những điều chỉnh để thích nghi tồn tại, giai cấp tư
sản đã làm cho giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển "ít nhiều có ảo
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr. 65
2
Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.80
1


110
tưởng về những cải thiện mà họ được dự phần "1. Những tác động trên phần nào
đã ảnh hưởng tới phong trào công nhân, phong trào cách mạng hiện nay. Mặc dù
cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể chưa nổ ra trong thời gian tới đây ở các nước
tư bản phát triển, nhưng tính tất yếu và tiềm năng của nó vẫn được tăng cường.
Hiện nay, “trên thế giới, hồ bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế
lớn” . Nhưng chủ nghĩa đế quốc vẫn hiện nguyên hình là một thế lực phản động,
hiếu chiến và sẵn sàng sử dụng bạo lực phản cách mạng để đàn áp các phong
trào cách mạng. Chiến lược “diễn biến hoà bình” nhằm chống lại các quốc gia
có chủ quyền mà trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa vẫn là chiến lược được
thực hiện dựa trên sức mạnh của bạo lực phản cách mạng và để chống lại bạo
lực phản cách mạng đó tất yếu phải có bạo lực cách mạng. Do vậy, quan điểm
cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn giữ nguyên giá trị trong điều
kiện hiện nay. Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô; đồng thời các

cuộc chiến tranh phi nghĩa bằng vũ khí cơng nghệ cao thời gian gần đây do chủ
nghĩa đế quốc mà đứng đầu là đế quốc Mỹ tiến hành là bài học cảnh tỉnh những
ai còn mơ hồ, mất cảnh giác đối với bạo lực phản cách mạng, coi nhẹ hoặc phủ
nhận bạo lực cách mạng trong tình hình mới.
2

Là một đảng mácxít chân chính, Đảng ta ln trung thành và vận dụng
sáng tạo quan điểm cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác -Lênin vào hoàn cảnh
của Việt Nam trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Ngày nay, “nước ta
đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn
biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào”3. Bởi vậy, những bài
học quí báu trong sự nghiệp đổi mới hơn 20 năm qua cần tiếp tục được phát huy
trong sự nghiệp đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang
cần nhận thức sâu sắc bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có lý luận về cách mạng xã hội. Nhận
thức sâu sắc đặc điểm của cách mạng vô sản và củng cố niềm tin tất thắng vào
sự nghiệp cách mạng của đất nước. Không ngừng nâng cao cảnh giác cách
Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr 108.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr. 73.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr. 22.
1
2


111
mạng, kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện mơ hồ, mất cảnh giác trước

những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

CÂU HỎI ƠN TẬP

1. Thực chất và vai trị của cách mạng xã hội ? Vận dụng xem xét vai trò
của cách mạng xã hội trong thời đại ngày nay ?
2. Phân tích nguyên nhân và tính chất của cách mạng xã hội? Ý nghĩa
phương pháp luận của vấn đề trong xem xét tính tất yếu của cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa trong thời đại ngày nay ?
3. Nêu và phân tích các đặc trưng cơ bản của tình thế cách mạng ? Vận dụng
xem xét tình thế của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời đại ngày nay ?
4. Phân tích mới quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan
trong cách mạng xã hội. Vận dụng phê phán các quan điểm sai lầm về vấn đề
này hiện nay ?


112

Chương 9
NHÀ NƯỚC
Nhà nước là vấn đề thực sự phức tạp bởi nó đụng chạm trực tiếp đến lợi
ích sống còn của các giai cấp. Quyền lực nhà nước còn là vấn đề trung tâm,
xuyên suốt trong lĩnh vực chính trị và chính quyền ln là vấn đề cơ bản của
mọi cuộc cách mạng. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, chính quyền nhà nước
cũng là vấn đề rất mấu chốt, rất cơ bản mà giai cấp vô sản cùng nhân dân lao
động phải nhận thức sâu sắc và giải quyết chính xác trong cuộc đấu tranh để tự
giải phóng khỏi mọi ách áp bức, bóc lột giai cấp; cải tạo xã hội cũ và xây dựng
thành công xã hội mới.
1. Nguồn gốc và bản chất của nhà nước

1.1. Nguồn gốc của nhà nước
Trong lịch sử đã xuất hiện nhiều quan điểm giải thích sai lầm về sự ra đời
của nhà nước. Trên lập trường duy tâm khách quan, Hêghen cho rằng, nhà nước
là do sự tha hoá của "ý niệm tuyệt" đối sinh ra. Thời kỳ cận đại xuất hiện những
quan điểm điển hình của Hốpxơ (1588-1679), Lốccơ (1632-1704), Rútxô (17121778). Các nhà triết học cận đại đã đề cập đến nhà nước như là sản phẩm của
khế ước xã hội, nhà nước được xem như là một sự thoả thuận và ý chí chung của
nhân dân, nhưng những quan điểm của họ vẫn chưa hồn tồn thốt khỏi ảnh
hưởng của chủ nghĩa duy tâm về vấn đề nhà nước. Chủ nghĩa Tơmát mới quan
niệm, nhà nước có nguồn gốc thiêng liêng từ chúa, do vậy nhà nước có thần
tính; sự ra đời của nhà nước nhằm bảo vệ quyền lợi cho mọi thành viên trong xã
hội và do vậy nhà nước khơng có tính giai cấp.
Lý luận khoa học về nhà nước chỉ có thể có được trên cơ sở quan niệm
duy vật biện chứng về sự phát triển xã hội. Chỉ đến khi chủ nghĩa Mác - Lênin
ra đời vấn đề nguồn gốc, bản chất của nhà nước mới được xem xét và luận giải
một cách khoa học trên cơ sở các quan hệ kinh tế, quan hệ giai cấp của xã hội.
Quan điểm mácxít cho rằng, nhà nước ra đời là một tất yếu khách quan ở
một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội. Sự ra đời, tồn tại của nhà
nước xét đến cùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất đưa tới sự ra đời
của chế độ tư hữu và trực tiếp là do mâu thuẫn giai cấp khơng thể điều hồ. Nhà
nước là một phạm trù lịch sử, nó chỉ ra đời và tồn tại trong một giai đoạn nhất


113
định của sự phát triển lịch sử xã hội và nhà nước sẽ mất đi khi những cơ sở tồn
tại của nó khơng cịn nữa.
Lịch sử cho thấy, xã hội cộng sản nguyên thuỷ dựa trên chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất, mọi người sống bình đẳng, trong xã hội chưa có giai cấp và
chưa có nhà nước. Phù hợp với tình trạng kinh tế hết sức thấp kém lúc này là
chế độ thị tộc, bộ lạc nguyên thuỷ. Đứng đầu các thị tộc, bộ lạc này là những tộc
trưởng và hội đồng tộc trưởng do nhân dân bầu ra. Những thủ lĩnh này khơng có

đặc quyền, đặc lợi cá nhân và họ thực hiện vai trò là người đứng đầu các thị tộc,
bộ lạc trong điều hành các công việc chung dựa vào sức mạnh của tập quán, của
dư luận xã hội và trên cơ sở đạo đức, uy tín cá nhân của họ đối với xã hội.
Quyền hành và chức năng của các cơ quan đứng đầu thị tộc, bộ lạc hồn tồn
khơng mang tính chất chính trị. Bởi vậy, các cơ quan dân cử này hoàn toàn khác
biệt về bản chất so với tổ chức nhà nước. Mặc dù trong xã hội cộng sản nguyên
thuỷ nhà nước chưa ra đời, nhưng xã hội vẫn tồn tại trong vòng ổn định và trật
tự. Đánh giá về thể chế tổ chức xã hội trong thời kỳ này, Ph. Ăngghen viết: “Với
tất cả tính ngây thơ và giản dị, chế độ thị tộc đó quả là một tổ chức tốt đẹp biết
bao! Khơng có qn đội, hiến binh và cảnh sát, khơng có q tộc, vua chúa, tổng
đốc, trưởng quan và quan tồ, khơng có nhà tù, khơng có những vụ xử án, - thế
mà mọi việc đều trôi chảy"1.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đưa tới sự ra đời của chế độ tư hữu
và đối kháng giai cấp trong xã hội. Từ đó, quan hệ người áp bức bóc lột người
thay thế quan hệ bình đẳng, hợp tác tương trợ. Mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị
bóc lột với giai cấp bị bóc lột ngày càng sâu sắc, cuộc đấu tranh giữa các giai
cấp đó ngày càng quyết liệt khơng thể điều hồ được. Để bảo vệ lợi ích ích kỷ
của giai cấp mình, đàn áp sự phản kháng của giai cấp bị trị và bắt họ phải tuân
theo những trật tự do mình đặt ra, giai cấp thống trị đã lập ra bộ máy bạo lực
trấn áp - bộ máy đó chính là nhà nước. Vì vậy, nhà nước xuất hiện từ mâu thuẫn
giai cấp đối kháng vốn có của mỗi xã hội và ở đâu có mâu thuẫn giai cấp khơng
thể điều hồ thì ở đó nhà nước xuất hiện. V.I.Lênin khẳng định: “Nhà nước là
sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp khơng thể điều hồ được. Bất
cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai
1

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 147.


114

cấp khơng thể điều hồ được thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của
nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hồ được"1.
Nhà nước quyết khơng phải là cái được sinh ra từ bên ngoài áp đặt vào
xã hội và cũng không phải do ý muốn chủ quan của một cá nhân hay một giai
cấp nào quy định. Sự ra đời và tồn tại của nó là một tất yếu khách quan "từ nhu
cầu phải kìm chế những sự đối lập giai cấp"2, làm cho cuộc đấu tranh giữa
"những giai cấp có quyền lợi kinh tế mâu thuẫn nhau đó, không thể đi đến chỗ
tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội và giữ cho sự xung đột đó nằm
trong "vịng trật tự"3 của giai cấp thống trị. Trật tự đó là hồn tồn cần thiết để
duy trì chế độ kinh tế, trong đó giai cấp này áp bức bóc lột giai cấp khác. Đương
nhiên, giai cấp lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước là giai cấp có thế lực nhất,
giai cấp nắm trong tay sức mạnh kinh tế và nhờ có nhà nước giai cấp này cũng
trở thành giai cấp thống trị xã hội về mặt chính trị.
Như vậy, nhà nước ra đời từ những nguồn gốc kinh tế - xã hội và gắn liền
với các cuộc cuộc đấu tranh giai cấp trong lịch sử. Từ nguồn gốc khách quan
của sự xuất hiện nhà nước, có thể quan niệm, nhà nước là một tổ chức đặc biệt
của quyền lực chính trị dùng để bảo vệ lợi ích trước hết của giai cấp thống trị
và để quản lý xã hội.
Nghiên cứu nguồn gốc của sự xuất hiện nhà nước là cơ sở lý luận khoa
học để tiếp cận một cách đúng đắn vấn đề bản chất của nhà nước và đấu tranh
chống lại các quan điểm duy tâm, phản động xung quanh vấn đề này.
1.2. Bản chất của nhà nước
Bản chất của nhà nước được xác định bởi nhà nước đó do giai cấp nào tổ
chức ra, hệ thống thiết chế đó nằm trong tay ai và nó phục vụ trước hết cho lợi
ích của giai cấp nào. Từ trước đến nay, các nhà tư tưởng của giai cấp thống trị
bóc lột ln tìm mọi cách che đậy và xuyên tạc bản chất vốn có của nhà nước.
Những học thuyết về nhà nước trước đây đều phủ nhận bản chất giai cấp của nhà
nước và thường tun truyền tính chất thần bí, tơn giáo và duy tâm về bản chất của
nhà nước. V.I.Lênin đã từng đấu tranh không khoan nhượng bác bỏ quan điểm
xuyên tạc bản chất nhà nước của các phần tử cơ hội trong Quốc tế II, mà đại biểu là

E.Becxtanh và C.Cauxky khi họ cho nhà nước chỉ là một cơ quan điều hoà mâu
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr. 9.
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 255.
3
C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 252 - 253.
1
2


115
thuẫn giai cấp, cùng những luận thuyết của các học giả tư sản khi họ tìm mọi cách
biện hộ và phủ nhận bản chất giai cấp của nhà nước tư sản.
Ngày nay, trước các biến động to lớn của tình hình thời cuộc, các học
giả tư sản đang ra sức tuyên truyền cho tính chất "siêu giai cấp" của nhà nước
tư sản. Họ cho rằng, hiện nay nhà nước tư sản đã có sự thay đổi về bản chất,
rằng đây là "nhà nước phúc lợi chung", "nhà nước nhân dân tự do".v.v..; là tổ
chức thực hiện ngày càng đầy đủ ý chí của nhân dân, thoả mãn ngày càng tốt
hơn các nhu cầu của xã hội và đảm bảo được phúc lợi cho tất cả mọi người.
Những quan điểm đó không những không phản ánh đúng đắn bản chất vốn có,
đích thực của nhà nước tư sản; mà ngược lại, cịn che đậy và xun tạc bản
chất đích thực của nhà nước, họ làm cho vấn đề nhà nước vốn đã phức tạp
càng trở nên phức tạp hơn.
Đi từ cơ sở kinh tế và giai cấp của nhà nước, các nhà kinh điển mácxít
khẳng định, bản chất của nhà nước là cơng cụ quyền lực chính trị của giai cấp
thống trị về kinh tế dùng để thống trị, áp bức các giai cấp khác trong xã hội.
Ph.Ăngghen chỉ rõ: "Nhà nước chẳng qua chỉ là bộ máy trấn áp của một giai cấp
này đối với một giai cấp khác, điều đó, trong chế độ cộng hồ dân chủ cũng
hồn tồn giống như trong chế độ quân chủ vậy"1.
Với tư cách là một bộ máy trấn áp của một giai cấp này đối với một giai
cấp khác, nhà nước của giai cấp thống trị bóc lột khơng phải là kẻ cơng bằng

bảo vệ lợi ích cho tất cả các giai cấp, mà nó là một bộ máy quyền lực chính trị
đặc biệt và được tổ chức chặt chẽ tác động vào mọi mặt của đời sống xã hội. Tổ
chức này do giai cấp thống trị thiết lập ra nhằm hợp pháp hố và củng cố sự áp
bức của nó đối với quần chúng nhân dân lao động. Trong hệ thống tổ chức thiết
chế xã hội, nhà nước là bộ phận quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng. Tất
cả những hoạt động chính trị, văn hố, xã hội do nhà nước tiến hành, xét cho
cùng đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Ph.Ăngghen khẳng định:
“Nhà nước, nói chung chỉ là sự phản ánh, dưới hình thức tập trung của những
nhu cầu kinh tế của giai cấp thống trị trong sản xuất"1. Bởi vậy, nhà nước là
công cụ sắc bén nhất của sự thống trị và áp bức giai cấp.
Nhà nước do giai cấp có thế lực nhất, giai cấp thống trị về kinh tế tổ chức
ra, vì vậy nhà nước nào trong lịch sử cũng có bản chất giai cấp sâu sắc. Thực tế
1

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 22, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 290 - 291.


116
lịch sử đưa lại nhiều bằng chứng nói lên rằng, dù được che dấu dưới hình thức
tinh vi như thế nào, dù có được khúc xạ qua những lăng kính phức tạp ra sao,
nhà nước vẫn là công cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Và bản chất đích
thực của nó, là "một cơ quan thống trị giai cấp, là một cơ quan áp bức của một
giai cấp này đối với một giai cấp khác"2. Tuy nhiên, bất cứ một nhà nước nào
cũng sẽ không thể tồn tại được, nếu chỉ phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị
mà khơng tính đến lợi ích của các giai tầng khác trong xã hội. Ngoài việc duy trì
sự thống trị của giai cấp thống trị, nhà nước còn là tổ chức duy nhất đứng ra
quản lý những hoạt động chung của xã hội và đảm bảo cho xã hội ổn định, phát
triển. Nhưng việc nhà nước đảm bảo những lợi ích nhất định của các giai tầng
khác trong xã hội, trong chừng mực những lợi ích đó khơng đối lập gay gắt với
lợi ích của giai cấp thống trị, cũng chính là để đảm bảo và duy trì địa vị, lợi ích

của giai cấp thống trị trên thực tế.
Bản chất của nhà nước được biểu hiện ra ở hệ thống quyền lực chính trị, luật
pháp, nhưng trực tiếp và rõ nét nhất là ở các đặc trưng, chức năng của nhà nước.
Như vậy, nhà nước bao giờ cũng là cơng cụ chun chính của một giai
cấp, là nhà nước của một giai cấp. Khơng thể có cái gọi là nhà nước "phúc lợi
chung", nhà nước "siêu giai cấp", đứng trên các giai cấp hoặc của nhiều giai cấp
như quan điểm của các học giả tư sản đưa ra. Tuy nhiên, cũng có trường hợp
nhà nước giữ một mức độ độc lập nào đó đối với cả hai giai cấp có lợi ích đối
kháng nhau, khi cuộc đấu tranh giữa các giai cấp đó ở vào thế cân bằng nhất
định. Hoặc nhà nước cũng có thể là sản phẩm của sự thoả hiệp về quyền lợi tạm
thời giữa một số giai cấp để chống lại một giai cấp khác. Nhưng những trường
hợp trên là có tính ngoại lệ và tạm thời. Sự phát triển của điều kiện kinh tế - xã
hội nói chung và cuộc đấu tranh giai cấp nói riêng sẽ phá vỡ thế cân bằng giữa
các giai cấp đối địch nhau. Khi đó quyền lực nhà nước sẽ được tập trung vào
một giai cấp.
Nghiên cứu bản chất của nhà nước theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin là cơ sở lý luận khoa học để đấu tranh phê phán các quan điểm sai
lầm, phản động về vấn đề này; bảo vệ và phát triển học thuyết mácxít về nhà
nước trong tình hình mới. Đây cịn là cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa
1
2

C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 442
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr.10.


117
học để xây dựng và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta
hiện nay.
2. Đặc trưng và chức năng của nhà nước

2.1. Đặc trưng của nhà nước
Theo Ph.Ăngghen, bất cứ nhà nước nào trong lịch sử cũng có ba đặc
trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định và
là đại biểu cao nhất của chủ quyền quốc gia. Đặc trưng trên chỉ rõ sự khác biệt
của nhà nước với các tổ chức điều hành công việc trong xã hội cộng sản nguyên
thuỷ. Khác với các tổ chức trong thị tộc và bộ lạc, nhà nước phân chia dân cư
không theo huyết thống mà theo lãnh thổ quốc gia. Quyền lực của nhà nước trực
tiếp tác động đến dân cư trong lãnh thổ quốc gia đó, bất kể người dân thuộc
quan hệ huyết thống nào và không phân biệt sự khác nhau về chính kiến, giới
tính. Bởi vậy, nói tới nhà nước là nói tới tổ chức quyền lực có chủ quyền mang
nội dung chính trị - pháp lý, là đại biểu cao nhất của chủ quyền quốc gia. Quyền
lực nhà nước có hiệu lực trên tồn bộ đất nước, đối với tất cả dân cư và tổ chức
xã hội. Nhà nước còn là tổ chức duy nhất đại diện cho quốc gia trong các quan
hệ đối ngoại và quốc tế.
Thứ hai, nhà nước có bộ máy quyền lực công cộng đặc biệt và quản lý xã
hội bằng pháp luật. Khác với các cơ quan điều hành công việc chung trong xã
hội thị tộc và bộ lạc trước đây, nhà nước có đặc trưng quan trọng nhất là sự thiết
lập một hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp. Bộ phận quan trọng
nhất của nó là những cơ quan hành chính thực hiện chức năng cai trị. Nhà nước
có các đội vũ trang đặc biệt, như quân đội nhà nghề, cảnh sát vũ trang, các cơ
quan cưỡng bức và những cơ sở vật chất tương ứng như nhà tù, trại tập trung,
trại giam để cưỡng chế và bắt buộc những người bị trị phải phục tùng. Các nhà
kinh điển mácxít nhấn mạnh, phải tìm những đặc trưng cơ bản của nhà nước
trong những cơ quan quyền lực trấn áp của nó. V.I.Lênin chỉ rõ: "quân đội
thường trực và cảnh sát là những công cụ vũ lực chủ yếu của quyền lực nhà
nước"1. Trong hệ thống tổ chức quyền lực nhà nước, ngoài binh sĩ, sĩ quan và
các nhân viên thuộc các lực lượng vũ trang, nhà nước cịn bao gồm một bộ máy
đơng đảo các quan chức và viên chức thường là được trả lương cao để chuyên
1


V.I.Lênin, Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr.12.


118
làm cơng việc hành chính cai trị. Nhà nước ban hành pháp luật và quản lý xã hội
bằng pháp luật. Giai cấp thống trị bóc lột lại dùng các thiết chế bạo lực để pháp
luật của mình được thực thi trong thực tế. Do vậy, mặc dù các cơ quan quyền
lực nhà nước đều từ xã hội mà ra, nhưng về bản chất nó là quyền lực chính trị
thực hiện sự thống trị giai cấp chứ không phải quyền lực xã hội. Và xu hướng
vận động tất yếu của các nhà nước thống trị bóc lột trong lịch sử là ngày càng
thoát ly xã hội, đối lập với nhân dân.
Thứ ba, nhà nước đặt ra hệ thống thuế khoá để ni bộ máy của nó. Nhà
nước đặt ra chế độ thuế khố và thực hiện việc thu thuế dưới hình thức bắt buộc,
có tính chất cưỡng bức để ni sống bộ máy cai trị. Nhà nước không thể tồn tại
nếu khơng dựa vào thuế khố, quốc trái và các hình thức bóc lột khác. Gánh
nặng thuế khố và nhiều đóng góp khác đè nặng lên vai các giai cấp bị áp bức
bóc lột. Một mặt, thuế khố bảo đảm cho mọi chi phí của bộ máy nhà nước; mặt
khác, nó nuôi béo bọn quan lại và làm giàu cho giai cấp thống trị. V.I.Lênin coi
bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị bóc lột là cái biếu ký sinh sống trên cơ
thể xã hội. Còn Ph.Ăngghen chỉ ra rằng: “Nắm được quyền lực công cộng và
quyền thu thuế, bọn quan lại với tư cách là những cơ quan xã hội được đặt lên
trên xã hội”1. Do vậy, về cơ bản, mọi nhà nước đều sống được là nhờ vào sự chu
cấp của nhân dân.
2.2. Chức năng của nhà nước
Bản chất giai cấp và vai trò xã hội của nhà nước được thể hiện trực tiếp ở
chức năng, nhiệm vụ của nó. Chức năng của nhà nước là phương diện hoạt
động chủ yếu của cả bộ máy nhà nước và mỗi cơ quan nhà nước đều phải tham
gia thực hiện ở những mức độ khác nhau. Sự tồn tại thực tế của các nhà nước
trong lịch sử cho thấy, bất cứ nhà nước nào cũng có các chức năng cơ bản của

nó, các chức năng đó chi phối, quy định đến các nhiệm vụ cụ thể của nhà nước.
Tiếp cận nhà nước từ các góc độ khác nhau, người ta có thể phân chia
chức năng của nhà nước thành những loại khác nhau. Tất cả các chức năng khác
nhau đó đều là cái vốn có của nhà nước. Xem xét phạm vi tác động của quyền
lực nhà nước ở tầm vĩ mô, nhà nước với tư cách là đại biểu cao nhất của chủ
quyền quốc gia nó có chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Tiếp cận nhà
1

C.Mác và Ph.Ăngghen,Tồn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 254.


119
nước từ góc độ tính chất của quyền lực chính trị, nhà nước có chức năng thống
trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội.
Chức năng thống trị chính trị của giai cấp nói lên rằng, bất kỳ nhà nước
nào cũng là cơng cụ chun chính của một giai cấp và nó sẵn sàng sử dụng mọi
cơng cụ, mọi biện pháp có thể có để bảo vệ sự thống trị của giai cấp đó. Đây là
chức năng tạo thành bản chất chủ yếu của nhà nước, bởi vì quyền lực nhà nước
xét về thực chất là quyền lực của giai cấp thống trị và đó cũng là lực lượng có
thế lực nhất trong xã hội, cũng như trong tổ chức nhà nước. Trên thực tế, các
nhà nước thực hiện chức năng thống trị chính trị của giai cấp nhằm duy trì trật
tự kinh tế, chính trị, xã hội hiện có là để củng cố, bảo vệ địa vị và lợi ích của giai
cấp thống trị.
Chức năng xã hội của nhà nước là do yêu cầu khách quan đòi hỏi phải
giải quyết những nhiệm vụ chung của xã hội. Nó là sự kế thừa nhiệm vụ của các
tổ chức điều hành công việc chung trong lịch sử và đáp ứng yêu cầu của sự phát
triển xã hội, mà xét đến cùng là do tính tất yếu kinh tế quyết định. Thực tế cho
thấy, bất kỳ nhà nước nào cũng phải thực hiện việc quản lý những hoạt động
chung, lo giải quyết những nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Trong giới hạn nhất
định, để thực hiện được lợi ích của mình, nhà nước vẫn buộc phải thoả mãn

bằng cách này hay cách khác những lợi ích phổ biến của toàn xã hội.
Cả hai chức năng này đều bắt nguồn từ lý do ra đời và tồn tại của nhà
nước và có quan hệ qua lại khơng thể tách rời trong mọi hoạt động của nhà
nước. Trong đó chức năng thống trị chính trị của giai cấp ln giữ vị trí chi phối
phương hướng, mức độ thực hiện chức năng xã hội của nhà nước. Việc thực
hiện chức năng xã hội theo quan điểm và giới hạn của giai cấp cầm quyền là cơ
sở và điều kiện để nhà nước thực hiện chức năng thống trị chính trị của giai cấp.
Nghĩa là, trong q trình thực hiện các lợi ích riêng của mình, giai cấp thống trị
nào cũng buộc phải nhân danh xã hội để quản lý và điều hành các cơng việc
chung. Khi nhà nước giải quyết có hiệu quả những vấn đề chung của xã hội sẽ
tạo ra điều kiện thuận lợi để duy trì xã hội trong vịng trật tự theo quan điểm và
lợi ích của giai cấp cầm quyền. Ph.Ăngghen chỉ rõ: "Ở khắp nơi, chức năng xã
hội là cơ sở của sự thống trị chính trị, và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài
chừng nào nó cịn thực hiện chức năng xã hội đó của nó"1.
1

C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 252.


120
Ngày nay, mối quan hệ giữa các chức năng của nhà nước ngày càng trở
nên mật thiết trong xã hội hiện đại. Nhưng sẽ là mơ hồ ảo tưởng, thậm trí sai
lầm trong hoạt động thực tiễn cách mạng nếu khơng thấy được tính chính trị,
tính giai cấp trong các chủ trương, chính sách và sự tác động, can thiệp của nhà
nước vào các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngược lại, nếu đem quy tất cả các
chức năng đa dạng, phong phú của nhà nước vào chức năng thống trị chính trị
của giai cấp cũng là sai lầm phiến diện trong xem xét chức năng của các nhà
nước hiện nay. Bởi vậy, nghiên cứu chức năng của nhà nước theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận khoa học để đấu tranh phê phán các quan
điểm sai lầm về vấn đề này.

3. Các kiểu và hình thức nhà nước
3.1. Kiểu nhà nước
Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về
giai cấp nào, tồn tại trên cơ sở kinh tế và tương ứng với hình thái kinh tế- xã hội
nào trong lịch sử. Kiểu nhà nước được quy định bởi bản chất giai cấp của nó và
tính chất, trình độ phát triển của sản xuất, của kinh tế trong các hình thái kinh tế
- xã hội nhất định. Tương ứng với các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau là các
kiểu nhà nước khác nhau.
Trong lịch sử, tương ứng với ba hình thái kinh tế - xã hội có đối kháng
giai cấp có ba kiểu nhà nước khác nhau:
Nhà nước chủ nô gắn liền với hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nơ lệ.
Đây là kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử, là công cụ của giai cấp chủ nô dùng
để áp bức thống trị giai cấp nô lệ.
Nhà nước phong kiến gắn liền với hình thái kinh tế - xã hội phong kiến.
Ở phương Đông, nhà nước phong kiến xuất hiện từ rất sớm với các giai đoạn
phong kiến phân quyền và phong kiến tập quyền. Còn ở phương Tây, nhà nước
phong kiến gắn liền với tình trạng cát cứ của các lãnh chúa phong kiến.
Nhà nước tư sản gắn liền với giai đoạn phát triển cao của lực lượng sản
xuất và hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Đây là cơng cụ chun chính
của giai cấp tư sản nhằm bảo vệ địa vị và lợi ích của nó. Nhưng từ trước tới nay,
các học giả tư sản ln tìm mọi cách che dấu bản chất của nhà nước đó, song dù
có biện hộ dưới hình thức nào đi nữa thì nhà nước tư sản vẫn là một tên tư bản
tập thể lý tưởng, là công cụ bạo lực của giai cấp tư sản dùng để áp bức và nô
dịch quần chúng nhân dân lao động.


121
Ngoài ba kiểu nhà nước trên, trong lịch sử đã xuất hiện kiểu nhà nước gắn
liền với hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa, đó là nhà nước kiểu mới nhà nước xã hội chủ nghĩa. Chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa
ở từng giai đoạn có sự khác nhau, nhưng xét về bản chất nó là tổ chức quyền lực

chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dùng để cải tạo xã hội cũ,
xây dựng thành công xã hội mới.
3.2. Hình thức nhà nước
Mỗi kiểu nhà nước trong lịch sử lại có thể tồn tại dưới nhiều hình thức
khác nhau. Hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và
phương thức thực hiện quyền lực nhà nước. Nói cách khác, đó là hình thức cầm
quyền và thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp thống trị. Nhà nước tồn tại
dưới hình thức nào là tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế - chính trị của xã
hội, tuỳ thuộc vào so sánh lực lượng của các giai cấp trong xã hội. Ngồi ra,
truyền thống lịch sử, văn hố và đặc điểm của mỗi dân tộc cũng có ảnh hưởng
đến hình thức nhà nước.
Các hình thức phổ biến của sự tồn tại các kiểu nhà nước trong lịch sử,
gồm có: hình thức chính thể và hình thức cấu trúc.
Ngay từ thời cổ đại, ở các nhà nước chiếm hữu nô lệ phát triển như Hy
Lạp và La Mã cổ đại đã được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong
thời kỳ đó "…người ta đã phân biệt chính thể qn chủ và chính thể cộng hồ,
chính thể q tộc và chính thể dân chủ…Mặc dù có sự khác nhau như thế, nhưng
nhà nước, trong thời đại chế độ nô lệ, dù là qn chủ hay cộng hồ q tộc hay
cộng hồ dân chủ, đều là nhà nước chủ nô"1. Thời trung cổ, nhà nước phong
kiến cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó có hình thức
qn chủ tập quyền và quân chủ phân quyền; quân chủ chuyên chế và quân chủ
hạn chế. Trong chế độ phong kiến phân quyền, quyền lực nhà nước bị phân chia
thành các quyền lực độc lập, phân tán. Trong nhà nước phong kiến tập quyền,
quyền lực nhà nước được tập trung vào nhà vua. Trong nhà nước chuyên chế
phong kiến, hoàng đế có uy quyền tuyệt đối, ý chí của nhà vua là tối thượng, là
pháp luật.
Dù tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào, nhà nước chủ nơ và nhà nước phong
kiến cũng chỉ là tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp chủ nô và địa chủ,
phong kiến. Các nhà nước này đứng ra bảo vệ đặc quyền, đặc lợi cho giai cấp
1


V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr. 86.


122
thống trị bóc lột. Cách mạng tư sản đã lật đổ nhà nước phong kiến và đưa tới sự
ra đời của nhà nước tư sản.
Nhà nước tư sản được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau, như cộng
hồ đại nghị; cộng hoà tổng thống. Ở một số nước tư bản hiện nay, nhà nước
được tổ chức dưới hình thức quân chủ lập hiến. Trong hình thức này, nhà vua là
người đứng đầu quốc gia trên danh nghĩa mà không có thực quyền, nghị viện là
cơ quan lập pháp và nội các nhà nước là cơ quan nắm mọi quyền hành. Hiện
nay, chính thể cộng hồ đại nghị được coi là hình thức hồn bị nhất của nền
chun chính tư sản.
Sự khác nhau về hình thức của các nhà nước tư sản, không phải là đưa tới
sự thay đổi về bản chất của nó. Ngược lại, dù cho tồn tại dưới hình thức nào, nhà
nước tư sản vẫn là cơng cụ chuyên chính của giai cấp tư sản. V.I.Lênin viết:
“Những hình thức của các nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực
chất chỉ là một: chung quy lại thì tất cả những nhà nước ấy, vơ luận thế nào,
cũng tất nhiên phải là nền chuyên chính tư sản"1. Từ trước đến nay, các cơ quan
tuyên truyền tư sản ln tìm mọi cách làm cho người ta tin rằng, nhà nước tư
sản là sự phát triển hoàn bị nhất và đây là mẫu hình nhà nước lý tưởng đảm bảo
tự do, dân chủ cho nhân dân. Nhưng dù có biện hộ thế nào thì bản chất của nhà
nước tư sản vẫn là nền chuyên chính tư sản như V.I.Lênin đã khẳng định. Nhà
nước tư sản tuyên bố quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi cơng dân, nhưng
quyền công dân được pháp luật tư sản quy định trên thực tế chỉ là quyền bình
đẳng tư sản và xét đến cùng là để bảo đảm cho lợi ích của giai cấp tư sản.
Do vậy, V.I.Lênin viết: “Pháp luật bảo vệ mọi người như nhau; nó bảo vệ
tài sản của những người có của chống lại sự xâm phạm của cái khối lớn những
người khơng có của, khơng có cái gì cả ngồi hai cánh tay, và dần dần bị bần

cùng hố, bị phá sản và biến thành vơ sản"2. Giai cấp tư sản luôn tán dương cho
chế độ dân chủ tư sản, họ cho rằng đây là nền dân chủ không hạn chế, song bản
chất chủ yếu của dân chủ tư sản là sự chun chính khơng hạn chế, là dân chủ
của thiểu số giai cấp tư sản chống lại tuyệt đại đa số nhân dân. Bản chất đích
thực của dân chủ tư sản được V.I.Lênin chỉ ra rằng: “Cứ mấy năm lại một lần
quyết định xem người nào trong giai cấp thống trị sẽ chà đạp và đè nét nhân dân
trong nghị viện, đó là thực chất của chế độ đại nghị tư sản"3.
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr. 44.
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr. 90.
3
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr. 56.
1
2


×