Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Nhân vật chấn thương trong tiểu thuyết đàn bà của nhà văn Lý Lan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.13 KB, 9 trang )

NHÂN VẬT CHẤN THƯƠNG TRONG TIỂU THUYẾT ĐÀN BÀ
CỦA NHÀ VĂN LÝ LAN
Trương Thị Linh1
1. Khoa Sư Phạm. Email:
TÓM TẮT
Bài viết vận dụng lý thuyết chấn thương (trauma theory/ trauma studies) của Sigmund
Freud khi nghiên cứu những người đi qua chiến tranh và dấu ấn của chiến tranh không chỉ để
lại trên thân thể họ mà còn tồn tại trong tâm hồn, tiềm thức của họ. Di chứng của chiến tranh ấy
tồn tại mãi cho đến thế hệ sau, thế hệ lớn lên và sống trong thời bình. Tiểu thuyết đàn bà của nhà
văn Lý Lan, một người con của vùng đất Bình Dương, là một trong ít những tiểu thuyết hiện đại
khai thác được sự phân mảnh và đổ vỡ của bản ngã con người một cách mạnh mẽ thời hậu chiến.
Từ khóa: di chứng chiến tranh, lý thuyết chấn thương, nhân vật chấn thương,
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiểu thuyết đàn bà của nhà văn Lý Lan đã gây cho chúng tôi ấn tượng sâu sắc về thân phận
của những người đàn bà trong và sau chiến tranh. Họ sinh ra đáng lẽ để yêu thương và được yêu
thương. Song chiến tranh cướp mất của họ cái quyền cơ bản của một con người, ở đây là quyền
của người phụ nữ. Lý Lan đã khai thác thế giới “nhỏ bé” của những người phụ nữ bằng một chất
giọng lạnh, sắc sảo nhưng thơng qua đó gửi gắm tâm tình nồng hậu của người phụ nữ nhân hậu:
thật nhiều yêu thương, thật nhiều cảm thông và thấu cảm. Nhà văn cũng đã đề cập đến những vấn
đề lớn thiết thực: vết thương của chiến tranh trong tâm hồn con người thời hậu chiến; những dị
biệt văn hóa; sự cơ đơn của con người giữa xã hội hiện đại và bản năng “tìm về” với cội nguồn;
thân phận và vai trị của người phụ nữ; sức mạnh của tình yêu và lòng vị tha… Lối hành văn của
bà vừa lạ vừa quen, vừa tự nhiên, hiện đại, tân kỳ nhưng cũng không kém phần cổ điển, đầy sức
hấp dẫn. Thông qua hồi ức, những câu chuyện kể về một dòng họ để nói đến một vấn đề lớn hơn:
di chứng chiến tranh không chỉ ảnh hưởng đến những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến,
mà nó cịn ảnh hưởng đến tiềm thức, đến tâm lý, tính cách, đến cuộc sống… của những thế hệ
sau, thế hệ sống trong thời bình, khi mà tiếng súng đã lùi xa vào quá vãng.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện tham luận, chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp có so sánh
đối chiếu để làm rõ hơn hậu quả chiến tranh đã để lại những di chứng gây ám ảnh trong thân
thể, tiềm thức của những con người sinh ra và lớn lên trong thời chiến, thậm chí là thời bình.


Thơng qua đó, chúng tơi cịn muốn làm rõ thi pháp xây dựng một thế giới đàn bà đa dạng, phức
tạp trong Tiểu thuyết đàn bà của nhà văn Lý Lan.
Ngoài ra, bài tham luận của chúng tôi ứng dụng lý thuyết chấn thương trong tâm lý học
của Sigmund Freud nhằm làm sáng rõ nội hàm của đề tài: khai thác khía cạnh nhân vật chấn
533


thương. Bởi theo Freud, tiềm thức của con người luôn ẩn chứa những nỗi đau, mất mát trong
quá khứ hoặc thậm chí là hiện tại mà con người khơng ý thức được. Những nỗi đau, mất mát
ấy được đưa vào tiềm thức, sống dưới dạng những giấc mơ, những ẩn ức tâm lý bị đè nén… và
có thể nó sẽ “trở thành cội nguồn của cảm hứng sáng tác.” (Trần Lê Duy, 2019). Điều này đã
được tác giả Lý Lan thể hiện rất sáng tạo trong cuốn tiểu thuyết của mình (Tiểu thuyết đàn bà).
Theo trang thì thuật ngữ lý thuyết chấn thương (trauma
theory) khởi đi từ những trường hợp tâm lý học nghiên cứu những sự ảnh hưởng của những sự
kiện trong quá khứ gây ám ảnh đối với con người như: bị tấn công, bị hãm hiếp, do chiến tranh,
do đói kém, do bị giam dữ… từ những năm 1990. Từ đó, các khái niệm liên quan đến chấn
thương được hình thành và phát triển như một lĩnh vực nghiên cứu liên ngành liên quan đến
văn học, tâm lý học, lịch sử và triết học. Các nhà phê bình văn học đã vận dụng lý thuyết này
trong nghiên cứu hồi ký của những người sống sót sau thảm họa Holocaust (thảm họa diệt chủng
6 triệu người Do Thái của Đức Quốc Xã) và các cựu chiến binh, cũng như các chủ đề khác như
bạo lực tình dục trong tiểu thuyết về phụ nữ.
Khởi đi từ việc vận dụng lý thuyết chấn thương, như đã nói ở trên, tham luận của chúng
tơi tập trung phân tích những chấn thương về mặt thể xác lẫn tâm hồn của những người phụ nữ
trong cùng một dòng họ. Dòng họ ấy có thể bắt đầu từ hàng trăm năm trước, thời bà Tổ Mọi
cịn ăn lơng ở lỗ, đến Khơng Bé - người phụ nữ hiện đại với những mối quan hệ ngồi biên giới
quốc gia. Khơng Bé, người phụ nữ chịu ảnh hưởng từ những chấn thương về mặt thể xác, tâm
hồn từ thời thơ ấu. Khi lớn lên, cô lại sống cùng một người chồng ngoại quốc, ở một nơi xa lạ,
khơng có người thân bên cạnh. Có thể xem cô đại diện cho thế hệ những con người di dân, chịu
ảnh hưởng của di chứng chấn thương di dân. Bởi lẽ “chấn thương do sự di dời ở một đất nước
khác lạ” (L. Thornber & Karen, 2016) là một trong những biểu hiện đáng chú ý của văn học

chấn thương đương đại. (Đỗ Thị Phương Lan, 2020).
3. NỘI DUNG
3.1 Nỗi đau xuyên thế hệ của những người đàn bà
Họ, những người đàn bà trong Tiểu thuyết đàn bà của nhà văn Lý Lan, hiện lên là những
gương mặt khác nhau của cuộc sống. Họ có thể: vì người đàn ơng mình u mà khơng màng
bản thân mình như bà Tổ Mọi; sẵn sàng cưu mang những đứa cháu bất hạnh như bà ngoại Thoa;
mạnh mẽ, đầy nghị lực như Thoa; yếu đuối như Liễu; chịu đựng như chị Đen; có khi họ lại sống
với nỗi đau khổ khơng tên từ thuở ấu thơ như Không Bé - bị bà nội ruồng rẫy, bỏ mặc trong ổ
kiến lửa… Tất cả họ tạo nên lịch sử của một dòng họ - phụ nữ, bởi “dòng họ này dương thịnh
âm suy” (Lý Lan, 2008, tr. 179).
Trong suốt 17 chương truyện của Tiểu thuyết đàn bà, những nhân vật phụ nữ của Lý Lan
hiện lên không hề yếu đuối, cần được chở che mà ở họ tràn đầy sức mạnh: Sức mạnh ấy đến từ
tình yêu, từ nghĩa vụ và trách nhiệm với gia đình, với dịng họ, với con cháu, kể cả đối với người
đàn ơng mà họ hết lịng thương u, nguyện gắn bó cả đời. Khó có thể hình dung nếu cuốn tiểu
thuyết này có tên gọi khác mà không phải là Tiểu thuyết đàn bà. Bởi trong cuốn tiểu thuyết này,
vai trị của người đàn ơng rất mờ nhạt. Hạnh khi gặp Thoa có nói rằng “Dịng họ này dương thịnh
âm suy” (Lý Lan, 2008, tr. 179). Theo lời của Hạnh thì dịng họ có nhiều nam nhưng đàn ơng
trong dịng họ của Thoa, kể cả ơng Tổ Mọi, đều là những người ích kỉ, chỉ nghĩ đến bản thân, đến
534


danh vọng cá nhân mà không quan tâm đến gia đình mình, đến con cái, đến người vợ đầu ấp tay
gối của mình, thậm chí đến mẹ, em gái, hay cháu gái đều không tồn tại trên con đường đi đến
danh vọng của những người đàn ơng. Ơng Tổ Mọi có con với bà Tổ Mọi, nhưng khi trở về quê
hương bản quán, ông chỉ mang theo những đứa con, cịn người đàn bà sinh con cho mình thì ơng
mặc kệ. Tuy nhiên, cho dù bà Tổ có là một người đàn bà Mọi nhưng tình chồng vợ, tình mẫu tử
được bà đặt để lên hàng ưu tiên. Bà lẽo đẽo theo sau chồng, con chỉ để được nhìn thấy họ, chăm
sóc họ mỗi ngày. Sự hi sinh của bà là vơ giá. Một dịng họ mà người đàn ơng chỉ biết mặc kệ cho
những người đàn bà sinh con ra và tự dưỡng dục, chăm sóc như bà ngoại Thoa. Họ, khi mẹ chết,
cũng chỉ về làm đám tang 3 ngày rồi đi như cậu Hai. Thậm chí, cậu còn ra lệnh để một đứa cháu

gái ngây thơ của mình (Thoa) giết một đứa cháu gái khác (Đen) vì tội phản bội.
Dịng họ ấy bắt đầu từ ơng Tổ Mọi. Ông Tổ Mọi được Thoa dựng lên trong tiềm thức của
mình là một người tráng sĩ, với khn mặt bê bết máu vì mải bận bịu với những việc cứu giang
sơn, xã tắc.
“Mang gương mặt trát máu, người đàn ông băng rừng đi. Bao nhiêu ngày? Bao nhiêu
đêm? Dép đứt tuột, chân đạp gai đạp cọc tuôn máu, ông xé áo quấn cột bàn chân, bước tiếp.
Tấm thân trai tráng lực lưỡng bị cành lá quật, gai cào xước tứa máu. Bàn tay trần gạt cây rừng,
bấu đá núi, bật máu. Mỗi lần đưa bàn tay đang chảy máu lên vuốt mặt, người đàn ông lại ngẫng
đầu hớp hơi, bộ ngực vồng lên, ông gào một tiếng dài.”(Lý Lan, 2008, tr. 4).
Những người đàn ông trong truyện chỉ quan tâm thỏa mãn dục vọng cá nhân về danh vọng,
tiền tài, quyền lực - trong khi những người đàn bà trong dòng họ, kể từ bà Tổ Mọi, đều rất quan tâm
đến người đàn ơng của mình, đến con cái…, đến gia đình. Họ có thể hi sinh tất cả vì gia đình mà
khơng cần một lời cảm ơn từ người đàn ơng của mình, từ những đứa con, đứa cháu trong dòng họ.
Sự vị tha hi sinh ấy bắt đầu từ bà Tổ Mọi, đến bà ngoại Thoa, rồi đến Thoa, Liễu, chị
Đen, Không Bé… Họ tiếp nối lịch sử của dịng họ trong vơ thức. Sự vị tha hi sinh ấy chỉ càng
ngày càng được nâng cấp lên thành triết lý sống của những người đàn bà trong dịng họ. Triết
lý ấy được họ lưu truyền thơng qua tiềm thức dịng tộc.
Thoa là nhân vật chính của tiểu thuyết. Thuở nhỏ, Thoa sống cùng bà và các chị em. Lớn
lên, gia đình cho Thoa xuất ngoại du học nhưng vì nghe được câu nói “đàn bà Việt rẻ chỉ đáng
một xu” (Lý Lan, 2008, tr. 25). Thoa quyết tâm đi làm cách mạng. Thoa đi làm cách mạng chỉ để
chứng tỏ đàn bà Việt cũng có thể là những người anh hùng, và giá trị con người họ không rẻ, họ
không chỉ biết ăn và đẻ - và chỉ có thế. Chị nhận nhiệm vụ đầu tiên là kết thúc cuộc đời của một
người khác, một kẻ phản bội mà khơng cần biết đó là ai, họ đã làm gì. Tuy nhiên, nhiệm vụ đầu
tiên cũng như cuối cùng của cuộc đời của người chiến sĩ cách mạng này thất bại. Chị luôn luôn
băn khoăn không biết chị được lệnh đi giết ai? Câu hỏi này không ai trả lời cho đến khi cậu Hai
chết, bí mật mấy chục năm trước mới được phát lộ. Điều này thật không công bằng cho cả Thoa
lẫn chị Đen, người chị họ mà từ bé, Thoa luôn coi như mẹ. Họ khơng có tội. Chiến tranh và những
người đàn ơng khiến họ có thể làm ra những việc mà sau này có thể nhìn lại, họ sẽ ân hận, thật
ân hận, như Thoa. Hoặc thậm chí, khiến họ có thể có gia đình mà khơng dám về nhận tổ tiên,
dịng họ, như chị Đen - người mang tội danh phản bội vì đã mang thai con của kẻ thù.

Tình yêu đầu tiên của Thoa nảy nở trong nhà tù Côn Đảo. Thoa yêu và nhờ nó, Thoa vượt
qua những khắc nghiệt của cuộc sống của một chính trị phạm trong tù. Tuy nhiên, vì là một
người đàn bà đủ tự tin, đủ lãng mạn, đủ nghị lực sống, Thoa dần chán người chồng khơng có
535


khí lực của mình. Anh khơng tương thích với cuộc sống hiện đại nên tình vợ chồng ngày một
lợt lạt. Và cuối cùng, anh mất, Thoa ân hận. Nỗi ân hận của Thoa là vì khơng cố tâm khuyến
khích chồng, ủng hộ chồng. Và có lẽ, Thoa là người đàn bà đầu tiên trong dịng họ sống vì chính
mình. Thoa chán chồng, Thoa phản đối mẹ chồng của chị Liễu đã để Khơng Bé vào ổ kiến lửa.
Thoa khuyến khích chị Liễu bỏ chồng… Hàng loạt những hành động của Thoa để thấy rõ, đây
là một người đàn bà đầu tiên trong dòng họ dám đối đầu lại với những người đàn ông của họ,
những người chồng, người cha trong gia đình. Thoa khơng nhịn. Sức mạnh tiềm thức của Thoa
được thể hiện qua hành động, cử chỉ, ngôn ngữ của chị, qua cuốn tiểu thuyết chị đang viết dở
về lịch sử của dịng họ mình: Dịng họ của những nữ cường nhân.
Dịng họ đó có những người đàn bà vượt qua mọi nghịch cảnh để vẫn tiến về phía trước,
khơng hề lùi bước trước bất cứ khó khăn nào, qua cách mọi người luôn dõi theo nhau, hỗ trợ
nhau, qua sự động viên lẫn nhau: “Không Bé? Con đừng khóc. Con là Khơng Bé, con của má
Liễu. Khơng Bé khơng khóc, con nghe dì nói khơng?”(Lý Lan, 2008, tr. 23). Cách động viên
của Thoa với cô cháu gái của mình với cái tên đặc biệt Khơng Bé chính là một sự khẳng định
sức mạnh của những người phụ nữ trong dịng họ. Họ khơng yếu. Họ cũng Khơng hề Bé, Thoa
một mực yêu cầu cán bộ hộ tịch phải sửa tên của cơ cháu gái mình từ Nguyễn Thị Bé thành
Nguyễn Khơng Bé. Vì cơ biết, những người đàn bà trong dịng họ mình, kể từ bà Tổ Mọi, đến
đứa cháu gái bé bỏng, Không Bé, không hề bé, mà ngược lại. Họ là những người đàn bà, ngoài
nhiệm vụ duy trì cả dịng họ, họ cịn là cái neo, cái bến đậu để tất cả quay về, quây quần lấy
nhau, kể cả bà ngoại của Thoa. Người đàn bà có đến mười đứa con nhưng đứa thì mất tích, đứa
đi cách mạng, đứa bị bắn chết… và đến khi ngoại mất thì chỉ có người con út ở bên:
“Khi bom nổ tan bụi chuối sau hè, cậu Út cõng bà ngoại tản cư vô chợ như bao nhiêu
người khác. Lúc đó, dì Ba thì khơng ai biết ở đâu, cậu Tư ở tận bên Tây, cậu Năm đã lên rừng
theo lời nhắn gọi của cậu Hai, má Thoa đã chết, dì Bảy đem Liễu lên Sài Gịn, cậu Tám bị bắt

lính, cậu Chín và dì Mười thì tan xác cùng bụi chuối.” (Lý Lan, 2008, tr. 38).
Thoa luôn sống trong hồi ức của những đòn tra tấn tàn bạo của kẻ thù. Thoa sống ở hiện
tại nhưng kí ức của Thoa là những thời khắc nghiệt ngã: về những nỗi đau thể xác, những gương
mặt, những bóng người sống dật dờ trong không gian tù túng, chật hẹp, bí bách bị tra tấn về
mặt thể xác lẫn tinh thần… ở trong tù. Và nỗi đau của Thoa là nỗi đau về “bản chất không thể
chịu đựng nổi của một sự kiện và bản chất không thể chịu đựng nổi của ngay cả việc cịn sống
sót sau sự kiện đó”. (Lê Tú Anh, 2017). Thoa với di chứng hậu chiến về thể xác không thể chịu
đựng được những cơn ngứa hành hạ mình:
“Cơn ngứa hành hạ ghê rợn hơn những cơn đau. Hay Thoa đã quen những cơn đau tột
đỉnh rồi, nên chịu đựng vài chỗ nát thịt gãy xương dễ thơi. Cơn ngứa thì khơng sao chịu đựng
được. Nhứt là ở kẽ ngón tay và kẽ ngón chân.” (Lý Lan, 2008, tr. 99).
Những đòn tra tấn trong tù không khiến Thoa khai ra đồng đội bởi đơn giản cô không biết
họ là ai, bởi ngay từ lần đầu tiên nhận nhiệm vụ cô đã bị bắt, “những trận địn, những cực hình,
tra tấn, làm chết đi sống lại, làm mụ mẫm, điên khùng bất cứ kẻ nào” (Lý Lan, 2008, tr. 100)
cũng không khiến Thoa khuất phục. Song khi trở về hiện tại, với cuộc sống đời thường, cô lại
không thể chịu được cơn ngứa hành hạ.
Thoa luôn sống trong kí ức, nên khi nghe tiếng kêu “Thoa ơi” (Lý Lan, 2008, tr. 14) của
chị Liễu, Thoa tưởng đó là lời vọng lại của kí ức, của tiềm thức. Thoa không thật sự sống trong
536


hiện tại. Ở Thoa, quá khứ và hiện tại hòa làm một nên khi đang sống trong hiện tại, cô lại nghĩ
mình đang ngồi cạnh bà Ngoại, cạnh chị Đen, cạnh chị Liễu khi cịn nhỏ, thậm chí cơ cịn đang
tưởng là mình đang sống trong quá khứ cả trăm năm trước, khi ơng Tổ của dịng họ gặp bà Tổ
Mọi để bắt đầu dịng họ của mình: “Gương mặt người đàn ông bê bết máu. Vết máu tươi lẫn vết
máu khô giống son phấn vẽ trên mặt kép hát lúc vãn tuồng, nhịe nhoẹt mồ hơi” (Lý Lan, 2008,
tr. 15). Nên khi Liễu đi vào, Thoa nửa tỉnh nửa mê khơng biết rằng có thật là Liễu khơng. Những
trận đòn roi, những tra tấn từ thể xác lẫn tâm hồn trong tù vẫn luôn tồn tại bên cạnh Thoa, cho dù
chiến tranh đã qua rất lâu, cho dù cuộc sống đã trở lại bình thường song kí ức đó ln sống trong
lịng Thoa, bất cứ khi nào Thoa mệt, nó lại hiện diện bên cạnh Thoa, nhắc nhớ Thoa những ngày

tháng khổ nhục, khốn cùng đó. Tuy nhiên, khơng phải thế mà Thoa gục ngã. Thoa là chỗ dựa tinh
thần cho mẹ con Liễu, “Mình phải tự quyết định cho dù số phận hay thế lực này nọ luôn áp đặt
hay xơ lệch con đường đời mình chọn.” (Lý Lan, 2008, tr. 209). Đó là điều có thể tác giả đang
muốn đề cập đến thông qua tác phẩm, thông qua số phận của những người phụ nữ trong dòng họ.
Họ cũng có thể yếu đuối, cũng có thể rất lụy tình, lụy con, nhưng khi cần, họ cũng vẫn đứng
lên chống lại tất cả. Tiêu biểu cho kiểu người như vậy là chị Liễu. Tên chị như tính cách của chị,
hiền lành, nhẫn nhục, chịu thương chịu khó, thương chồng, thương con. Nhưng khi cần, họ cãi
lại cả gia đình chồng: để có sự nghiệp riêng, để có thể cứu đứa con bé bỏng của mình, Khơng Bé.
“Khi bà nội lôi đi xềnh xệch đứa con trai bốn tuổi đang gào khóc địi mẹ, Liễu ngây dại,
mất hồn. Chỉ có tiếng khóc của đứa con gái một tuổi mới khiến Liễu đứng lên mà sống tiếp”.
(Lý Lan, 2008, tr. 32).
Liễu cũng rất hiện đại khi Không Bé quyết định cưới Ted, “nếu là duyên nợ của con thì
xa con má cũng đành, nhưng nếu có dun mà khơng nợ, con cũng đừng tuyệt vọng, con vẫn
cịn có má.” (Lý Lan, 2008, tr. 17)
Họ dù có yếu đuối như Liễu, nhưng khi cần, sức sống mãnh liệt trong con người họ sôi
trào như núi lửa.
Tất cả những ưu điểm của dòng họ đều để lại trên người Thoa, Liễu và chị Đen. Còn phần
thẳm sâu trong họ là sự thiếu an tồn lại được đặt trên người Khơng Bé. Tuy vẻ ngoài là một
người phụ nữ hiện đại, cương quyết (qua hành động dứt khốt khơng để Ted lái xe khi anh uống
rượu) nhưng thẳm sâu trong con người Không Bé là một người đàn bà thiếu cảm giác an toàn. Sự
thiếu cảm giác an toàn ấy bắt đầu bằng dấu ấn đầu tiên trong cuộc đời cơ, đó là bị kiến cắn đến
chết đi sống lại khi mới được vài tháng tuổi. Nỗi đau ấy đi theo Không Bé cho đến tận hơm nay
và có lẽ sẽ tồn tại mãi trong tiềm thức của cô gái ấy, không bao giờ tan. Nỗi đau của những người
phụ nữ bị người thân bỏ rơi, chà đạp không thương tiếc. Và cũng từ đó, trong Khơng Bé ln
ln tồn tại một nỗi đau hơn người thường: nỗi đau về mặt thể xác của một đứa trẻ chưa được
một tuổi bị bà nội nhẫn tâm bỏ trong ổ kiến lửa. Tuy nhiên, chưa bao giờ cơ đầu hàng số phận.
Cơ mạnh mẽ, có ý chí, biết làm chủ cuộc đời mình, biến những khó khăn ấy làm động lực khiến
mình mạnh mẽ hơn. Vì thế, khi khơng gọi điện được cho mẹ, Khơng Bé có cảm giác bị bỏ rơi lần
nữa. Cơ điên cuồng, uất ức, dồn nén vào những hành động liên tiếp nhau không thể kiềm chế, cô
“bấm điện thoại như điên”: “Chuông reo. Chuông reo. Chuông reo mãi vẫn không xuyên được

cõi thinh không bất tận” và “Chuông reo. Chuông reo. Chuông reo” (Lý Lan, 2011, tr. 75) . Cô
hối hả, vội vã trong việc tìm mẹ bởi cảm giác bị bỏ rơi hồi nhỏ trỗi dậy: “Má đâu? Má ở đâu?”
(Lý Lan, 2011, tr. 70); “Má ơi. Má ơi.” (Lý Lan, 2011, tr. 75). Không Bé xác định, chỉ có người
537


thân của mình mới quan trọng, đó là người mẹ chịu đau đớn khổ sở để sinh ra và nuôi nấng mình.
“Người con yêu là mà và má là người duy nhất yêu con”. (Lý Lan, 2008, tr. 205).
Hơn thế nữa, ở Không Bé, tồn tại một nỗi đau của những con người di dân - lạc mất quê
hương. Không Bé một thân một mình theo người chồng ngoại quốc đến một nơi xa lạ, không
người thân, bạn bè. Hai vợ chồng họ đến từ những nền văn hóa khác nhau, cách suy nghĩ, ứng xử
khác nhau. Cô ngơ ngác giữa một thế giới khác, cách sống khác, quan niệm khác… đối với truyền
thống của dân tộc mình, với cách mình được giáo dục từ trong gia đình, với tiềm thức dân tộc
“thương người như thể thương thân”, sống vì người khác chứ khơng sống vì bản thân mình. Điều
này đối lập với chồng cô. Ted không phải không yêu, khơng thương Khơng Bé, song văn hóa của
đất nước anh là văn hóa cá nhân, coi trọng đời sống cá nhân hơn đời sống của cộng đồng, xã hội,
gần hơn nữa là gia đình. “Anh sẽ như con ma rách, dật dờ trơng ngóng em. Bao giờ em trở về?”
(Lý Lan, 2011, tr. 97). Sự đối lập ấy đến từ sự sẵn sàng hi sinh mình cho gia đình mình của Khơng
Bé và quan niệm sống phải vì mình trước tiên của Ted. Hai người với hai tính cách khác nhau,
quan niệm sống khác nhau, cách ứng xử khác nhau khi đối diện cùng với một vấn đề khiến mâu
thuẫn vợ chồng càng ngày càng lên đến đỉnh điểm: Ted khơng thấu hiểu Khơng Bé; Khơng Bé
thì mạnh mẽ đến nỗi khơng cho chồng cơ hội hiểu mình. Khơng Bé thích có em bé - như tất cả
những người đàn bà trong dòng họ - họ sinh ra là để duy trì dịng giống, để làm mẹ, thiên tính nữ
chảy dữ dội trong huyết quản những người phụ nữ của dòng họ này. Điều này di truyền từ thời
bà Tổ Mọi. Ted khơng hiểu điều đó vì anh sợ chịu trách nhiệm nếu khơng ni đứa bé một cách
đàng hồng, tử tế. Ted trách cơ ích kỉ vì chỉ nghĩ đến mong muốn của bản thân mà không quan
tâm đến mong muốn của anh. Khơng Bé cịn muốn đón má qua ở chung, không quan tâm đến
cảm nhận của Ted - một người đàn ơng được giáo dục tính cách độc lập ngay từ khi còn nhỏ. “Kế
hoạch cuộc đời của Khơng Bé từng vạch ra sao đơn giản: đón má về ở chung rồi sanh một hoặc
hai đứa con cho má chăm sóc hủ hỉ.” (Lý Lan, 2011, tr. 96).

Tuy nhiên, vượt qua mọi sự khác biệt về văn hóa, ứng xử, lối sống, chúng tơi tin, cho dù
thế nào đi chăng nữa, Không Bé cũng sẽ sống rất hạnh phúc - bởi sức mạnh tiềm thức mãnh liệt
của dịng họ đang tn chảy trong huyết quản cơ.
Trong tiểu thuyết cịn có sự xuất hiện của một số người đàn bà khác như Hạnh – người
bà con bất ngờ xuất hiện của Thoa, Hiền – người phụ nữ có chồng mắc bệnh hiểm nghèo trong
bệnh viện sẵn sàng xin cháo và đổ bô giúp những người bệnh khác, chị Đen – nhân vật bí ẩn
vẫn cịn ở chặng đường tìm kiếm với kết thúc mở của “Tiểu thuyết đàn bà”…
Lý Lan đã thể hiện được số phận của những người đàn bà. Đích thực đàn bà- những người
mang tâm hồn nhạy cảm, đầy tình khoan dung, thứ tha và nhân hậu, tin yêu mãnh liệt nhưng
cũng có lúc yếu mềm cần được che chở, bảo vệ và đôi lúc họ cũng rất cứng rắn, tự tin và không
kém phần mạnh mẽ.
2.2. Thế giới đàn bà giàu chất văn hóa truyền thống
Tiểu thuyết đã miêu tả cuộc chiến tranh ở Việt Nam thông qua các ký ức của Thoa, những
ám ảnh của thời quá khứ. Sự kiện nổi bật là chiến tranh kéo theo nhiều sự kiện khác, tạo nên
mối quan hệ chằng chịt giữa những nhân vật trong tác phẩm. Đen, chị họ của Thoa, theo ông
Năm đi làm cách mạng. Thoa vì một câu nói chê đàn bà Việt Nam khơng biết làm gì mà nhận
nhiệm vụ tiêu diệt một người vì đã phản bội tổ chức. Việc không thành, Thoa bị bắt, bị đày ra
Côn Đảo. Chị Đen mất tích, và trở thành nỗi day dứt khơn ngi trong lịng bà ngoại. Mấy chục
538


năm sau, Thoa bàng hoàng khi biết được người mà mình st giết chết năm xưa chính là chị
Đen - người chị Thoa từ nhỏ xem như mẹ mình.
Trong chiến tranh, con người ta phải hứng chịu bao đau thương và mất mát: Có khi chính
tay ta giết người thân của ta mà không biết. Ở đây là trường hợp của Thoa, cho dù chiến tranh
đã qua đi từ lâu nhưng nỗi đau đó day dứt suốt cuộc đời Thoa. Di chứng đó tồn tại trong cả
người đang sống và thậm chí là cả những người đã chết, những người chưa hề biết chiến tranh
là gì. Thoa ngờ ngợ và sống trong sự đau khổ dằn vặt ấy suốt quãng đời tuổi trẻ và thậm chí là
sau này. Mãi về sau, Thoa mới khẳng định những trăn trở của mình là đúng khi suýt chút nữa
Thoa đã nổ súng cướp mạng sống của người chị thân thiết mà Thoa coi như mẹ mình, chị Đen.

Sự khắc nghiệt của chiến tranh tồn tại mãi mãi trong tâm thức của những người trực tiếp tham
gia chiến đấu, của những người chưa từng tham gia chiến đấu và thậm chí là những người được
sinh ra và lớn lên ở thời bình. Chiến tranh khơng mang gương mặt đàn bà!!!
Trong kí ức của Thoa:
“Chị Đen hiền hậu, chăm chỉ, hát ru em giỏi, luôn luôn là một phần quan trọng của tuổi thơ
Thoa. Chị Đen bồng ắm, tắm rửa, đút cháo cho Thoa từ ngày mẹ Thoa qua đời, và đùa chơi, ru
ngủ, dỗ dành Thoa cho đến vài ngày trước khi Thoa về Chợ Lớn với cha”. (Lý Lan, 2008, tr. 201).
Mặc dù không giết chị Đen nhưng chị em cũng chẳng bao giờ còn được ở bên nhau, chẳng
bao giờ được gặp lại được trò chuyện với nhau nữa. Sau bao năm, khi được nhìn thấy hình chị
Đen trong mấy bức ảnh mà cậu Hai để lại trước lúc mất, Thoa thật đau xót khi người đàn bà đang
trong tư thế lụi hụi đào đất, đầu đội nón lá bên cảnh hoang tàn sau chiến tranh lại chính là chị
Đen. Và những bức hình khác nữa của chị Đen là chị đang cưa một trái bom hay pháo gì đó, chị
gánh những mảnh thép vụn. Thoa đọc được dòng chữ của người thu thập tư liệu: “Người trong
bức hình được xác nhận là Nguyễn Thị Đen, không hộ khẩu, sống bằng nghề đào bom bán sắt
vụn”. (Lý Lan, 2008, tr. 199). Thoa xúc động như được gặp lại người chị của mình nhưng đó chỉ
là cuộc gặp trong tâm tưởng mà Thoa đã vuột miệng kêu lên: “Chị Đen!”. Tiếng kêu ấy đã bao
lâu Thoa khơng được gọi. Thật xót xa làm sao, khi mà tình chị em phải xa cách! Liên Thoa - một
nhà văn sống trong cuộc sống hiện đại, đất nước có biết bao đổi thay thế nhưng những kí ức của
q khứ, nhất là những vết thương lịng mà chiến tranh để lại vẫn cứ nhói đau. Bước ra khỏi chiến
tranh, những ngày tháng ngồi tù ở Côn Đảo với những đòn tra tấn dã man của kẻ thù và cho đến
hiện tại những thương tích ấy vẫn cứ còn và còn mãi trong cuộc đời của Thoa.
Trong cuôc sống hiện đại, bộn bề với biết bao công việc, cuốn theo guồng máy ấy nhưng
con người vẫn có xu hướng tìm về cội nguồn của mình. Trong tiểu thuyết qua nhân vật Thoa nhà văn đang nghiên cứu viết một cuốn tiểu thuyết về lịch sử, muốn tìm hiểu về cội nguồn dịng
họ mình đã truyền tải một thông điệp: con người dù ở bất cứ thời đại nào cũng ln muốn tìm
lại, muốn nhìn lại về q khứ, muốn trở về với những kỉ niệm của chính mình, của gia đình,
của quê hương, của đất nước. Tìm về với cội nguồn là tìm về những điều tốt đẹp, Thoa tìm về
với kí ức tuổi thơ có ngoại, có mẹ, Chị Đen, Liễu… Thoa nhớ về câu hát ru của Liễu cho Không
Bé ngủ. Câu hát ru “ Ầu ơ…Ầu ơ…lên rừng hái ớt chỉ thiên…”. Tìm về cội nguồn như một lẽ
tự nhiên của con người, được đắm mình vào những lời hát ru ầu ơ ngọt ngào đã tắm mát tâm
hồn đã nuôi lớn con người.

Chiến tranh không mang khuôn mặt đàn bà, nhưng trong cuốn tiểu thuyết này, các khuôn
mặt đàn bà đều hiện diện ra ở mỗi khung hình của cuộc chiến. Ảnh hưởng của chiến tranh nặng
539


nề đến nỗi di chứng của nó cịn tồn tại ở nhiều thế hệ sau. Chẳng hạn, Không Bé không sinh ra
và lớn lên trong chiến tranh nhưng cô lại mang di chứng hậu chiến với những nỗi đau đớn từ
thuở bé, với quan niệm “trọng nam khinh nữ”, với nỗi bất an có thể mất người thân bất cứ lúc
nào... Tuy nhiên, xuất thân từ một dòng họ với những nữ cường nhân mạnh mẽ, cô được thừa
hưởng sự độc lập trong suy nghĩ, sự dứt khoát trong hành động, sự cương quyết trong ý chí…
kể từ bà Tổ Mọi.
Từ thực tế tâm lý, cảm xúc và những biến cố, va chạm thường ngày mà Lý Lan thâu lượm
được, bà đưa vào tác phẩm của mình trong mối quan hệ vợ chồng của Không Bé và Ted. Ở Mỹ,
cô gái được gọi với cái tên rất Mỹ – “Betty”. Betty là một người gần như khác với Không Bé
của mẹ Liễu, cháu gái của dì Thoa. Song sâu thẳm trong lịng cơ là một Khơng Bé thuần Việt
với tình yêu quê hương, xứ sở, nhớ da diết đến quặn lịng người mẹ Việt của mình.
Trong mối quan hệ mẹ con của Liễu và Không Bé qua người trung gian là dì Thoa, hiện
lên ở đây là một mơ-típ của tình mẹ con hiện đại trong một gia đình khơng biên giới. Cách suy
nghĩ của Thoa và Liễu và Không Bé cũng hiện đại như nhiều cách suy nghĩ hiện nay. Tuy nhiên,
thành công của Lý Lan trong khai thác mối quan hệ hiện đại này chính là sức mạnh liên kết của
văn hóa truyền thống của gia đình Việt. Dù tôn trọng lựa chọn của con cái trong tự do hơn nhân,
song nền tảng của gia đình như chỗ dựa tinh thần vẫn luôn được nhắc đi nhắc lại trong cuốn
“Tiểu thuyết đàn bà” này.
Dù cách trở giang san, khoảng cách địa lý tính bằng nửa vịng trái đất thì sợi dây neo giữ
người với người vẫn là tình mẹ con. Sợi dây ấy giúp tăng nguồn sức mạnh để một cô con gái
bơ vơ nơi xứ người vượt qua được những tháng ngày cô độc với nền văn hóa khác biệt và người
chồng đơi lúc như người xa lạ. Sợi dây ấy giúp người mẹ vượt qua những nỗi đau chỉ người
trong cuộc mới hiểu để cuối cùng, bà lại chọn ở lại Việt Nam để làm những việc từ thiện như
người phụ nữ tên Hiền vẫn làm. Và cũng sợi dây ấy giúp những người phụ nữ mạnh mẽ để lựa
chọn những bước đi của mình trong cuộc đời. Như lời dặn dị của Thoa với cơ cháu gái Khơng

Bé của mình: “Mình phải tự quyết định cho dù số phận hay thế lực này nọ luôn áp đặt hay xơ
lệch con đường đời mình chọn.” (Lý Lan, 2008, tr. 17)
Khơng Bé tìm về q khứ để thấy hình ảnh mình khi cịn là cơ sinh viên trẻ trung, xinh
đẹp luôn lạc quan, tràn đầy sức sống, bao ước mơ tươi đẹp và một tâm hồn yêu đương vơ cùng
mạnh mẽ, dám hi sinh vì tình u. Khi Khơng Bé trở về q tìm mẹ, Khơng Bé cùng dì Thoa
đứng nhìn về ngơi nhà nhỏ phía trong con đường mòn. Giữa cảnh tan hoang của cả vùng, ngôi
nhà trông vẫn tươm tất giữa mảnh vườn xanh tươi .
“Và Khơng Bé khơng thể đừng nhìn thấy mảnh đất mình đã chào đời rồi lớn lên và bỏ đi
quả thật là đẹp huyền ảo. Thế đất lượn sóng như lưng rồng, từ huyện về Long Quí đường dốc
lên dần, khi tới qn Bơng Mua thì bắt đầu đổ dốc xuống thoai thoải…Cái qn Bơng Mua có
từ hồi đó, ba vách trống, ghế đẩu bằng tre, rà lá dứa là đặc sản. Trà và lá dứa trồng ngay sau
quán, được hái khi còn động sương mỗi sáng sớm, nấu bằng nước mưa trong cái nồi bốn chục
lít” (Lý Lan, 2008, tr. 17)
Ngôi nhà vẫn sơ sài như thưở Không Bé chưa đi xa, vẫn còn “hàng rào xương rồng thâm
thấp trước nhà, dây mồng tơi bị lan quấn qu, bên hơng nhà vạt rau thơm vẫn xanh tốt, chỉ có
chuồng gà chuồng heo trống trơn…” (Lý Lan, 2008, tr. 17).
540


Đây không chỉ là sự quan sát của Không Bé mà cịn là cái nhìn của độc giả trước mọi vật.
Những hình ảnh ấy bên cạnh việc giúp cho chúng ta thấy được biểu hiện bên ngoài của sự vật
mà còn thể hiện được cái chất, cái ý nghĩa bên trong của chúng. Đó là hình ảnh giữa q khứ
và hiện tại đan xen vào nhau. Từ đấy ta có thể biết được ngày xưa nơi này bình yên đến nhường
nào nhưng giờ đây sao quá đỗi quạnh hiu. Cảnh tượng thiên nhiên thanh bình gợi nhắc cho
Khơng Bé một bầu thời tuổi thơ n bình có mẹ và cơ cùng nhau sống vui vẻ, mẹ con sớm tối
bên nhau. Và trong cuộc sống hiện tại, bộn bề với công việc con người ta vẫn có những ước mơ
được trở về với ngày xưa, trở về với những gì bình dị và thân thuộc nhất.
3. KẾT LUẬN
Tiểu Thuyết Đàn Bà là một cuốn tiểu thuyết hay, xứng đáng để chúng ta đọc nhiều lần trong
cuộc đời. Cảm ơn nhà văn Lý Lan đã gửi đến độc giả một tiểu thuyết rất đời rất tình như thế.

Càng đọc càng ngẫm sẽ càng thấy Lý Lan đã viết rất chân thực, rất tinh tế về những người đàn bà
bị thất lạc chính mình, thất lạc người thân, thất lạc quê hương… Họ “đi tìm nhau và đi tìm chính
mình” (Ngơ Thị Kim Cúc, 2008). Họ có số phận bất hạnh, sống những ngày khơng bình n, ln
khao khát được u thương. Tồn thiên tiểu thuyết tốt lên một tấm lịng nhân ái của nhà văn Lý
Lan. Đó cũng là tình người, tình đồng bào trong các mối quan hệ đan xen giữa các tuyến nhân
vật mà Lý Lan đã dựng nên một cách khá nhẹ nhàng trong tác phẩm. Khép lại trang tiểu thuyết
nhưng mỗi chúng ta vẫn còn trăn trở với những gì những người đàn bà đã làm cho cuộc đời này,
sự hi sinh của họ lớn lao biết nhường nào. Chúng ta hãy luôn trân trọng những người đàn bà, hãy
yêu thương và yêu thương họ nhiều hơn nữa, hãy mang hạnh phúc đến cho họ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Thị Phương Lan (2020 ). “Chấn thương di dời” trong một số truyện ngắn Việt Nam hải ngoại
sau 1975. Nguồn: />2. Lê Tú Anh (2017). Từ trường hợp Đoàn Minh Phượng, nghĩ về văn học chấn thương Việt Nam và
quan điểm nghiên cứu”. Nguồn: truy cập
ngày 26/7/2017.
3. Lý lan (2018). Tiểu thuyết đàn bà. TP HCM: Nhà xuất bản Văn Nghệ.
4. Thornber & Karen (2016). Tính liên văn bản hay cộng đồng di dân. In trong cuốn Lý thuyết và ứng
dụng lý thuyết trong nghiên cứu văn học (tập bài giảng và tài liệu tham khảo). Hà Nội: Nhà xuất
bản Khoa học xã hội, tr.157, 158.
5. Ngô Thị Kim Cúc (2008). Những người đàn bà bị thất lạc. Báo Thanh Niên, ngày 20/3/2008. Nguồn:
/>6. Oxford
Reference
(2011).
Trauma
theory.
Nguồn:
/>7. Trần Lê Duy (2019). Từ lý thuyết chấn thương nhìn về cái chết của Chí Phèo. Nguồn:
/>
541




×