Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Tác động của biến đổi khí hậu đến di cư của người nông dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.41 KB, 10 trang )

RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
ĐẾN DI CƯ CỦA NGƯỜI NƠNG DÂN
Phan Đức Nam*

Tóm tắt: Biến đổi khí hậu (BĐKH) là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại
trong thế kỷ 21. Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia bị tác động mạnh mẽ nhất
do BĐKH. BĐKH tác động đến các nhóm xã hội ở các chiều cạnh khác nhau, trong đó có vấn đề
di cư. Bài viết tập trung xem xét ảnh hưởng và mối liên hệ của BĐKH đối với vấn đề di cư của
người nông dân; đồng thời đưa ra các giải pháp ứng phó, thích ứng với BĐKH của người nơng
dân. Tài liệu sử dụng trong bài viết bao gồm các nghiên cứu, ấn phẩm đã được công bố và các
nguồn dữ liệu, thơng tin từ website.
Từ khóa: Biến đổi khí hậu; Di cư; Nơng dân.
1. Đặt vấn đề
Biến đổi khí hậu (BĐKH) làm tăng khả năng bị tổn thương và có nguy cơ làm chậm hoặc đảo
ngược quá trình phát triển (Bộ Tài Nguyên và Môi trường, 2008). BĐKH tác động đến các nhóm
xã hội ở các chiều cạnh khác nhau, trong đó có vấn đề di cư. Theo Trung tâm Theo dõi Di trú trong
nước (IDMC, 2013), với hơn 1 triệu người phải di dời nơi sinh sống trong giai đoạn 2008-2012,
Việt Nam đứng hàng thứ 17 trong số 82 quốc gia có số người di trú lớn nhất do thiên tai (UNDP,
2014). Nhận thức đầy đủ được tác động của BĐKH đến tình trạng di cư của người nơng dân là
điều có ý nghĩa hết sức quan trọng. Từ đó tìm ra các giải pháp có tính khả thi, ứng phó hiệu quả
với BĐKH nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững. Dựa trên phương pháp phân tích tài liệu, bài
viết đề cập đến tác động của BĐKH đến vấn đề di cư của người nông dân Việt Nam.
2. Di cư như là một cách ứng phó và thích ứng với biến đổi khí hậu của người nơng dân
Di cư có thể là một giải pháp quan trọng góp phần đa dạng hóa thu nhập và cải thiện năng lực
chung cho hộ dân và cộng đồng để ứng phó và giảm nhẹ các tác động tiêu cực của BĐKH (IOM,
2010, dẫn lại từ UNDP, 2014). Nghiên cứu của CARE tại tỉnh Đồng Tháp cho thấy BĐKH ảnh
hưởng đến hoạt động sinh kế, nhất là đối với những hộ khơng có đất và dễ bị tổn thương. Một biện
pháp ứng phó với tình trạng lũ lụt và thiếu đất sản xuất của người nơng dân là di dời để tìm kiếm
cơ hội ở những miền đất khác, những “cánh đồng xanh hơn”, nhất là đến các khu công nghiệp và


thành phố Hồ Chí Minh (UNDP, 2014).
*

Thạc sĩ, Nghiên cứu viên, Viện Xã hội học, email

159


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

Di cư được xem là một chiến lược thích nghi hiệu quả với BĐKH, giúp mọi người chuẩn bị
và phục hồi sau các tác động của BĐKH (CARE, 2007; UNISDR, 2011). Tuy nhiên, không phải
cá nhân hay hộ nông dân di cư nào cũng có thể ứng phó, phục hồi và thích nghi với những những
hậu quả tiêu cực từ BĐKH một cách hiệu quả, đặc biệt là nông dân nghèo do “họ có ít nguồn lực
hơn cho việc tái thiết cuộc sống của họ sau thiên tai” (UNDP, 2002). Ở góc nhìn này, di cư vẫn
thường được xem là kết quả của sự thất bại trong các chính sách phát triển nông nghiệp, nông dân,
nông thôn hơn là minh chứng cho sự thích ứng thành cơng đối với BĐKH. “Điều đáng nói là, ngay
cả khi các hộ nơng dân sử dụng di cư như là một giải pháp quan trọng để ứng phó, thích ứng trước
những tác động tiêu cực của BĐKH, có thể dẫn đến những tổn thương mới hoặc tổn thương lớn
hơn đối với những người di cư ở nơi họ đến, những thành viên gia đình ở lại” (IOM, 2012, dẫn lại
từ UNDP, 2014).
Cách xem xét di cư như là kết quả của sự thất bại trong ứng phó, thích nghi với BĐKH của
cộng đồng nơng thơn, trong đó chủ yếu là người nơng dân như trên đã dẫn đến việc nhóm xã hội
này nhận được rất ít hỗ trợ để di dời khỏi khu vực bị tác động bởi BĐKH hay tại các khu định cư
mới (nơi đến), khi họ trở về nhà hoặc những người cịn lại ở địa phương của hộ gia đình có người
di cư. Các chính sách hạn chế di cư trong một thời gian dài của chính phủ chỉ làm trầm trọng thêm
tình hình, ngay cả sau đó, chúng dần được nới lỏng hơn. Người di cư gặp nhiều khó khăn trong
việc thích ứng với BĐKH tại nơi đến từ việc tạo sinh kế cho đến những khó khăn trong việc hạn
chế tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như chăm sóc sức khỏe, giáo dục, nhà ở,… Những nơng
dân di cư thuộc các nhóm dễ bị tổn thương như người nghèo, người dân tộc thiểu số,… là những

người chịu ảnh hưởng nặng nề hơn cả. Họ có thể bị đẩy tới sinh sống ở các khu vực dễ bị tổn
thương và vòng luẩn quẩn giữa di cư với BĐKH có thể tái diễn. Di cư cần được các nhà hoạch
định chính sách xem như là một giải pháp thích ứng hơn chỉ là giải pháp đối phó với BĐKH, qua
đó có các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho nông dân di cư cả nơi đến và nơi đi.
Mặc dù vậy, theo Warner (2013), không phải hộ dân nào cũng thích ứng được với những tác
động tiêu cực của biến đổi khí hậu thơng qua hình thức di cư, những hộ này bị “mắc kẹt” ở lại.
Một trong những cách thức ứng phó và thích ứng với BĐKH của người nông dân ở lại trong bối
cảnh trên là sử dụng tri thức bản địa trong sinh sống, canh tác. Chẳng hạn, ở Đồng bằng sông Cửu
Long, người nơng dân “thuận theo tự nhiên để ứng phó với BĐKH” theo cách “hịa mình và thực
sự thở cùng nhịp thở của hệ thống sơng ngịi, kênh rạch cũng như các nhịp điệu mùa của tự nhiên”,
“tìm cách chung sống thỏa hiệp dưới tác động của nó (BĐKH)” thơng qua việc phát triển các mơ
hình nơng nghiệp sinh thái thân thiện với môi trường, phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng
(Bảo Minh, 2013).
3. Một số tác động của biến đổi khí hậu đến tình trạng di cư của người nơng dân
3.1. Biến đổi khí hậu góp phần đẩy mạnh tình trạng di cư của người nơng dân
Di cư phần lớn đều có ngun nhân từ khí hậu (IDMC, 2013, dẫn lại từ UNDP, 2014). Nói
cách khác, BĐKH đã góp phần đẩy mạnh tình trạng di cư của con người (CARE, 2007). Thậm
160


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

chí, BĐKH được dự báo sẽ trở thành nguyên nhân lớn nhất khiến người dân phải di dời (Minh
Huệ, 2014).
Trong các yếu tố quyết định di cư, BĐKH có thể đóng vai trị thứ yếu hoặc gián tiếp (Chun
và Sang, 2012, dẫn lại từ UNDP, 2014) hoặc tác động trực tiếp dưới hình thức ảnh hưởng đến sinh
kế tùy theo khu vực bị ảnh hưởng bởi BĐKH (UNDP, 2014). Ngay cả khi BĐKH không trực tiếp
buộc người dân phải di dời nơi ở, nó có thể là nguyên nhân “làm cho người dân khó mà có thể trụ
lại tại nơi mà họ đang sinh sống” (IOM, 2009a; IOM, 2009b; Nelson, 2010, dẫn lại từ UNDP,
2014). Các yếu tố môi trường bao gồm hiện tượng thời tiết cực đoan làm mất mùa, sinh kế trở nên

khó khăn hơn đã gián tiếp tác động đến quyết định di cư (Hải, 2012, dẫn lại từ UNDP, 2014). Nói
cách khác, các hình thái phát triển khơng bền vững cộng với tính trạng biến đổi khí hậu ngày càng
trầm trọng là ngun nhân làm suy thối mơi trường và đây chính là ngun nhân quan trọng dẫn
đến tình trạng di cư (UNDP, 2014). Như vậy, người dân di cư để lánh nạn do hậu quả của thiên tai
(IDMC, 2016), tuy nhiên, vẫn có những người đã buộc phải di cư do chính những biện pháp được
thực hiện nhằm bảo vệ họ trước những tác động của BĐKH (Nguyễn Thị Thanh Nhiện, Lâm Thị
Thu Thảo và Trương và Hiểu, 2021).
BĐKH cũng tương tác với các động lực khác của di cư như động lực xã hội (giáo dục, gia
đình/họ hàng), động lực chính trị (chính sách khuyến khích, ép buộc trực tiếp), động lực kinh tế
(cơ hội việc làm, thu nhập), động lực nhân khẩu (quy mô, mật độ, cấu trúc dân số, các đặc điểm
cá nhân/gia đình (tuổi, tình trạng hôn nhân…).
Nghiên cứu của tổ chức CARE (2010) (dẫn lại từ Lê Anh Tuấn, 2010) chỉ ra mối liên hệ giữa
BĐKH và di cư thông qua yếu tố cư trú. Những ảnh hưởng do lũ lụt gây ra là một tác nhân dẫn
đến tình trạng mất chỗ ở và di cư khỏi khu vực nông thôn ở đồng bằng sông Mê Kông tại Việt
Nam (đồng bằng sông Cửu Long).
Cũng theo nghiên cứu trên của CARE, một trong những nhân tố chính của tình trạng di cư là
sự sụp đổ của các dạng sinh kế phụ thuộc vào hệ sinh thái. Nghiên cứu của Lê Anh Tuấn (2010)
về mối liên hệ giữa BĐKH và di dân thông qua các tương tác với các yếu tố sinh thái, tài nguyên
cho thấy, suy giảm diện tích canh tác, thiếu lương thực, nước sạch,… do tác động của BĐKH
khiến nhiều người nghèo vùng nông thôn, vùng ven biển, vùng sâu đổ xô lên các vùng đô thị để
bán sức lao động và làm các dịch vụ nhỏ.
Một số người di cư do khơng thích nghi với cuộc sống đô thị sẽ quay trở lại khai thác các
nguồn tài ngun cịn sót lại khiến tài nguyên ngày càng suy kiệt và làm trầm trọng thêm tình hình
BĐKH. Di cư theo thời vụ hoặc di cư lâu dài nhằm mục đích cải thiện sinh kế cá nhân hoặc gửi
tiền về hỗ trợ gia đình và cộng đồng ở q nhà vì suy thối mơi trường và biến đổi khí hậu (Đặng
Nguyên Anh, Irene Leonardelli, Ana Alicia Dipierri, 2016).
Nghiên cứu của Trường Đại học Văn Lang năm 2015 về mối tương quan giữa BĐKH và khả
năng di cư ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã khẳng định: BĐKH là một trong những
161



QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

nguyên nhân dẫn đến quyết định di dân, thông qua 3 nhóm động lực thúc đẩy người di cư gồm:
ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất tại địa phương; ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống; ảnh hưởng
đến chất lượng môi trường. Số liệu khảo sát cho thấy, tác động do BĐKH đến khu vực ĐBSCL
chủ yếu là xâm nhập mặn, nước biển dâng, mưa bão thất thường và thời tiết nắng nóng cực đoan.
Đây là những nguyên nhân đã và sẽ làm cho một số lượng lớn người dân di cư khỏi ĐBSCL đến
Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM). Dự báo, vào năm 2030, nếu độ mặn 4% thì tổng số người dân
ở ĐBSCL di cư đến TPHCM là gần 600.000 người, con số này vào năm 2050 là khoảng 1,4 triệu
người (Minh Hải, 2021).
Nhìn chung, mơi trường ln là động lực dẫn đến di cư, con người phải di dời để sinh tồn
trước thảm họa tự nhiên hoặc đối mặt với điều kiện môi trường khắc nghiệt và ngày càng xuống
cấp nghiêm trọng, di dời để tìm kiếm cơ hội ở những miền đất khác. BĐKH sẽ khiến nhiều cuộc
di cư khác tiếp tục diễn ra (IOM, 2009b, dẫn lại từ UNDP, 2014).
3.2. Biến đổi khí hậu làm xuất hiện các hình thức di cư mới
Di cư trong thời gian ngắn, di cư lâu dài, di cư tạm thời hoặc mùa vụ và sự trở về
Nghiên cứu trường hợp ĐBSCL của IOM và Đại học Erasmus, Rotterdam năm 2016 cho thấy,
BĐKH đã ảnh hưởng đến các hình thái di cư quan trọng ở miền Nam Việt Nam (chủ yếu là di cư
trong nước). Một hành lang di cư đã được hình thành nối vùng Đồng bằng sơng Cửu Long và các
thành phố như Cần Thơ và đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh (Han Entzinger, Peter Scholten,
2016). Cũng theo nghiên cứu này, dưới tác động của các loại áp lực môi trường như hạn hán/mưa
bất thường; sạt lở đất; cháy rừng; lũ lụt, lốc xoáy, bão biển;… có các loại di cư như sau: dịch
chuyển trong thời gian ngắn (từ ba tháng đến một năm); dịch chuyển lâu dài/vĩnh viễn (ít nhất một
năm); dịch chuyển lưu động hoặc theo mùa vụ (đi đi và về về trong thời gian ba tháng đến một
năm); tạm lánh liên quan đến thiên tai, khơng có cách nào khác ngồi chuyển đến nơi sinh sống
mới; và tái định cư/quay trở về có sự hỗ trợ theo quyết định của chính quyền (Han Entzinger, Peter
Scholten, 2016).
Di cư là một trong những cách ứng phó, thích ứng với BĐKH của người nơng dân, đặc biệt
khi sinh kế của họ vốn phụ thuộc chặt chẽ vào hệ sinh thái. Thông qua các tác động tiêu cực đến

các mơ hình sinh kế và hệ thống sản xuất, dịch vụ hệ sinh thái mà một cộng đồng sống phụ thuộc
vào, BĐKH có thể dẫn đến các hình thức di cư khác nhau (IOM, 2009, dẫn lại từ UNDP, 2014).
Di cư trong nước là chủ yếu và ở đây được tính bao gồm cả tái định cư. Theo Chun và Sang
(UNDP, 2014), kết quả phân tích 188 cuộc khảo sát nông thôn và 200 cuộc khảo sát các hộ tái
định cư tại hai tỉnh Long An và Đồng Tháp cho thấy tất cả các nhóm đối tượng được phỏng vấn
đều trả lời rằng áp lực môi trường có “nhiều” tác động đến sinh kế của họ, và đó được coi như là
ngun nhân chính trong việc “đẩy” dịng di cư ở nơng thơn, trong đó chủ yếu là nơng dân đến các
vùng có điều kiện phát triển tốt hơn, đặc biệt là khu vực đô thị.

162


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

Trong giai đoạn đầu và chuyển tiếp của các cú sốc và áp lực khí hậu, di cư là một giải pháp
đa dạng hóa sinh kế. Nó là một giải pháp thích ứng để giúp các đối tượng bị ảnh hưởng đối phó
với tác động của BĐKH. Trong bối cảnh đó, di cư về bản chất thường có tính tạm thời hoặc thời
vụ và sự trở về nhà thường là một sự lựa chọn phù hợp trong dài hạn. Tuy nhiên, trong trường hợp
thay đổi khơng thể đảo ngược, ví dụ như nước biển dâng, thì di cư có tính chất lâu dài (IOM 2009a,
dẫn lại từ UNDP, 2014).
4 loại hình di cư như là biện pháp ứng phó với biến động của thời tiết và bất ổn sinh kế
Theo Warner (2013), có 4 loại hình di cư với tư cách như là biện pháp ứng phó với những
biến động của thời tiết và bất ổn về sinh kế. Các hộ dân sử dụng di cư như là một biện pháp thích
ứng, nâng cao khả năng chống chịu thì chuyển sang làm cơng việc thời vụ phi nông nghiệp tại các
thành phố lớn. Những hộ khơng có nhiều lựa chọn để đa dạng hóa sinh kế, khơng có đất, học vấn
thấp, thường sử dụng di cư tại chỗ như là giải pháp tồn tại. Theo một cách khác, các hộ dân thường
di chuyển theo mùa vụ sang các vùng nông thôn khác và làm lao động nông nghiệp. Tuy nhiên,
các hộ này sử dụng di cư như là biện pháp ứng phó với những biến động của thời tiết và bất ổn về
sinh kế ở khía cạnh tồn tại nhưng khơng phát đạt. Một phương thức khác đảm bảo sự an toàn như
là một giải pháp đối phó là các hộ dân thường di dời trong thời kỳ khó khăn để đáp ứng các nhu

cầu cơ bản.
Di cư “bắt buộc” và di cư “tự nguyện”
Khi xem xét các dòng dịch chuyển dân cư do hậu quả của BĐKH, Warner (2010) phân tích
các hiện tượng khí hậu có khởi đầu dồn dập hay chậm chạp dẫn đến di cư “bắt buộc” hoặc “tự
nguyện” như thế nào dựa vào các khả năng tìm kiếm sinh kế thay thế tại các vùng bị ảnh hưởng
hoặc khả năng phục hồi kinh tế xã hội và tự nhiên của vùng bị ảnh hưởng (UNDP, 2014). Tuy
nhiên, “việc phân biệt rạch ròi giữa trường hợp di cư “bắt buộc” hay “tự nguyện” vì mơi trường
là điều rất khó. Do vậy, di cư do môi trường tốt nhất nên được hiểu theo hướng đó là sự tiếp nối
từ các trường hợp di cư bắt buộc rõ ràng đến các trường hợp di cư tự nguyện rõ ràng với một
vùng xám ở giữa” (Hugo, 1996; IOM, 2009c, dẫn lại từ UNDP, 2014). Theo một cách phân loại
khác, ông chia sự di trú ra làm ba loại, bao gồm di dời nơi ở, di cư và di dời theo quy hoạch
(UNDP, 2014).
3.3. Biến đổi khí hậu làm gia tăng tính dễ tổn thương của nhóm nơng dân di cư
Ở nước ta trong những năm gần đây, số lượng người mất nhà cửa và kinh tế lâm vào khó khăn
sau mỗi trận bão, lũ lụt… là rất lớn. Điển hình là cơn bão số 4 năm 2008 đã làm 162 người chết,
làm sập, hỏng 11.500 căn nhà, trường học, gây ngập úng 27.200 ha lúa và hoa màu, làm chết
28.000 gia súc, gia cầm, thiệt hại lên tới 1.900 tỉ đồng. Hậu quả của thiên tai khơng chỉ dừng lại ở
đó, ảnh hưởng của chúng còn tồn tại sau một thời gian dài, chất lượng sống người nông dân ảnh
hưởng nghiêm trọng do thiếu ăn, thiếu nhà ở, y tế và giáo dục không đảm bảo (Trần Thanh Lâm,
2010). Người dân nông thôn Việt Nam đang cảm nhận được BĐKH và nó có thể làm suy yếu các
thành quả phát triển (UNDP và Oxfam, 2009).
163


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

Như đã phân tích ở trên, BĐKH tác động đến các nhóm xã hội khác nhau, và nhóm xã hội dễ
bị tổn thương nhất là nông dân di cư. Điển hình là cơn bão số 4 năm 2008 đã làm 162 người chết,
làm sập, hỏng 11.500 căn nhà, trường học,tác nông nghiệp để sinh sống, và khi chất lượng đất và
nước giảm đi, hiệu quả sản xuất nông nghiệp, chất lượng cuộc sống của họ cũng bị giảm theo.

“Theo đánh giá của Chương trình Phát triển của Liên hiệp quốc - UNDP (2007), khi nước biển
dâng lên 1 mét, Việt Nam sẽ mất 5% diện tích đất đai, giảm 7% sản lượng nông nghiệp (tương
đương với 5 triệu tấn lúa)” (Lê Anh Tuấn, 2009).
BĐKH làm gia tăng tính dễ tổn thương của những nông dân di cư trong tiếp cận dịch vụ xã
hội. Người nơng dân, nhất là nhóm nơng dân nghèo, khuyết tật, dân tộc thiểu số là đối tượng dễ bị
tác động nhất bởi BĐKH. Họ khơng có hoặc có rất ít nguồn lực để có thể chống chọi lại những cú
sốc về kinh tế cũng như không thể chủ động đưa ra quyết định, và thiếu tiếp cận đến những dịch
vụ xã hội thiết yếu, cơ sở hạ tầng và thông tin cần thiết để giúp họ thích ứng với sự BĐKH (UNDP,
2002). Có nghiên cứu cho thấy các tác động của BĐKH đối với người dân ở vùng ven biển, trong
đó có vấn đề về cơ sở hạ tầng, nhà ở và tái định cư (Trần Thọ Đạt và Vũ Thị Hoài Thu, 2012). Họ
thường gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản tại nơi mới đến, trong
đó có điều kiện ăn ở (phải thuê nhà,…) sinh sống trong những ngơi nhà tạm bợ, thiếu nước sạch,
chăm sóc sức khỏe, giáo dục,… Người di cư chủ yếu làm việc trong khu vực phi chính thức, việc
làm khơng ổn định, thất nghiệp và thiếu các bảo vệ về sức khỏe. Tác động thực sự đối với các cộng
đồng di dời sẽ chỉ được đánh giá dựa trên những nơi họ có thể định cư và họ nhận được như thế
nào. Đối với các cộng đồng sở tại, tác động của BĐKH liên quan đến di cư được dự kiến sẽ ảnh
hưởng tới tất cả các yếu tố có thể kể trên như sức khỏe, việc làm, nhà cửa và giáo dục (UNISDR,
2011).
BĐKH có thể tác động trực tiếp đến sinh kế của nông dân sống ở các lưu vực sông và gần bờ
biển, cũng như tác động đến sản xuất, việc làm, thu nhập, chất lượng cơ sở hạ tầng, nước sinh hoạt
và nhà ở ở những nơi họ di cư đến. Theo nghiên cứu của CARE (2007), nhiều nông dân ở Đồng
bằng sông Cửu Long sống ở vùng thấp, các lưu vực sông đã bị ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn từ
biển, lũ lụt thường xuyên và mức độ ngày càng trở nên nguy hiểm hơn. Sinh kế của người nông
dân bị ảnh hưởng do áp lực từ sự BĐKH. Xâm nhập mặn hay lũ lụt ảnh hưởng đến sản xuất nông
nghiệp của những hộ nông dân sống tại các vùng này, cụ thể là sản lượng nông nghiệp bị giảm đi
và thậm chí là khơng sản xuất được. Kết quả nghiên cứu đối với các hộ dân nằm trong diện tái
định cư, di chuyển lên cạn sinh sống tại hai xã Phú Xuân và Phú Thuận quanh vùng đầm phá Tam
Giang, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế cho thấy, các hộ dân này gặp nhiều khó khăn trong
việc ổn định sinh kế (Phạm Văn Thiện, 2011). Nghiên cứu của Chun và Sang (2012) chỉ ra chất
lượng nhà ở khơng có nhiều cải thiện so với nơi ở trước khi tái định cư, thậm chí một số nơi còn

kém hơn, người dân tái định cư hầu như khơng có cơ hội việc làm (Danh và Mushtaq, 2011). Trong
thực tế, tái định cư có thể làm gia tăng mức độ tổn thương đối với người dân, ví dụ như làm gia
tăng tình trạng thất nghiệp (Xe và Đăng, 2006, dẫn lại từ Danh và Mushtaq, 2011), do thiếu cơ hội
việc làm tại các cụm dân cư, chất lượng các cơng trình hạ tầng và nhà ở yếu kém (Danh và Mushtaq,
164


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

2011). Theo nghiên cứu của Trần Thọ Đạt và Vũ Thị Hoài Thu (2012), di cư có thể gây ra những
ảnh hưởng bất lợi cho nơi nhập cư vì những áp lực lên cơ sở hạ tầng và tình trạng việc làm. Nghiên
cứu của Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM) tại Việt Nam và Viện Xã hội họcđược khảo sát tại hai xã
có cộng đồng cần di dời (nơi chịu ảnh hưởng bởi thiên tai) và ba xã có điểm tái định cư thuộc địa
bàn tỉnh Hịa Bình cho thấy, các hộ nêu lên một số vấn đề liên quan đến hai điều kiện hỗ trợ sinh
kế quan trọng là đất sản xuất và nước. Hầu hết các hộ đã tái định cư nhận được diện tích đất nhỏ
hơn so với nơi ở cũ. Nhiều hộ được giao đất nông nghiệp chất lượng thấp làm ảnh hưởng đáng kể
đến khả năng sản xuất. Thiếu nước cho trồng trọt cũng là một vấn đề chung, và các điểm tái định
cư thiếu hệ thống tưới tiêu. Khả năng tiếp cận việc làm phi nông nghiệp giúp giảm thiểu phần nào
vấn đề này tuy nhiên, cơ hội cịn hạn chế. Các hộ gặp khó khăn trong việc điều chỉnh các hoạt
động nông nghiệp tại các điểm tái định cư do tình trạng đất xấu, khơ hạn và thiếu kiến thức về các
loại cây trồng và vật nuôi phù hợp. Bên cạnh đó, các khó khăn trong việc thay đổi sinh kế để phù
hợp với điều kiện sống mới được nhiều hộ đề cập, bao gồm các vấn đề như sâu hại, mất mùa, năng
suất thấp trên đất mới và tổn thất đàn gia súc. Trong khi đó, chỉ một số ít hộ được tiếp cận với đào
tạo nghề và được hỗ trợ để phát triển các phương thức sản xuất mới và họ cũng chưa nhận được
hỗ trợ và hướng dẫn đầy đủ. Nhìn chung, những vấn đề liên quan đến đất đai, nước và cơ hội việc
làm là lý do khiến gần một nửa số hộ đã tái định cư đánh giá tình trạng việc làm và thu nhập của
họ kém đi sau khi tái định cư. Điều này cho thấy việc đảm bảo sinh kế bền vững cho các cộng
đồng tái định cư vẫn là một thách thức. Ngồi khó khăn nguồn nước cho trồng trọt thì việc thiếu
hệ thống cấp nước phục vụ sinh hoạt là một vấn đề lớn đối với nhiều hộ tái định cư (IOM và Viện
Xã hội học, 2017).

4. Kết luận
BĐKH có thể là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng di cư của người nơng dân
bên cạnh các nguyên nhân kinh tế - xã hội khác. Nơng dân là nhóm xã hội dễ bị tổn thương nhất
bởi tác động của BĐKH do họ sống và canh tác nông nghiệp ở khu vực nông thôn, nơi dễ xảy ra
những ảnh hưởng của BĐKH. Sinh kế của người nông dân bị ảnh hưởng do áp lực từ BĐKH là
một trong những yếu tố thúc đẩy quá trình di cư của người nơng dân đang tăng dần.
Biến đổi khí hậu là một trong những tác nhân làm hình thành nhiều loại di cư mới, trong đó
có sự di cư của người nơng dân. Các loại hình di cư do tác động bởi BĐKH có thể kể đến như sự
di cư trong thời gian ngắn, di cư lâu dài, di cư tạm thời hoặc mùa vụ, và sự trở về. Các loại hình
di cư mới như là biện pháp ứng phó với biến động của thời tiết và bất ổn sinh kế như việc chuyển
sang làm công việc thời vụ phi nông nghiệp tại các thành phố lớn; di cư tại chỗ; di cư mùa vụ; và
di cư theo phương thức đảm bảo sự an tồn trong thời kỳ khó khăn để đáp ứng các nhu cầu cơ bản.
Ngoài ra, các hiện tượng khí hậu có khởi đầu dồn dập hay chậm chạp dẫn đến di cư theo hình thức
“bắt buộc” hoặc di cư “tự nguyện”.
BĐKH làm gia tăng tính dễ tổn thương của những nông dân di cư tại nơi họ đến bao gồm
những khó khăn trong tiếp cận các dịch vụ xã hội như chăm sóc sức khỏe, tìm kiếm việc làm, giáo
165


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

dục, nước sạch, điều kiện ăn ở, vệ sinh,… đặc biệt là trong bối cảnh chính phủ xem xét di cư của
người dân như là một giải pháp ứng phó tạm thời và trung hạn với sự tác động của BĐKH hơn là
việc thích ứng về mặt dài hạn và do đó có những chính sách giảm thiểu, kiểm sốt tỷ lệ di cư và ít
có chính sách hỗ trợ cho những người di cư cả ở nơi đi và nơi đến.
Vai trò của di cư như là một chiến lược thích ứng khả dĩ của người nơng dân với BĐKH
thơng qua việc góp phần đa dạng hóa thu nhập, nâng cao khả năng chống chịu cho các hộ nông
dân, giúp các hộ nông dân chuẩn bị và phục hồi sau các tác động tiêu cực của sự biến đổi khí
hậu. Tuy nhiên, BĐKH là một thách thức đối với những nỗ lực thích ứng của người nơng dân,
nhất là đối với những đối tượng dễ bị tổn thương như nông dân nghèo, nông dân là người dân

tộc thiểu số,… khả năng thích ứng kém của các nhóm này được bộc lộ rõ, nhất là trong bối cảnh
thiếu sự hỗ trợ cần thiết từ cộng đồng, nhà nước. Tình trạng di cư của nơng dân do ảnh hưởng
bởi BĐKH có thể nảy sinh những tổn thương mới hoặc làm trầm trọng thêm tính tổn thương của
chính họ hay tạo nên những áp lực mới về cơ sở hạ tầng, việc làm, an sinh xã hội,… tại nơi mới
đến. Đây được xem là cách nhìn về sự thất bại của di cư trong việc ứng phó, thích nghi với
BĐKH của cộng đồng nơng thơn và nó là ngun nhân cơ bản về sự hạn chế trong các chính
sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho người nông dân di cư cả ở nơi đi và nơi đến. Điều này đặt ra vấn
đề về giải pháp ứng phó của Chính phủ trước những hậu quả của BĐKH. Theo đó, di cư cần
được các nhà hoạch định chính sách xem như là một giải pháp thích ứng hơn chỉ là giải pháp đối
phó với BĐKH, qua đó có các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho nông dân di cư cả nơi đến và
nơi đi. Để thực hiện điều này, cần cải cách các chính sách liên quan nhằm cải thiện khả năng
chống chịu với BĐKH cho cộng đồng nơi đi, đặc biệt là người nông dân-đối tượng dễ bị tổn
thương nhất. Đồng thời, tại nơi di cư đến cần tăng cường những hỗ trợ quan trọng và hiệu quả,
tiếp tục tập trung phát huy những hỗ trợ phù hợp trong các chính sách hiện tại nhằm đảm bảo
cung cấp đủ đất và nước cho sản xuất nông nghiệp, cải thiện và tăng cơ hội việc làm phi nông
nghiệp. Các nông hộ cũng cần được hỗ trợ về đào tạo, thông tin thị trường, cùng với những kiến
thức sản xuất kinh doanh giúp cho các nơng hộ có khả năng thích ứng và tìm kiếm các cơ hội
cải thiện sinh kế. Bên cạnh đó, cần lồng ghép các hoạt động di cư và tái định cư, cũng như các
biện pháp tăng cường thích ứng với BĐKH vào trong các chính sách, chiến lược, quy hoạch của
các cấp như các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội,… Việc lên kế hoạch này cần tính đến sự
phù hợp với chiến lược sinh kế và nhu cầu văn hóa - xã hội của các nơng hộ, đồng thời có giải
pháp huy động sự tham gia của tất cả nông hộ. Các giải pháp cũng cần chú ý đến việc xây dựng
kế hoạch hành động hỗ trợ cho người nông dân tại nơi họ di cư đến, đặc biệt là nhóm nơng dân
nghèo và dễ bị tổn thương như cung cấp đầy đủ thông tin về rủi ro khí hậu, được hỗ trợ để họ
nâng cao khả năng duy trì các hoạt động sinh kế, có các hỗ trợ, đảm bảo khả năng tiếp cận với
cơ sở hạ tầng và dịch vụ (nhà ở, nước sạch, và các dịch vụ xã hội cơ bản khác). Các chính sách
này cần được thiết kế dựa trên kiến thức và nguồn lực của người nông dân.
166



RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

Tài liệu tham khảo
1. Bảo Minh (2013). Thuận theo tự nhiên để ứng phó với biến đổi khí hậu.
(Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2013).
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2008), Chương trình Mục tiêu quốc gia về biến đổi khí hậu.
3. CARE (2007), Tìm kiếm nơi trú ẩn: Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu lên tình trạng di cư
và mất chỗ ở của con người.
4. Chun, Jane, và Lê Thanh Sang (2012), Nghiên cứu và Đối thoại chính sách về biến đổi khí
hậu, di cư và tái định cư tại Việt Nam. Báo cáo cuối cùng. UN Việt Nam, Hà Nội.
5. Danh, Võ Thành, và Shahbaz Mushtaq (2011), Sống chung với lũ: Đánh giá chương trình
tái định cư tại Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Trong Biến đổi môi trường và nông nghiệp
bền vững tại Đồng bằng sông Cửu Long ( M.A. Stewart và P.A. Coclanis, eds.), Tiến bộ trong loạt
Nghiên cứu Thay đổi Toàn cầu 45, Springer, Hà Lan.
6. Đặng Nguyên Anh, Irene Leonardelli, Ana Alicia Dipierri (2016), Đánh giá bằng chứng:
di cư, môi trường, và biến đổi khí hậu tại Việt Nam. Tổ chức Di cư Quốc tế IOM.(21.40.45.57).
7. Han Entzinger, Peter Scholten (2016), “Thích nghi với biến đổi khí hậu thơng qua di cư:
Một nghiên cứu về trường hợp Đồng bằng sông Cửu Long”, Báo cáo cho IOM.
8. IOM và Viện Xã hội học (2017), Tái định cư trong bối cảnh biến đổi môi trường ở tỉnh
Hịa Bình, Việt Nam: Phân tích q trình ra quyết định của các hộ gia đình và các kết quả của
chương trình tái định cư.
9. Lê Anh Tuấn (2009), Tổng quan về nghiên cứu BĐKH và các hoạt động thích ứng ở miền
Nam Việt Nam. Trong Hội thảo “Cùng nỗ lực để thích ứng biến đổi khí hậu”.
10. Lê Anh Tuấn (2010), Tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng lên tính đa dạng
sinh học và xu thế di dân vùng ven biển bán đảo Cà Mau. Trong Hội thảo khoa học: “Bảo tồn các
giá trị dự trữ sinh quyển và hỗ trợ cư dân vùng ven biển”. Cà Mau.
11. Minh Hải (2021), Tăng năng lực ứng phó biến đổi khí hậu, thúc đẩy phát triển bền vững.
(Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2021).
12. Minh Huệ (2014), Các tai họa con người phải hứng chịu do biến đổi khí hậu.
(Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2014).

13. Nguyễn Thị Thanh Nhiện, Lâm Thị Thu Thảo và Trương và Hiểu (2021), Tác động của
biến đổi khí hậu tới sự di cư và đời sống văn hóa truyền thống ở đồng bằng sơng Cửu Long.
167


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

(Truy cập ngày 26 tháng 4 năm
2021).
14. Phạm Văn Thiện (2011). Báo cáo kết quả khảo sát dự án ICCO: Báo cáo kết quả khảo sát
tại địa bàn 2 xã Phú Xuân và Phú Thuận, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.
/>mid=90&lang=vi&limitstart=24 (truy cập năm 2011).
15. Trần Thanh Lâm (2010), “Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và những giải pháp ứng phó”,
Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 7.
16. Trần Thọ Đạt, Vũ Thị Hoài Thu (2012), Biến đổi khí hậu và sinh kế ven biển. Bài viết in
trong Diễn đàn Phát triển Việt Nam, Nhà xuất bản Giao thông Vận tải, Hà Nội.
17. UNDP (2014), Di cư, tái định cư và biến đổi khí hậu tại Việt Nam: Giảm nhẹ mức độ phơi
bày trước hiểm họa và tổn thương từ khí hậu cực đoan thơng qua di cư tự do và di dân theo định
hướng. Hà Nội.
18. UNDP và Oxfam (2009), “Ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam: Các cơ hội cải thiện
bình đẳng giới”, Báo cáo thảo luận chính sách, Hà Nội.
19. UNISDR (2011), Biến đổi khí hậu và sự di cư: bằng chứng mới nhất - Eurasylum
phỏng vấn MargaretaWahlstrom(436). />Default.aspx (Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2011).

168



×