Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Đề cương ôn thi môn triết học mác lê nin phần chủ nghĩa duy vật lịch sử phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.02 KB, 19 trang )

Câu hỏi 1: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực
lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người đã
thay đổi phương thức sản xuất của mình. Và do thay đổi phương thức sản
xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi cả những quan hệ xã hội
của mình. Cái cối xay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy
bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”. (C.Mác và Ph.
Ăngghen toàn tập, Tập 4, NXB CTQG, H, 1995). Đồng chí hãy giải thích
luận điểm trên và nói rõ yêu cầu đối với việc phát triển lực lượng sản xuất ở
nước ta hiện nay?
Trả lời:
Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử thay đổi của các phương
thức sản xuất. Sự thay đổi này bắt đầu từ sự thay đổi lực lượng sản xuất - là nội
dung, là quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất là hình thức của quá trình sản xuất.
Hình thức của sản xuất bao giờ cũng ổn định hơn. C.Mác và Ph. Ăngghen đã
đưa ra nhận định: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực
lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người đã thay
đổi phương thức sản xuất của mình. Và do thay đổi phương thức sản xuất, cách
kiếm sống của mình, loài người thay đổi cả những quan hệ xã hội của mình. Cái
cối xay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa
lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”. Như vậy, theo Mác, lực lượng sản xuất
xét đến cùng là cái đóng vai trò quyết định trong việc thay đổi phương thức sản
xuất dẫn đến thay đổi toàn bộ quan hệ xã hội.
Để làm rõ luận điểm này, chúng ta cần làm rõ hơn về khái niệm về lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và mối quan hệ biên chứng giữa chúng.
- Theo Chủ nghĩa Mác – Lê nin: Phương thức sản xuất là sự thống nhất
giữa lược lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Mối xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định đều có phương thức sản xuất
của nó với những đặc điểm riêng. Mỗi phương thức sản xuất đều có hai phương
diện cơ bản của nó là kỹ thuật và kinh tế. Về phương diện kỹ thuật của phương
thức sản xuất là chỉ quá trình sản xuất được tiến hành bằng cách thức kỹ thuật,
công nghệ nào để biến đổi các đối tượng lao động. Về phương diện kinh tế của


phương thức sản xuất là chỉ quá trình sản xuất được tiến hành với những cách
thức tổ chức kinh tế nào. Trong các xã hội nông nghiệp truyền thống, phương
thức kỹ thuật chủ yếu của quá trình sản xuất là các công cụ kỹ thuật thủ công
với quy mô nhỏ và khép kín về phương diện kinh tế. Ngược lại, trong các xã hội
hiện đại, quá trình sản xuất được tiến hành với phương thức kỹ thuật công
nghiệp và tổ chức kinh tế thị trường với quy mô ngày càng mở rộng.
- Lực lượng sản xuất là phương thức kết hợp giữa người lao động với tư
liệu sản xuất trong sản xuất vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm: Người lao
động (như năng lực, kỹ năng, tri thức ) và các tư liệu sản xuất (gồm đối tượng
lao động và tư liệu lao động) trong đó nhân tố người lao động giữ vai trò quyết
định. Sở dĩ như vậy là vì xét đến cùng các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao
động của con người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất
phụ thuộc vào trình độ sử dụng của người lao động. Trong tư liệu sản xuất, nhân
tố công cụ lao động do con người sáng tạo ra phản ánh rõ nhất trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Ngày nay, với sự phát triển và ứng dụng nhanh
chóng những thành tựu của khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào quá
trình sản xuất làm cho các tri thức khoa học kỹ thuật trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển và chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang
nền kinh tế tri thức.
Lực lượng sản xuất phản ánh quan hệ giữa con người với giới tự nhiên
trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất là nhân tố cơ bản, tất yếu tạo thành
nội dung vật chất của quá trình sản xuất. Thế nhưng, chỉ có lực lượng sản xuất
vẫn chưa thể diễn ra quá trình sản xuất hiện thực. Để quá trình sản sản xuất diễn
ra còn phải có những quan hệ sản xuất đóng vai trò là hình thức kinh tế của quá
trình sản xuất ấy.
- Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế giữa người và người trong quá trình
sản xuất.
Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ
trong tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm. Những quan hệ
sản xuất này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và chi phối, tác động lẫn nhau,

trong đó quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất giữa vaitrò quyết định.
- Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất là mối quan hệ
thống nhất biện chứng trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất, trong đó lực
2
lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất
là hình thức kinh tế của quá trình đó.
Trong quá trình sản xuất, không thể có sự kết hợp các yếu tố sản xuất diễn
ra bên ngoài những hình thức kinh tế nhất định; ngược lại cũng không có quá
trình sản xuất nào lại có thể diễn ra chỉ với những quan hệ sản xuất mà không có
nội dung vật chất của nó. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong
tính quy định lẫn nhau, thống nhất với nhau.
Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân
theo nguyên tắc khách quan: quan hệ sản xuất phụ thuộc vào thực trạng phát
triển của lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Vai trò quyết
định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất được thể hiện ở chỗ:
- Lực lượng sản xuất thế nào thì quan hệ sản xuất phải thế ấy tức là quan hệ
sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Khi lực
lượng sản xuất biến đổi quan hệ sản xuất sớm muộn cũng phải biến đổi theo.
Lực lượng sản xuất quyết định cả ba mặt của quan hệ sản xuất tức là quyết định
cả về chế độ sở hữu, cơ chế tổ chức quản lý và phương thức phân phối sản
phẩm.
Tuy nhiên, quan hệ sản xuất với tư cách là hình thức kinh tế của quá trình
sản xuất luôn có tác động trở lại lực lượng sản xuất. Sự tác động này diễn ra
theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào tính phù hợp
hay không phù hợp của quan hệ sản xuất với thực trạng của lực lượng sản xuất.
- Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất sẽ tạo ra tác động
tích cực, thúc đẩy và tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.

- Nếu không phù hợp sẽ tạo ra tác động tiêu cực, tức là kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ
thống nhất có bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập và phát sinh
mâu thuẫn.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thống nhất với nhau trong một
phương thức sản xuất, tạo nên sự ổn định tương đối, đảm bảo sự tương thích
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, tạo điều kiện cho sản xuất phát
triển.
3
Lực lượng sản xuất không ngừng biến đổi, phát triển, tạo ra khả năng phá
vỡ sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất làm xuất hiện nhu
cầu khách quan phải tái thiết lập quan hệ thống nhất giữa chúng theo nguyên tắc
quan hệ sản xuất phải phù hợp với yêu cầu phát triển của lực
lượng sản xuất. Sự vận động của mâu thuẫn này tuân theo quy luật “từ sự
thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chất và ngược lại”, “quy luật phủ định
của phủ định”, khiến cho quá trình phát triển của sản xuất xã hội vừa diễn ra với
tính chất tiệm tiến, tuần tự lại vừa có tính nhảy vọt với những bước đột biến, kế
thừa và vượt qua của nó ở trình trình độ ngày càng cao hơn.
Sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất là nguồn gốc và động lực cơ bản của sự vận động, phát triển các
phương thức sản xuất. Nó là cơ sở để giải thích một cách khoa học vềnguồn gốc
sâu xa của toàn bộ hiện tượng xã hội và sự biến động trong đời sống chính trị,
văn hóa của xã hội.
* C.Mác nói: “Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa”. Cái
cối xay ở đây chính là một loại công cụ lao động. Vậy công cụ lao động là
gì? Công cụ lao động là hệ thống xương cốt và bắp thịt của
sản xuất, trong quá trình sản xuất công cụ lao động luôn luôn được cải tiến. Nól
à yếu tố độcnhất và cách mạng nhất của lực lượng sản xuất. Cùng với cải tiến v
à hoàn thiện công cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất của loài người cũng đượ

c
phát triển thêm, những ngành sản xuất mới xuất hiện, sự phân công lao động phá
t triển. Công cụ lao động được nói tới ở đây là cái cối xay quay bằng
tay, một loại cối xay thô sơ và lạc hậu như vậy thì chắc chắn năng suất mà
nó tạo ra là rất thấp. Như chúng ta đã biết năng suất lao động xã hội là thước
đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất . Năng suất lao đông thấp thì lực
lưọng sản xuất có thể nói là lực lượng sản xuất thủ công. Mà lực
lượng sản xuất lại quyết định quan hệsản xuất nên từ đó suy ra quan hệ sản xuất
ở đây là bóc lột sản phẩm thặng dư. Nhắc tới giá
trị thặng dư, giá trị thặng dư được Mác xem là phần chênh lệch giữa
giá tri hàng hoá và số tiền của nhà tư bản bỏ ra. Trong quá trình
kinh doanh, nhà tư bản bỏ ra tư bản dưới hình thức tư liệu sản xuất gọi là tư
bản
bất biến và bỏ ra tư bản để thuê mướn lao động gọi là tư bản khả biến. Tuy
nhiên, người lao động đã đưa vào hàng hoá một giá
trị lớn hơn số tư bản khả
4
biến mà nhà tư bản trả cho người lao động. phần dư đó gọi là
giá trị thặng dư.
Trong câu nói trên của Mác thì quan hệ sản xuất ở đây là sự mâu thuẫn
giữa nông dân và địa chủ.

Đảng nhận định nước ta là nước nông nghiệp, nông
dân chiếm hơn 90% số dân, chủ nghĩa đế quốc
dựa vào chế độ phong kiến để
bóc lột nhân dân, chủ yếu là
bóc lột nông dân. “Hình thái kinh tế - xã hội ra đời
trên sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ hay chế độ công xã nguyên thuỷ.
Đặc
điểm chung của chế độ phong kiến là giai cấp địa chủ phong kiến nắm quyề

n
sở hữu phần lớn ruộng đất (gồm cả sở hữu tư nhân và sở hữu nhà nước) và
tiến
hành bóc lột địa tô (dưới nhiều hình thức như tô lao dịch, tô sản phẩm, tô ti
ền
hay những hình thức kết hợp) đối với nông dân không có hay có ít ruộng đấ
t
(dưới những hình thức và mức độ lệ thuộc khác nhau). Xã hội phân hoá thà
nh
những giai cấp và đẳng cấp khác nhau. Hệ thống chính trị có thể là phân qu
yền
cát cứ hay tập quyền theo chính thể quân chủ. Cơ sở kinh tế chủ yếu là nôn
g
nghiệp dựa trên sản xuất nhỏ của nông dân, những giai đoạn cuối, kinh tế h
àng
hoá phát triển mạnh dẫn đến sự ra đời của kết cấu kinh tế - xã hội tư bản ch

nghĩa. Tuy nhiên, trong từng nước và từng khu vực, chế độ phong kiến man
g
những đặc điểm riêng của những loại hình khác nhau. Kinh tế lãnh địa, giai
cấp
5
lãnh chúa và nông nô, hệ thống đẳng cấp dựa
trên quan hệ lãnh chúa - chư hầu,
tình trạng cát cứ kéo dài, được coi là những đặc điểm của
chế độ phong kiến”.
Như vậy, qua câu nói đó của Mác ta hiểu rằng từ một lực lượng sản xuất
mà cụ thể là
công cụ lao động sẽ tạo ra một quan hệ sản xuất để từ đó hình thành
một chế độ chính trị cho xã hội. Mà cụ thể ở đây là

từ cái cối xay quay bằng tay
thuộc lực lượng sản xuất thủ công đưa tới một quan hệ sản xuất là
bóc lột sản
phẩm thặng dư. Mà mâu thuẫn xảy ra ở đây là giữa nông dân và địa
chủ để từ đó
đưa đến một xã hội có lãnh chúa phong kiến.
* C.Mác nói : “Cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư
bản công nghiệp”. Nếu ở trên công cụ là cối xay quay bằng tay thì ở đây là
cái
cối xay chạy bằng hơi nước. Công cụ lao động ở đây đã có bước phát triển
không phải dùng sức người nữa mà chạy bằng hơi nước như vậy chắc
chắn sẽ
cho năng suất cao hơn. Như vậy lực lượng sản xuất ở đây là
lực lượng sản xuất
đại cơ khí. Lực
lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất cũ cũng không còn
phù hợp nữa. Lực lượng sản xuất phát triển lên lực
lượng sản xuất đại cơ khí thì
kéo theo quan hệ sản xuất lên thành quan hệ sản xuất bóc
lột giá trị thặng dư.
Các nhà kinh tế
học thường cho rằng mọi công cụ lao động, mọi tư liệu sản xuất
đều là tư bản. Thực ra bản thân tư liệu sản xuất không phải là
tư bản, nó chỉ là
yếu tố cơ bản của sản xuất trong bất cứ xã hội nào. Tư liệu sản xuất chỉ trở
thành tư bản khi nó trở thành tài sản của các nhà tư bản và được dùng để
bót lột lao động làm thuê. Ta có thể định nghĩa chính xác tư bản là giá
6
trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc
lột công nhân làm thuê. Giá trị thặng dư, phần giá trị do

lao động của công nhân làm thuê sáng tạo ra
ngoài sức lao động và tư bản chiếm
không.Chính vì vậy mà sản xuất giá trị thặng dư tối đa
cho nhà tư bản là nội
dung chính của quy luật thặng dư. Nó quyết định đến sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản và sự thay thế nó bằng một xã hội khác cao hơn là quy luật
vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Ở đây quan hệ sản xuất là sự mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản. “Giai cấp
vô sản vừa là động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền, vừa là
giai cấp
lãnh đạo cách mạng. Dân cày là lực lượng đông đảo nhất và là lực
lượng mạnh
nhất của cách mạng. Tư sản thương nghiệp thì đứng về phe đế quốc và địa
chủ
chống lại cách mạng, còn tư sản công nghiệp thì đứng về phe quốc gia cải
lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo đế
quốc. Trong giai cấp tiểu
tư sản, bộ phận tiểu thủ công nghiệp thì có thái độ do dự, tiểu tư sản thương
gia
thì không tán thành cách mạng, tiểu tư sản trí thức thì có xu hướng quốc gia
chủ
nghĩa và chỉ có thể hăng hái tham gia chống đế quốc trong thời kì đầu”. Xã
hội
có tư sản và vô sản là thuộc chế độ tư bản chủ nghĩa.
Như vậy, cái cối xay chạy bằng hơi nước thuộc lực lượng sản xuất đại cơ
khí đưa tới một quan hệ sản xuất là bóc lột giá trị thặng dư. Mà
mâu thuẫn ở đây là giữa vô sản và tư sản để từ đó đưa đến một xã hội có nhà
tư bản công nghiệp.
* Ý nghĩa đối với nước ta
- Thời kỳ trước đổi mới

+ Không vận dụng đúng đắn quy luật QHSX phù hợp với trình độ của
LLSX.
+ Chủ quan duy ý chí trong việc xác lập một QHSX đồng nhất và quá cao
so với trình độ LLSX vừa thấp vừa không đồng đều, từ đó dẫn đến sự trì trệ
7
trong phát triển kinh tế- xã hội. Năm 1986, lạm phát lên tới 774,7%, sản xuất
đình đốn, đời sống nhân dân khó khăn. Biểu hiện nóng vội, chủ quan trong xây
dựng HTX nông nghiệp, trong cải tạo công thương,v.v…
+ Chế độ sở hữu, thực chất chỉ tồn tại sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân bị
xóa bỏ.
+ Phân phối bình quân, tem phiếu.
+ Quan hệ tổ chức quản lý thì thực hiện mệnh lệnh, hành chính quan liêu,
do cơ quan nhà nước hoạch định.
Tuy nhiên, vì bản thân các QHSX mang tính khách quan, cho nên dù con
người cố tình tạo ra QHSX đó nhưng theo quy luật khách quan phải phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX thì tất yếu QHSX không phù hợp đó tự bộc lộ mâu
thuẫn buộc chúng ta phải nhận thức lại cách vận dụng.
- Từ khi đổi mới đến nay
+ Đổi mới tư duy, trước hết là tư duy về kinh tế. Thực chất chúng ta đã
nhận thức lại quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của
LLSX, nhằm tạo ra sự phù hợp giữa LLSX với QHSX mới, giải phóng sức sản
xuất xã hội.
+ Ở nước ta trình độ llsx vừa thấp kém, vừa không đồng đều. Chính tính
không đồng đều này quy định phải có nhiều loại hình QHSX cho phù hợp, nghĩa
là phải có nhiều hình thức sở hữu, nhiều hình thức tổ chức kinh doanh, phân
phối. Vì vậy, chúng ta phát triển kinh tế nhiều thành phần, khai thác tiềm năng
của mọi nguồn lực vào sản xuất.
+ Biến đổi chủ yếu về quan hệ sở hữu. Thừa nhận nhiều hình thức sở hữu.
Thừa nhận các hình thức khác nhau của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nước
ta.

+ Đổi mới căn bản về quan hệ quản lý. Đoạn tuyệt với cơ chế kế
hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh thế thị trường định hướng XHCN.
+ Điều chỉnh căn bản về quan hệ phân phối. Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ VIII đã nêu lên nguyên tắc: Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân
phối theo lao động, theo mức đóng góp các nguồn lực khác nhau vào kết quả sản
xuất kinh doanh và phân phối theo phúc lợi xã hội là cơ bản.
- Trong điều kiện hiện nay
+ LLSX: con người trình độ thấp; công cụ vẫn thủ công, cơ khí;
+ QHSX đã có nhiều biến đổi, song vẫn đang trong quá trình hình thành,
biến đổi nên còn nhiều vấn đề bất cập, nhiều biểu hiện phức tạp, tác động
không nhỏ tới quá trình phát triển đất nước theo định hướng XHCN.
8
Những thuận lơi, khó khăn:
• Thuận lợi: Sự lãnh đạo của Đảng; tinh thần lao động cần cù, chịu khó của
nhân dân; tiếp thu kinh nghiệm của các nước; sự phát triển của cách mạng khoa
học và công nghệ, của toàn cầu hoá…
• Khó khăn: Nước ta chưa có kinh nghiệm phát triển kinh tế nhiều thành
phần; tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, của toàn cầu hoá; sự yếu kém
về trình độ khoa học công nghệ của nước ta; sự chống phá của các thế lực thù
địch
Những biện pháp cơ bản
Đại hội X làm sáng rõ hơn những vấn đề lý luận liên quan đến xây dựng
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với 4 nội dung cơ bản là:
- Nắm vững định hướng XHCN trong nền KTTT ở nước ta hiện nay.
- Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước bộ máy nhà nước phải
thích ứng với vai trò mới theo hướng:
+ Nhà nước tập trung làm tốt các chức năng vĩ mô như định hướng bằng
các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, cơ chế, chính sách có chất lượng trên cơ sở
tôn trọng các nguyên tắc của thị trường; tạo môi trường cho các chủ thể phát huy
tối đa các nguồn lực ; hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội; bảo đảm

tính bền vững và tích cực của các cân đối vĩ mô ;
+ Nhà nước tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách
và các công cụ kinh tế;
+ Thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can
thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp.
+ Tách chức năng quản lý hành chính của Nhà nước ra khỏi chức năng
quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, xóa bỏ "chế độ chủ quản";
+ Tách hệ thống hành chính ra khỏi hệ thống các cơ quan đơn vị hoạt động
sự nghiệp;
- Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thị
trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh.
Cùng với việc khẳng định vai trò to lớn của kinh tế nhà nước, Đại hội Đảng
X cũng tuyên bố rõ ràng rằng: "Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật
đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN, bình
đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh"
9
Đảng lãnh đạo Nhà nước thi hành các chính sách kinh tế không phân biệt đối xử
với các hình thức sở hữu. Đây là một bước tiến mới về quan điểm kinh tế nhiều
thành phần của Đại hội Đảng X so với các Đại hội trước đây. Hơn nữa, Đại hội
chủ trương đưa hệ thống doanh nghiệp nhà nước ra hoạt động trong môi trường
công khai, minh bạch, cạnh tranh thực sự, xóa bỏ độc quyền, đặc quyền sản
xuất, kinh doanh và buộc các doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động hiệu quả
mới được tồn tại. Nói cách khác, Đảng quán triệt quan điểm doanh nghiệp nhà
nước chỉ nên tồn tại ở những nơi có hiệu quả cá biệt hoặc hiệu quả kinh tế quốc
dân, nghĩa là tính ưu việt của QHSXXHCN phải được chứng minh trong môi
trường bình đẳng với các quan hệ sản xuất khác.
- Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức kinh doanh.
Thành phần kinh tế là tổng hợp sức mạnh có tổ chức của lực lượng kinh tế
dựa trên một chế độ sở hữu nhất định. Thành phần kinh tế nhà nước dựa trên sở
hữu toàn dân do Nhà nước đại diện, xuất hiện dưới hình thức sở hữu nhà nước.

Thành phần kinh tế tập thể dựa trên sở hữu của tư nhân. Đại hội lần X chỉ rõ hai
thành phần kinh tế đặc biệt, đó là thành phần kinh tế tư bản nhà nước dựa trên
sở hữu hỗn hợp giữa Nhà nước XHCN và tư bản tư nhân.
Hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh là sự tập hợp tư liệu sản xuất dưới
một hình thức nào đó được pháp luật thừa nhận để trực tiếp tiến hành sản xuất,
kinh doanh. Nói cách khác, đó là các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Một
doanh nghiệp có thể dựa trên một hoặc nhiều hình thức sở hữu, là công cụ trong
tay thành phần kinh tế đầu tư vốn vào doanh nghiệp để phục vụ cho mục tiêu
của chủ đầu tư. Đặc biệt, Đại hội Đảng lần X nhấn mạnh tầm quan trọng của
loại hình doanh nghiệp cổ phần, coi chúng là hình thức doanh nghiệp phổ biến.
Thông qua các doanh nghiệp, thông qua các tổ chức đại diện cho chế độ sở hữu,
các thành phần kinh tế phát huy vai trò của mình trong nền kinh tế. Đại hội nhấn
mạnh tầm quan trọng của doanh nghiệp, doanh nhân trong phát triển kinh tế và
tôn vinh những doanh nhân có tài, có đức, thành đạt, làm giàu cho mình và cho
Tổ quốc. Cùng với chính sách cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân và
quyết định của Nhà nước coi ngày 13-10 hàng năm là ngày doanh nhân, Đảng,
Nhà nước ta đã chính thức thừa nhận vai trò to lớn của doanh nghiệp, doanh
nhân nói chung, doanh nghiệp, doanh nhân tư nhân nói riêng.
Câu 2: Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011)….đã định hướng về phát triển kinh
tế: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình
10
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và
hình thức phân phối” (Văn kiện ĐH XI, tr.73)
Hãy giải thích cơ sở khoa học của định hướng trên đây, nêu rõ những
khó khăn, thuận lợi và những biện pháp cơ bản để thực hiện định hướng
này?
Trả lời
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung,
phát triển năm 2011), Đảng ta đưa ra định hướng về phát triển kinh tế là: “Phát

triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối”.
Định hướng trên của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, nó hoàn toàn phù hợp với
quy luật QHSX- LLSX và đặc điểm, hoàn cảnh của nước ta.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất là qui luật cơ bản của Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Sự mâu
thuẫn hay phù hợp giữa QHSX và LLSX đều có ảnh hưởng rất lớn tơí nền kinh
tế. Sự hài giữa LLSX và QHSX sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Nói cách
khác Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất là một điều kiện tất yếu để phát triển một nền kinh tế của mỗi quốc gia.
LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình
sản xuất. Trong quá trình sản xuất, con người kết hợp sức lao động của mình
với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động tạo thành sức mạnh khai thác
giới tự nhiên, làm ra sản phẩm cần thiết cho cuộc sống của mình.
Nói cách khác, LLSX là năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con
người nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình. Lực lượng sản xuất là sự kết
hợp người lao động và tư liệu sản xuất, trong đó "lực lượng sản xuất hàng đầu
của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động". Chính người lao động
là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động
của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào
đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất.
Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của
lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao
động do con người sáng tạo ra, là "sức mạnh của tri thức đã được vật thể hóa",
nó "nhân" sức mạnh của con người trong quá trình lao động sản xuất. Công cụ
lao động là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất. Cùng với quá trình tích luỹ
kinh nghiệm, với những phát minh và sáng chế kỹ thuật, công cụ lao động
không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Chính sự cải tiến và hoàn thiện không
11
ngừng công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét đến cùng,

đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của công
cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu
chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày
càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực
mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến
mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất,
trong đời sống và trở thành "lực lượng sản xuất trực tiếp". Sức lao động đặc
trưng cho lao động hiện đại không còn chỉ là kinh nghiệm và thói quen của họ
mà là tri thức khoa học. Có thể nói: khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng
cho lực lượng sản xuất hiện đại.
Trình độ LLSX biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Khái
niệm trình độ của LLSX nói lên khả năng của con người thông qua việc sử dụng
công cụ lao động thực hiện quá trình cải biến tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự
sinh tồn và phát triển của mình. Trình độ LLSX thể hiện ở: Trình độ công cụ lao
động, trình độ quản lý xã hội trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất,
kinh nghiệm và kỹ năng của con người và trình độ phân công lao động. LLSX
nói lên năng lực thực tế của con người trong quá trình sản xuất tạo nên của cải
cho xã hội đảm bảo sự phát triển của con người. LLSX bao gồm người lao động
với kỹ năng lao động và tư liệu sản xuất. Trong quá trình sản xuất công cụ lao
động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất thì tư liệu lao
động được hoàn thiện nhằm đạt được năng suất lao động cao. Trong tư liệu lao
động tức là tất cả các yếu tố vật chất mà con người sử dụng để tác động vào đối
tượng lao động thì công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất linh hoạt nhất.
Bởi vậy khi công cụ lao động đã đạt đến trình độ tin học hoá được tự động hoá
thì vai trò của nó lại càng quan trọng. Trong mọi thời đại công cụ sản xuất luôn
là yếu tố đông nhất của LLSX.
Chính sự chuyển đổi cải tiến và hoàn thiện không ngừng của nó đã gây lên
những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản xuất. Trình độ phát triển công
cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Tuy nhiên

LêNin viết: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân,
người lao Trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình con người dù muốn
hay không cũng buộc phải duy trì những quan hệ nhất định với nhau để trao đổi
hoạt động sản xuất cũng như kết quả lao động những QHSX này mang tính tất
yếu. Như vậy QHSX do con người tạo ra song nó được hình thành một cách
12
khách quan không phụ thuộc vào ý muốn của bất kỳ ai. Việc phải thiết lập các
mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là vấn đề có tính quy luật tất yếu, khách
quan của sự vận động xã hội.
Với tính chất là những quan hệ kinh tế khách quan không phụ thuộc vào ý
muốn của con người, QHSX là những quan hệ mang tính vật chất của đời sống
xã hội. QHSX là hình thức xã hội của LLSX và là cơ sở của đời sống xã hội.
Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt:
Quan hệ sở hữu về tư liêu sản xuất tức là quan hệ giữa người với tư liệu
sản xuất. Tính chất của QHSX trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối
với tư liệu sản xuất – Biểu hiện thành chế độ sở hữu. Trong hệ thống các QHSX
thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có vai trò quyết định đối với các quan hệ
xã hội khác. Trong các hình thái kinh tế xã hội mà loài người đã từng trải qua,
lịch sử đã được chứng kiến sự tồn tại của 2 loại hình sở hữu cơ bản đối với tư
liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu công cộng là loại
hình mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của cộng đồng. Do tư
liệu sản xuất là tài sản chung của cả cộng đồng nên các quan hệ xã hội trong sản
xuất và trong đời sống xã hội nói chung trở thành quan hệ hợp tác giúp đỡ nhau.
Ngược lại trong các chế độ tư hữu do tư liệu sản xuất chỉ nằm trong tay một số
người nên của cải xã hội không thuộc về số đông mà thuộc về một số ít người
các quan hệ xã hội do vậy bất bình đẳng.
Quan hệ tổ chức và quản lý kinh doanh sản xuất: Tức là quan hệ giưã
người với người trong sản xuất và trong trao đổi của cải vật chất. Trong hệ
thống các QHSX các quan hệ về mặt tổ chức quản lý sản xuất là các quan hệ có
khả năng quyết định một cách quy mô tốc độ hiệu quả và xu hướng mỗi nền sản

xuất cụ thể đi ngược lại các quan hệ quản lý và tổ chức có thể làm biến dạng
quan hệ sở hữu ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế xã hội.
Quan hệ phân phối sản phẩm tức là quan hệ với nhau cùng mục tiêu chung
là sử dụng hợp lý và có hiệu qủa tư liệu sản xuất để làm cho chúng không ngừng
được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng nâng cao phúc lợi cho người
lao động. Bên cạnh các quan hệ về mặt tổ chức quản lý,trong hệ thống quan hệ
sản xuất, các quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng là những nhân
tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế. Quan
hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu của sản xuất nhưng ngược lại
nó có khả năng kìm hãm sản xuất kìm hãn sự phát triển của xã hội. Nêu xét
riêng trong phạm vi một QHSX nhất định thì tính chất sở hữu quyết định tính
chất của quản lý và phân phối. Mặt khác trong mỗi hình thái kinh tế xã hội nhất
13
định quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các QHSX
khác, ít nhiều cải biến chúng để chẳng những chung không đối lập mà phục vụ
đắc lực cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế xã hội mới.
QHSX và LLSX là hai mặt của phương thức sản xuất, sự tác động lẫn nhau
giữa LLSX và QHSX biểu hiên mối quan hệ mang tính chất biện chứng. Chính
sự thống nhất và tác động giữa QHSX và LLSX đã hình thành nên quy luật về
sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ p.triển của LLSX.
LLSX là nhân tố thường xuyên biến đổi và phát triển. Ngược lại QHSX
thường có tính ổn định trong một thời gian dài. Sự biến đội của lực lượng sản
xuất có nhiều nguyên nhân: Bản thân người lao động thì những kỹ năng và kinh
nghiệm không ngừng tích luỹ và tăng lên. Bản thân tri thức khoa học tri thức
công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sự ổn định của quan hệ sản
xuất là nhu cầu khách quan để có thể sản xuất được.
Chính vì vậy mà sự phát triển của LLSX đến một giới hạn nhất định sẽ đặt
ra nhu cầu xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ và hiện có. Việc xoá bỏ QHSX cũ thay nó
bằng động” có thể coi yếu tố quan trọng nhất trong LLSX chính là con người.
Để tiến hành quá trình sản xuất nhất định con người phải có mối quan hệ

với nhau. Tổng thể những mối quan hệ này gọi là QHSX. Nói cách khác QHSX
là quan hệ giữa người với người trong sản xuất.
Một QHSX mới cũng có nghĩa là diệt vong cả một phương thức sản xuất
lỗi thời và sự ra đời của một phương thức sản xuất mới. Sự xoá bỏ các hình thức
QHSX hiện có không phải là tự thân mà phải thông qua một phương thức chính
trị và pháp quyền mà phương thức pháp quyền là trực tiếp. Những QHSX cũ và
hiện có từ chỗ là hình thức kinh tế cần thiết để đảm bảo duy trì khai thác, phát
triển của lực lượng sản xuất giờ đây trở thành những hình thức kìm hãm sự phát
triển đó như C. Mác đã nhận định “Từ một giai đoạn phát triển nào đó của
chúng các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ
sản xuất hiện có trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn tiếp tục
phát triển.
Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất những quan hệ
ấy trở thàng những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời
đại một cuộc cách mạng xã hội”. Đó cũng chính là nội dung quy luật về sự phù
hợp của QHSX với trình độ phát triển nhất định của LLSX. Thực tiễn cho thấy
rằng lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi có một quan hệ sản xuất hợp lý
đồng bộ phù hợp với nó. QHSX lạc hậu hơn hoặc vượt quá xa cũng sẽ kìm hãm
sự phát triển của lực lượng sản xuất.
14
Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã bộc lộ gay
gắt đòi hỏi phải giải quyết nhưng còn lực lượng sản xuất người không phát hiện
được cũng như mâu thuẫn được phát hiện mà không giải quyết được hoặc giải
quyết một cách sai lầm thì tác dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất sẽ trở thành
nhân tố phá hoại đối với lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên bên cạnh đó, chúng ta không nên tuyệt đối hoá vai trò của lực
lượng sản xuất mà bỏ qua sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với nó khi
giữa chúng có sự phù hợp. Đôi khi sự phát triển chệch hướng của quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
do yếu tố chủ quan, chứ không phải do tính chất đặc thù của q.luật đó.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh vai trò quyết định của lực lượng
sản xuất đối với quan hệ sản xuất song nó cũng chỉ rõ rằng quan hệ sản xuất bao
giờ cũng thể hiện tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất. QHSX tác động
trở lại lực lượng sản xuất, nó là yếu tố q.định là tiền đề cho lực lượng sản xuất
p.triển khi nó phù hợp với tr.độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nó làm nhiệm
vụ chỉ ra mục tiêu bước đi và tạo quy mô thích hợp cho lực lượng sản xuất hoạt
động, cũng như đảm bảo lợi ích chính đáng cho người lao động phát huy tính
tích cực sáng tạo cho con người là nhân tố quan trọng và quyết định trong lực
lượng sản xuất.
Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng
sản xuất vì nó quyết định mục đích sản xuất, quy định hệ thống quản lý sản xuất
và quản lý xã hội quy định phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao
động được hưởng. Do đó nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế
sự phát triển của công cụ sản xuất áp dụng thành tựu khoa học và sản xuất hợp
tác phân công lao động.
Từ nội dung quy luật chỉ ra, có thể thấy, ở nước ta trình độ LLSX vừa thấp
kém, vừa không đồng đều. Chính trình độ và tính không đồng đều này quy định
phải có nhiều loại hình QHSX cho phù hợp, nghĩa là phải có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều hình thức tổ chức kinh doanh, phân phối. Việc phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối ở nước ta có cả những
thuận lợi, cả những khó khăn đan xen.
Thuận lợi, chúng ta có sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; tinh
thần lao động cần cù, chịu khó của nhân dân; tiếp thu kinh nghiệm của các nước;
sự phát triển của cách mạng khoa học và công nghệ, của toàn cầu hoá cũng đem
lại nhiều thời cơ mới…
15
Khó khăn, nước ta chưa có kinh nghiệm phát triển kinh tế nhiều thành
phần; tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, của toàn cầu hoá; sự yếu kém
về trình độ khoa học công nghệ của nước ta; sự chống phá của các thế lực thù

địch
Để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức
phân phối, đòi hỏi phải làm tốt một số biện pháp: Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, quản lý của nhà nước; Phát triển LLSX, phát triển giáo dục, đào tạo, khoa
học công nghệ; Tiếp tục hoàn thiện QHSX (đa dạng hoá các hình thức sở hữu;
củng cố sở hữu nhà nước, tập thể…), khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường…
Ý nghĩa đối với nước ta
- Thời kỳ trước đổi mới
+ Không vận dụng đúng đắn quy luật QHSX phù hợp với trình độ của
LLSX.
+ Chủ quan duy ý chí trong việc xác lập một QHSX đồng nhất và quá cao
so với trình độ LLSX vừa thấp vừa không đồng đều, từ đó dẫn đến sự trì trệ
trong phát triển kinh tế- xã hội. Năm 1986, lạm phát lên tới 774,7%, sản xuất
đình đốn, đời sống nhân dân khó khăn. Biểu hiện nóng vội, chủ quan trong xây
dựng HTX nông nghiệp, trong cải tạo công thương,v.v…
+ Chế độ sở hữu, thực chất chỉ tồn tại sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân bị
xóa bỏ.
+ Phân phối bình quân, tem phiếu.
+ Quan hệ tổ chức quản lý thì thực hiện mệnh lệnh, hành chính quan liêu,
do cơ quan nhà nước hoạch định.
Tuy nhiên, vì bản thân các QHSX mang tính khách quan, cho nên dù con
người cố tình tạo ra QHSX đó nhưng theo quy luật khách quan phải phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX thì tất yếu QHSX không phù hợp đó tự bộc lộ mâu
thuẫn buộc chúng ta phải nhận thức lại cách vận dụng.
- Từ khi đổi mới đến nay
+ Đổi mới tư duy, trước hết là tư duy về kinh tế. Thực chất chúng ta đã
nhận thức lại quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của
LLSX, nhằm tạo ra sự phù hợp giữa LLSX với QHSX mới, giải phóng sức sản
xuất xã hội.

+ Ở nước ta trình độ llsx vừa thấp kém, vừa không đồng đều. Chính tính
không đồng đều này quy định phải có nhiều loại hình QHSX cho phù hợp, nghĩa
16
là phải có nhiều hình thức sở hữu, nhiều hình thức tổ chức kinh doanh, phân
phối. Vì vậy, chúng ta phát triển kinh tế nhiều thành phần, khai thác tiềm năng
của mọi nguồn lực vào sản xuất.
+ Biến đổi chủ yếu về quan hệ sở hữu. Thừa nhận nhiều hình thức sở hữu.
Thừa nhận các hình thức khác nhau của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nước
ta.
+ Đổi mới căn bản về quan hệ quản lý. Đoạn tuyệt với cơ chế kế
hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh thế thị trường định hướng XHCN.
+ Điều chỉnh căn bản về quan hệ phân phối. Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ VIII đã nêu lên nguyên tắc: Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân
phối theo lao động, theo mức đóng góp các nguồn lực khác nhau vào kết quả sản
xuất kinh doanh và phân phối theo phúc lợi xã hội là cơ bản.
- Trong điều kiện hiện nay
+ LLSX: con người trình độ thấp; công cụ vẫn thủ công, cơ khí;
+ QHSX đã có nhiều biến đổi, song vẫn đang trong quá trình hình thành,
biến đổi nên còn nhiều vấn đề bất cập, nhiều biểu hiện phức tạp, tác động
không nhỏ tới quá trình phát triển đất nước theo định hướng XHCN.
Những thuận lơi, khó khăn:
• Thuận lợi: Sự lãnh đạo của Đảng; tinh thần lao động cần cù, chịu khó của
nhân dân; tiếp thu kinh nghiệm của các nước; sự phát triển của cách mạng khoa
học và công nghệ, của toàn cầu hoá…
• Khó khăn: Nước ta chưa có kinh nghiệm phát triển kinh tế nhiều thành
phần; tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, của toàn cầu hoá; sự yếu kém
về trình độ khoa học công nghệ của nước ta; sự chống phá của các thế lực thù
địch
Những biện pháp cơ bản
Đại hội X làm sáng rõ hơn những vấn đề lý luận liên quan đến xây dựng

thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với 4 nội dung cơ bản là:
- Nắm vững định hướng XHCN trong nền KTTT ở nước ta hiện nay.
- Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước bộ máy nhà nước phải
thích ứng với vai trò mới theo hướng:
+ Nhà nước tập trung làm tốt các chức năng vĩ mô như định hướng bằng
các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, cơ chế, chính sách có chất lượng trên cơ sở
tôn trọng các nguyên tắc của thị trường; tạo môi trường cho các chủ thể phát huy
17
tối đa các nguồn lực ; hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội; bảo đảm
tính bền vững và tích cực của các cân đối vĩ mô ;
+ Nhà nước tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách
và các công cụ kinh tế;
+ Thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can
thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp.
+ Tách chức năng quản lý hành chính của Nhà nước ra khỏi chức năng
quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, xóa bỏ "chế độ chủ quản";
+ Tách hệ thống hành chính ra khỏi hệ thống các cơ quan đơn vị hoạt động
sự nghiệp;
- Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thị
trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh.
Cùng với việc khẳng định vai trò to lớn của kinh tế nhà nước, Đại hội Đảng
X cũng tuyên bố rõ ràng rằng: "Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật
đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN, bình
đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh"
Đảng lãnh đạo Nhà nước thi hành các chính sách kinh tế không phân biệt đối xử
với các hình thức sở hữu. Đây là một bước tiến mới về quan điểm kinh tế nhiều
thành phần của Đại hội Đảng X so với các Đại hội trước đây. Hơn nữa, Đại hội
chủ trương đưa hệ thống doanh nghiệp nhà nước ra hoạt động trong môi trường
công khai, minh bạch, cạnh tranh thực sự, xóa bỏ độc quyền, đặc quyền sản
xuất, kinh doanh và buộc các doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động hiệu quả

mới được tồn tại. Nói cách khác, Đảng quán triệt quan điểm doanh nghiệp nhà
nước chỉ nên tồn tại ở những nơi có hiệu quả cá biệt hoặc hiệu quả kinh tế quốc
dân, nghĩa là tính ưu việt của QHSXXHCN phải được chứng minh trong môi
trường bình đẳng với các quan hệ sản xuất khác.
- Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức kinh doanh.
Thành phần kinh tế là tổng hợp sức mạnh có tổ chức của lực lượng kinh tế
dựa trên một chế độ sở hữu nhất định. Thành phần kinh tế nhà nước dựa trên sở
hữu toàn dân do Nhà nước đại diện, xuất hiện dưới hình thức sở hữu nhà nước.
Thành phần kinh tế tập thể dựa trên sở hữu của tư nhân. Đại hội lần X chỉ rõ hai
thành phần kinh tế đặc biệt, đó là thành phần kinh tế tư bản nhà nước dựa trên
sở hữu hỗn hợp giữa Nhà nước XHCN và tư bản tư nhân.
18
Hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh là sự tập hợp tư liệu sản xuất dưới
một hình thức nào đó được pháp luật thừa nhận để trực tiếp tiến hành sản xuất,
kinh doanh. Nói cách khác, đó là các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Một
doanh nghiệp có thể dựa trên một hoặc nhiều hình thức sở hữu, là công cụ trong
tay thành phần kinh tế đầu tư vốn vào doanh nghiệp để phục vụ cho mục tiêu
của chủ đầu tư. Đặc biệt, Đại hội Đảng lần X nhấn mạnh tầm quan trọng của
loại hình doanh nghiệp cổ phần, coi chúng là hình thức doanh nghiệp phổ biến.
Thông qua các doanh nghiệp, thông qua các tổ chức đại diện cho chế độ sở hữu,
các thành phần kinh tế phát huy vai trò của mình trong nền kinh tế. Đại hội nhấn
mạnh tầm quan trọng của doanh nghiệp, doanh nhân trong phát triển kinh tế và
tôn vinh những doanh nhân có tài, có đức, thành đạt, làm giàu cho mình và cho
Tổ quốc. Cùng với chính sách cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân và
quyết định của Nhà nước coi ngày 13-10 hàng năm là ngày doanh nhân, Đảng,
Nhà nước ta đã chính thức thừa nhận vai trò to lớn của doanh nghiệp, doanh
nhân nói chung, doanh nghiệp, doanh nhân tư nhân nói riêng.
19

×