Câu 5: Trong Văn kiện ĐH IX, Đảng ta khẳng định : «Nội dung chủ
yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển ; thực hiện công bằng xã
hội, chống áp bức, bất công ; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư
tưởng và hành động tiêu cực, sai trái ; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu
và hành động chống phá của các thế lực thù địch ; bảo vệ độc lập dân tộc,
xây dựng nước ta thành một XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh phúc»
Vận dụng lý luận mácxit về đấu tranh giai cấp để phân tích khẳng
định trên và chỉ ra tính phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện
nay ?
Trả lời:
Vấn đề về giai cấp và đấu tranh giai cấp luôn được Đảng ta đặc biệt quan
tâm. Mỗi kỳ Đại hội, Đảng ta luôn xác định những nội dung trọng tâm của đấu
tranh giai cấp cho phù hợp với tình hình mới. Tại Đại hội IX của Đảng, Đảng ta
khẳng định: “,,,,,,,,,”. Đây là sự khẳng định mang tính nguyên tắc, khẳng định
này hàm chứa cả nội dung, đối tượng và những nhiệm vụ cần giải quyết trong
đầu tranh giai cấp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, giai cấp xuất hiện trong những giai đoạn lịch
sử nhất định, sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự sản xuất ra giá trị thặng dư
đã tạo ra khả năng phân chia xã hội thành giai cấp. Nhưng nguyên nhân trực tiếp
của sự hình thành các giai cấp là sự ra đời của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
Các cuộc chiến tranh, các thủ đoạn cướp đoạt bằng bạo lực đã đẩy nhanh quá
trình phân chia xã hội thành giai cấp.
Năm 1919, trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I.Lênin mới nêu ra một
định nghĩa khoa học về giai cấp: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn
người to lớn …”.
Giai cấp có đặc trưng cơ bản chung nhất, đó là những tập đoàn người to
lớn khác nhau về địa vị trong hệ thống sản xuất xã hội:
1. Khác nhau về quan hệ đối với tư liệu sản xuất.
2. Khác nhau về vai trò trong tổ chức lao động, trong tổ
chức quản lý sản xuất.
3. Khác nhau về cách thức và quy mô thu nhập của cải xã
hội.
Trong đó, sự khác nhau về quan hệ đối với tư liệu sản xuất đóng vai trò
quyết định địa vị giai cấp trong hệ thống sản xuất xã hội.
Từ sự khác nhau về 3 quan hệ trên, các giai cấp có sự khác nhau về lối
sống, tâm lý và hệ tư tưởng trong xã hội.
Sự khác nhau giữa các tập đoàn người về địa vị trong một chế độ kinh tế
- xã hội tất yếu dẫn đến tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn
khác. Đó là bản chất của quan hệ giai cấp đối kháng.
Các giai cấp có vai trò khác nhau trong lịch sử. Giai cấp cách mạng, tiến
bộ thúc đẩy sự phát triển của lịch sử; giai cấp lỗi thời, bảo thủ kìm hãm sự
phát triển của lịch sử.
Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có lợi ích cơ bản đối
lập nhau không thể điều hòa được. Đấu tranh giai cấp là biểu hiện xã hội của
mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX. Đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là cách mạng
xã hội, là phương thức thay thế HTKT-XH này bằng HTKT-XH khác, tiến bộ
hơn. Giai cấp nào giành được thắng lợi sau cuộc đấu tranh giai cấp sẽ thiết lập
nền chuyên chính, thực hiện sự thống trị của mình đối với toàn xã hội. Trong
thời đại ngày nay, đó là nền chuyên chính vô sản, do giai cấp vô sản lãnh đạo.
Đấu tranh giai cấp nảy sinh do sự đối lập về lợi ích căn bản và không thể
điều hòa được của các giai cấp có địa vị khác nhau trong một hệ thống sản xuất
xã hội nhất định. Do vậy, đấu tranh giai cấp chỉ mất đi khi không còn mâu thuẫn
đối kháng về lợi ích cơ bản. Theo đó, trong xã hội XHCN, về thực chất không
có đấu tranh giai cấp, vì các giai cấp có lợi ích cơ bản thống nhất với nhau
(Lênin).
Theo V.I.Lênin, “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ phận nhân dân
này chống một bộ phận khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền,
bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn
bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô
sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”
Đấu tranh giai cấp được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội từ kinh tế, chính trị đến văn hoá - tư tưởng; với nhiều phạm vi, hình thức,
thời gian khác nhau.
Tính tất yếu của đấu tranh giai cấp ở nước ta
Cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta nằm trong quy luật chung của thời đại
ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Đó là thời
kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa những lực lượng vì
hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội với những lực lượng phản tiến bộ, cản trở
hòa bình, độc lập dân tộc của các quốc gia. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục
thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu
bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta, làm
chệch hướng XHCN, đi ngược lại lợi ích của nhân dân lao động.
Bối cảnh quốc tế có nhiều chuyển biến sâu sắc. Các mâu thuẫn cơ bản trên
thế giới, biểu hiện dưới những hình thái và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát
triển, có mặt sâu sắc hơn; Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra
dưới nhiều hình thức mới mức độ ngày càng gay gắt; các quốc gia độc lập sẽ
ngày càng tăng cường đấu tranh để tự lực chọn và quyết định con đường phát
triển của mình, chống lại sự áp đặt, can thiệp và xâm lược của nước ngoài, bảo
vệ độc lập, chủ quyền và nền văn hoá dân tộc…. Những vấn đề trên đã tạo ra bối
cảnh mới đối với cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta, đòi hỏi chúng ta phải có
những thay đổi nhất định về phương thức thực hiện đấu tranh giai cấp.
Chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ cho đến nay, đã
tác động không nhỏ tới nhận thức, tư tưởng, quan điểm, lập trường của những
người mácxít.
Trong thời kỳ quá độ chúng ta phải từng bước khắc phục, cải tạo những tư
tưởng, tâm lý, thói quen, văn hóa lạc hậu của xã hội cũ còn in đậm trong đời
sống tinh thần của xã hội, để xây dựng một đời sống tinh thần mới vì sự phát
triển tiến bộ của xã hội.
Trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần, với sự đan xen tồn tại
của các hình thức sở hữu đã làm cho khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa vẫn
có điều kiện tồn tại, phát triển. Bên cạnh đó cơ cấu xã hội – giai cấp có nhiều
biến đổi, quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp này cũng có nhiều biểu hiện
phức tạp, những mâu thuẫn lợi ích cục bộ xuất hiện ngày càng nhiều, phức tạp
về mức độ, tính chất, tạo ra những lực cản đối với sự nghiệp xây dựng CNXH.
Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là
nghiêm trọng.
- Nội dung của đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay
1. Văn kiện Đại hội IX: Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai
đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát
triển ; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công ; đấu tranh ngăn chặn
và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái ; đấu tranh làm thất
bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch ; bảo vệ độc
lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh phúc
2. Trong lĩnh vực kinh tế
Thực hiện đấu tranh giai cấp trong lĩnh vực kinh tế thực chất là để phát
triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát triển mọi tiềm năng để chuẩn bị cơ sở
vật chất – kinh tế để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, đấu tranh giai cấp
trong lĩnh vực kinh tế là:
Thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; phát
triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa;
Chống khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa, chống việc xác lập địa vị
thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa;
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chống sự áp đặt, can thiệp và chi phối
của các tập đoàn kinh tế, tài chính…
Thực hiện quản lý chặt chẽ sự sản xuất, phân phối thu nhập, lưu thông tiền
tệ, nộp thuế thông qua kiểm kê, kiểm soát, kỷ luật lao động; phát hiện kịp thời
và đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong kinh tế; khắc phục tình trạng
bóc lột, bất công và những hiện tượng tiêu cực khác.
3. Trong lĩnh vực chính trị
Trong lĩnh vực chính trị, giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động
đấu tranh với các thế lực thù địch để bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước XHCN; xây
dựng nhà nước XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; thực hiện giành, giữ
và sử dụng chính quyền như một công cụ để cải tạo xã hội và chuyên chính với
các thế lực đi phá hoại chính quyền, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân. Đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch,
“chống diễn biến hòa bình” và các chiêu bài chính trị khác, bảo vệ độc lập dân
tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh nhân dân
hạnh phúc.
4. Trong lĩnh vực tư tưởng, văn hoá - xã hội
Trong lĩnh vực tư tưởng, giai cấp công nhân và đảng cộng sản vạch trần
bản chất bóc lột, tính chất phản động của tư tưởng tư sản; vạch trần những biến
tướng của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại trong phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế; truyền bá thế giới quan khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác –
Lênin; xây dựng đời sống tinh thần lành mạnh; phát huy được tính tích cực cách
mạng của quần chúng nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, bảo vệ đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động đấu tranh để thực hiện
công bằng xã hội chống áp bức, bất công; thực hiện xóa bỏ sự bất bình đẳng và
thực hiện công bằng xã hội; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng
và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh chống lại mọi biểu hiện truyền bá lối
sống phản văn hoá, phản phát triển, đi ngược lại với thuần phong mỹ tục của dân
tộc.
Những vấn đề trên đây tiếp tục được khẳng định trong Văn kiện Đại hội lần
thứ XI của Đảng (tr.186-187). Trong đó, Đảng ta xác định: “Để xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa… giữa
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự
chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ”
(5)
.
Với những tư tưởng cơ bản trên đây cho thấy, những nội dung cơ bản của
cuộc đấu tranh giai cấp được xác định trong Văn kiện Đại hội lần thứ IX của
Đảng được khẳng định, bổ sung và phát triển rõ nét và đầy đủ hơn trong Văn
kiện Đại hội lần thứ X của Đảng. Đây là cơ sở quan trọng để định hướng và tạo
động lực cho sự phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
5. Tính phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay
1.Bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi (tình hình kinh tế, chính trị thế giới
thay đổi);
2.Hình thức đấu tranh đa dạng (vừa phải hợp tác vừa phải đấu tranh; vừa
giữ vững độc lập tự chủ vừa hòa nhập ngày càng sâu rộng vào quốc tế; vừa
chống “diễn biến hoàn bình” vừa chống “tự diễn biến”, thực hiện đấu tranh
thông qua giáo dục, kỷ luật lao động, kiểm kê, kiểm soát và các biện pháp hành
chính);
3. Phạm vi mở rộng (quốc gia – quốc tế);
4. Đối tượng đấu tranh không trực tiếp rõ ràng như thời kỳ đấu tranh cách
mạng giành chính quyền mà nó ẩn sau những vấn đề kinh tế, văn hóa, hợp tác
đầu tư, dự án…
- Ảnh hưởng từ sự sụp đổ của CNXH, sự thắng thế của CNTB hiện nay
- Âm mưu diễn biến hoà bình, sự chống phá của các thế lực thù địch trong
và ngoài nước…
- Sự suy thoái của một bộ phận cán bộ
(5)
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2011, tr.186-187
- Ảnh hưởng từ mặt trái của kinh tế thị trường, của toàn cầu hoá…
Như vậy, trong tình hình hiện nay ở nước ta, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn
diễn ra gay go, phức tạp, thực chất là đấu tranh chống khuynh hướng tự phát tư
bản chủ nghĩa và các thế lực thù địch chống lại độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa gắn liền
với cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chống lại áp bức bất công, chống
nghèo nàn lạc hậu, khắc phục tình trạng nước nghèo kém phát triển; đấu tranh
ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái. Ở đây,
đòi hỏi phải phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc trong đấu tranh, đồng
thời phải kiên định tinh thần cách mạng, nắm vững định hướng chiến lược mềm
dẻo, linh hoạt trong sách lược đấu tranh, bảo đảm sự thống nhất giữa giai cấp và
nhân loại, giai cấp và dân tộc trong đấu tranh. Điều đó có ý nghĩa quyết định là
không ngừng nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, nâng cao hiệu lực
quản lý của nhà nước, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của quần chúng nhân
dân.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, Đảng ta đã sáng suốt nhìn nhận, đánh giá
và xác định những nội dung cơ bản về đấu tranh giai cấp, từ việc phát triển kinh
tế, thực hiện công bằng xã hội; củng cố an ninh quốc phòng; chống áp bức, bất
công ; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực,
sai trái ; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế
lực thù địch
Câu 6: Bác Hồ viết: ‘‘Để cải tạo xã hội, một mặt phải cải tạo vật chất
như tăng gia sản xuất, một mặt phải cải tạo tư tưởng. Nếu không có tư
tưởng XHCN thì không làm việc XHCN được’’
Dựa vào mối quan hệ giữa TTXH và YTXH, hãy giải thích luận điểm
trên và nêu ý nghĩa của vấn đề này trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
Trả lời:
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đưa ra nhiều quan điểm trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Tại buổi nói chuyên với
Trường Đại học Nhân dân Việt Nam ngày 18/01/1958, Người đã nói: ‘‘Để cải
tạo xã hội, một mặt phải cải tạo vật chất như tăng gia sản xuất, một mặt phải cải
tạo tư tưởng. Nếu không có tư tưởng XHCN thì không làm việc XHCN được’’.
Đây là sự vận dụng sáng tạo của Người về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê nin vào điều kiện cách
mạng Việt Nam. Để hiếu sâu sắc hơn về luận điểm này của Người, chúng ta cần
tìm hiều quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê nin về mối quan hệ giữa tồn tại xã
hội và ý thức xã hội.
Theo Mác – Lê nin, Tồn tại xã hội dùng để chỉ phương diện vật chất và các
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
Tồn tại xã hội là lĩnh vực vật chất của đời sống xã hội, bao gồm những điều
kiện hoàn cảnh vật chất, hoạt động vật chất của con người và các qui luật khách
quan vốn có của nó. Theo nghĩa đó, tồn tại xã hội không chỉ là những điều kiện
hoàn cảnh vật chất của sản xuất vật chất của đấu tranh xã hội hay nghiên cứu và
thực nghiệm khoa học và các qui luật khách quan của xã hội; mà còn bao gồm
các yếu tố cơ bản như hoàn cảnh địa lý, dân số và phương thức sản xuất.
Những yếu tố cơ bản của TTXH bao gồm: Điều kiện tự nhiên, Phương thức
sản xuất vật chất và Dân số và mật độ dân số. Trong đó, phương thức sản xuất
vật chất là yếu tố cơ bản nhất. Phương thức sản xuất bao gồm hai yếu tố, đó là
mối quan hệ con người với tự nhiên gọi là lực lượng sản xuất và mối quan hệ
giữa con người và con người gọi là quan hệ sản xuất. Mối quan hệ biện chứng
giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất phản ánh qui luật chung và phổ biến
của xã hội. Đó là qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của
lượng sản xuất.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan
điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền thống… hoặc các hình thái ý thức xã
hội cụ thể như ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức… nảy sinh từ
tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất
định.
Ý thức xã hội là hiện tượng phức tạp, có thể xem xét, phân loại thành
những cấp độ khác nhau.
Tùy theo từng góc độ xem xét khác nhau mà người ta chia ý thức xã hội
thành thành bộ phận khác nhau. Khi căn cứ vào trình độ phản ánh thì YTXH
được chia làm 2 bộ phận:
+ Ý thức xã hội thông thường. Trong ý thức xã hội thông thường, bộ phận
quan trọng nhất là tâm lý xã hôi.
+Ý thức lý luận. Trong ý thức lý luận, hạt nhân cơ bản là hệ tư tưởng.
Giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tâm
lý xã hội tạo điều kiện thuận lợi hoặc cản trở đối với việc xâm nhập và phát huy
ảnh hưởng của hệ tư tưởng vào trong đời sống xã hội. Ngược lại, hệ tư tưởng
góp phần làm gia tăng tính trí tuệ cho tâm lý xã hội, góp phần định hướng và
hình thành dư luận xã hội lành mạnh.
Biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
* Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội.
- Tồn tại xã hội nào thì ý thức xã hội ấy
- Tồn tại xã hội quyết định nội dung ý thức xã hội
- Tồn tại xã hội thay đổi thì sớm hay muộn ý thức xã hội thay đổi theo.
- Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội:
Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi xã hội cũ đã mất đi, thậm chí đã mất rất
lâu, nhưng ý thức xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập
tương đối này biểu hiện đặc biệt rõ trong lĩnh vực tâm lý xã hội (trong truyền
thống, tập quán, thói quen, v.v.). V.I.Lênin cho rằng, sức mạnh của tập quán
được tạo ra qua nhiều thế kỷ là sức mạnh ghê gớm nhất.
Khuynh hướng lạc hậu của ý thức xã hội cũng biểu hiện rõ trong điều kiện
của
chủ nghĩa xã hội. Nhiều hiện tượng ý thức có nguồn gốc sâu xa trong xã hội cũ
vẫn tồn tại trong xã hội mới như lối sống ăn bám, lười lao động, tệ tham nhũng,
v.v
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội là do những nguyên
nhân sau đây:
Một là: sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên
và trực tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người, thường diễn ra với tốc
độ nhanh mà ý thức xã hội có thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Hơn
nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung chỉ biến đổi sau
khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
Hai là: do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do
tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
Ba là: ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn
người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu
thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống
lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
Những ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Vì vậy,
trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư
tưởng, đấu tranh chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của những lực
lượng thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ, đồng
thời ra sức phát huy những truyền thống tư tưởng tốt đẹp.
* Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người, đặc biệt những tư
tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo
được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người,
hướng hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển
chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra. Song, không có nghĩa rằng
ý thức xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết định nữa. Tư tưởng khoa học tiên
tiến không thoát ly tồn tại xã hội, mà phản ánh chính xác, sâu sắc tồn tại xã hội.
* Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình
Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng, những quan
điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà
được tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của các thời đại trước.
Do ý thức có tính kế thừa trong sự phát triển, nên không thể giải thích được
một tư tưởng nào đó nếu chỉ dựa vào những quan hệ kinh tế hiện có, không chú
ý đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó. Lịch sử phát triển của tư tưởng
cho thấy những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của triết học, văn học, nghệ
thuật, v.v. nhiều khi không phù hợp hoàn toàn với những giai đoạn hưng thịnh
hoặc suy tàn của kinh tế. Tính chất kế thừa trong sự phát triển của tư tưởng là
một trong những nguyên nhân nói rõ vì sao một nước có trình độ phát triển
tương đối kém về kinh tế nhưng tư tưởng lại ở trình độ phát triển cao.
Quan điểm của triết học Mác - Lênin về tính kế thừa của ý thức xã hội có ý
nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá tinh thần của xã hội xã hội
chủ nghĩa.
* Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển
của
chúng. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội làm cho ở mỗi hình
thái ý thức có những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách
trực tiếp bằng tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất.
Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại,
tùy theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi
lên hàng đầu và tác động mạnh đến các hình thái ý thức khác. Trong sự tác động
lẫn nhau giữa các hình thái ý thức, ý thức chính trị có vai trò đặc biệt quan
trọng, ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định hướng cho sự phát triển theo
chiều hướng tiến bộcủa các hình thái ý thức khác. Trong điều kiện của nước ta
hiện nay, những hoạt động tư tưởng như triết học, văn học nghệ thuật, v.v. mà
tách rời đường lối chính trị đúng đắn của Đảng sẽ không tránh khỏi rơi vào
những quan điểm sai lầm, không thể đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách
mạng của nhân dân.
* ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt
đối hóa vai trò của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường,
hay chủ nghĩa duy vật kinh tế phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong
đời sống xã hội. Ph.Ăngghen viết: "Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật v.v. đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế.
Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh
tế"
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào
những điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà
trên đó tư tưởng nảy sinh; vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng;
vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã
hội; vào mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng. Cũng do đó, ở đây cần
phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối
với sự phát triển xã hội.
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối
của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển của ý thức xã
hội và của đời sống tinh thần xã hội nói chung; nó bác bỏ mọi quan điểm siêu
hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Từ những phân tích ở trên có thể thấy, Bác khằng định: vai trò của kinh tế,
của tồn tại xã hội là nếu muốn cải tạo xã hội thì chúng ta cần phải sản xuất ra
của cải vật chất, đồng thời bác cũng nhấn mạnh vai trò của tư tưởng xã hội (ý
thức xã hội) đối với kinh tế xã hội, tồn tại xã hội mà Người nói rằng “một mặt
phải cải tạo tư tưởng. Nếu không có tư tưởng XHCN thì không làm việc XHCN
được’’.
* > nghĩa trong thời k? công nghiệp hAa, hiện đại hAa
- Là cơ sở lý luận để chống lại quan điểm duy vật tầm thường, chủ nghĩa
duy vật kinh tế… là những quan điểm không thấy hoặc phủ nhận tác dụng tích
cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội.
- Khẳng định vai trò của ý thức xã hội, vì vậy cần chú ý phát huy vai trò
của các yếu tố trong ý thức xã hội vào công cuộc xây dựng xã hội mới. Phát huy
vai trò của các yếu tố tinh thần trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vì vậy quá trình xây dựng xã hội
mới, bên cạnh xây dựng nền kinh tế mới cần chú trọng đến lĩnh vực văn hóa tư
tưởng. Cần chú ý hạn chế, loại bỏ dần những thói quen, tư tưởng lạc hậu; chống
những biểu hiện diễn biến hòa bình trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa. Hơn nữa
trong công tác lý luận, lý luận cần được thường xuyên đổi mới để đáp ứng đòi
hỏi của thực tiễn phát triển đất nước. Chú trọng đến việc xây dựng nền văn hóa
mới và con người mới.
Đảng đã xác định đường lối kinh tế của nước ta là: Đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành
một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội
lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với
phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết
hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh.
Trước những khó khăn, thách thức, những biến động phức tạp của tình hình
thế giới và khu vực, Đảng luôn kiên định xây dựng và thực hiện các chủ trương,
chính sách đổi mới đúng đắn trên nhiều lĩnh vực. Một mặt phải tăng cường phát
triển kinh tế, tạo cơ sở vật chất làm tiền đề cho CNXH, một mặt phải luôn chú ý
công tác tư tưởng, công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và
mọi tầng lớp nhân dân lao động.
Trong lĩnh vực văn hóa, Đảng đã chỉ đạo hoạch định các chính sách văn
hóa nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Văn kiện trình Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: "Xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa
dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ tiến bộ; làm cho văn hóa
gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh
nội sinh quan trọng của phát triển”. Đây là một trong những định hướng lớn
trong phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Ba lĩnh vực cần tập trung thực hiện bằng được là : xây dựng môi trường, lối
sống và đời sống văn hoá của mọi người dân ở cơ sở, phát huy tinh thần tự
nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân; khuyến khích sáng tạo
văn học, nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm, công trình có giá trị cao về tư tưởng
và nghệ thuật; xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hoá, chú
trọng các công trình văn hoá lớn, tiêu biểu.
+ Đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung
tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa
- nền tảng tinh thần xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ và toàn diện của ba
lĩnh vực trên là điều kiện quyết định đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất
nước. Kế thừa và phát triển những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam, tích cực và chủ động tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại,
làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Để có thể xây dựng nền văn hóa
Xác định rõ những nhiệm vụ của văn hóa, toàn bộ các hoạt động văn hóa
phải tập trung vào xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Nâng
cao chất lượng cuộc sống của con người là trung tâm của chiến lược phát triển
kinh tế-xã hội. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với
quyền và lợi ích của dân tộc, của nhân dân. Xây dựng con người Việt Nam giàu
lòng yêu nước, có lý tưởng xã hội và trách nhiệm công dân, có tri thức, thể lực,
thẩm mỹ ngày càng cao, có kỹ năng lao động và đạo đức nghề nghiệp, trung
thực và sáng tạo, có ý chí và bản lĩnh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phải luôn coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng, văn hóa làm cho chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữa vị trí chủ đạo trong đời sống tinh
thần của xã hội, góp phần định hướng phát triển nền kinh tế.
Các giải pháp cụ thể có ý nghĩa đột phá để phát triển văn hóa Việt Nam giai
đoạn 2011-2020 là hoàn thiện hệ thống pháp luật; nâng cao năng lực lãnh đạo và
quản lý; đảm bảo tự do, dân chủ; đẩy mạnh xã hội hóa văn hóa; đẩy mạnh hợp
tác quốc tế về văn hóa./.
Tồn tại xã hội là đời sống vật chất cùng những điều kiện sinh hoạt vật chất
của xã hội. Những điều kiện đó là hoàn cảnh địa lý, dân số và phương thức sản
xuất vật chất của xã hội; trong đó, phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ
bản nhất.
Tồn tại xã hội bao gồm những yếu tố cơ bản:
Phương thức sản xuất vật chất.
Môi trường tự nhiên xung quanh (hoàn cảnh địa lý).
Dân số và mật độ dân cư.
Trong 3 yếu tố cơ bản trên thì phương thức sản xuất là yếu tố quyết định.
Ngoài ra, cần phải thấy tầm quan trọng của các quan hệ vật chất: cộng đồng
quốc tế, giai cấp, dân tộc, gia đình… trong thời đại ngày nay.
Ý thức xã hội là gì? Kết cấu?
Ý thức xã hội thuôc lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội, bao gồm những
tư tưởng, quan điểm, lý luận, tình cảm, tâm trạng… phản ánh tồn tại xã hội trong
những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định.
Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội của con người vào đời sống,
tinh thần, chứ không phải là toàn bộ đời sống tinh thần.
Ý thức xã hội là tính thứ hai so với tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội không có lịch sử độc lập tuyệt đối.
Tùy góc độ khái quát mà người ta chia ý thức xã hội thành các bộ phận
khác nhau. Ở góc độ trình độ và cấp độ của ý thức thì chia ý thức xã hội thành:
Ý thức thông thường và ý thức lý luận.
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
- Trong mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội thì tồn
tại xã hội giữ vai trò quyết định, còn ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội.
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, vì:
+ Nhìn chung tồn tại xã hội nào thì ý thức xã hội ấy.
+ Tồn tại xã hội thay đổi thì sớm muộn gì ý thức xã hội cũng thay đổi theo.
+ Tồn tại xã hội quyết định nội dung, bản chất, xu hướng vận động, phát
triển của ý thức xã hội.
+ Tồn tại xã hội còn phân chia giai cấp thì ý thức xã hội mang tính giai cấp
(tuy nhiên không được sa vào cực đoan phủ nhận tính nhân loại)
- Sự phản ánh của ý thức xã hội chủ yếu là phản ánh cái lôgic khách quan
của tồn tại xã hội.
Vai trò của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội
Ý thức xã hội không chỉ chịu sự chi phối, quy định bởi tồn tại xã hội mà ý
thức xã hội còn tác động mạnh mẽ trở lại tồn tại xã hội. Đây là một biểu hiện
quan trọng của tính đối lập tương đối của ý thức xã hội. Sự tác động trở lại tồn
tại xã hội cuáy thức xã hội phải thông qua hoạt động của con người.
- Sự tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội theo nhiều khuynh
hướng. Theo khuynh hướng tích cực sẽ thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển; ngược
lại khuynh hướng tiêu cực sẽ kìm hãm tồn tại xã hội. Hơn nữa, phương thức tác
động của ý thức xã hội tới tồn tại xã hội rất phong phú đa dạng phức tạp.
- Hiệu quả tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội phụ thuộc vào
các yếu tố:
Thứ nhất, phụ thuộc vào mức độ khách quan, khoa học, tiến bộ và phù hợp
của ý thức đối với hiện thực. Tư tưởng, lý luận và những bộ phận khác của ý
thức xã hội phản ánh đúng sự vận động tất yếu của đời sống, phản ánh được nhu
cầu phát triển của xã hội sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế cũng như xã hội nói
chung. Và ngược lại khi ý thức xã hội không phản ánh đúng sự vận động tất yếu
của kinh tế, xã hội, lạc hậu, bảo thủ, chủ quan, duy ý chí… sẽ kìm hãm sự phát
triển kinh tế xã hội.
Thứ hai, phụ thuộc vào mức độ truyền bá và sự thâm nhập của ý thức xã
hội trong quảng đại quần chúng nhân dân cả bề rộng và bề sâu. Chính vì vậy
công tác tư tưởng không chỉ có công tác lý luận mà còn phải quan tâm đến việc
tuyên truyền, cổ vũ để lý luận, chính sách đi sâu vào quần chúng.
Thứ ba, phụ thuộc vào mức độ lựa chọn và vận dụng đúng đắn, sáng tạo ý
thức xã hội của các chủ thể lãnh đạo, quản lý. Sự lựa chọn, định hướng đúng đắn
của họ trong các chủ trương, chính sách sẽ làm cho ý thức xã hội phát huy được
hiệu quả trong xã hội; ngược lại, định hướng k đúng, hình thức tổ chức không
thích hợp để hiện thực hóa ý tưởng thì ý thức xã hội không thể phát huy được
hiệu quả trên thực tế.