5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ KẾT HƠN CĨ YẾU TỐ
NƯỚC NGỒI
1.1. Khái niệm kết hơn có yếu tố nước ngồi
Đối với mỗi chúng ta, khái niệm “kết hơn” khơng q xa lạ hay nói cách khác là
vô cùng gần gũi, được sử dụng phổ biến trong đời sống thường ngày cũng như trong các
văn bản quy phạm pháp luật.
Tuy nhiên dưới mỗi góc độ nghiên cứu và theo nhu cầu sử dụng từ ngữ trong từng
hoàn cảnh mà khái niệm này được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Theo Từ điển Tiếng Việt (Dictionary of Vietnamese), “kết hơn” được hiểu là
“chính thức lấy nhau làm vợ chồng”1. Cịn theo Từ điển Luật học: “kết hơn là việc nam
và nữ xác lập quan hệ vợ chồng khi thỏa mãn các điều kiện kết hôn và thực hiện đăng ký
kết hơn tại cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Kết hôn là sự kiện
pháp lý làm phát sinh quan hệ hơn nhân”2.
Dưới góc độ xã hội, kết hôn là việc nam, nữ lấy vợ, lấy chồng khi đã trưởng thành
theo quan niệm của xã hội và phù hợp với quy định của pháp luật. Nam, nữ có vợ có
chồng là sự kiện đánh dấu họ đã trưởng thành về mặt thể chất, trí tuệ và trách nhiệm đối
với gia đình và xã hội. Người đã có vợ, có chồng có nghĩa vụ phải tiếp bước truyền
thống, phong tục, tập quán về gia đình và thực hiện chức năng cao quý là sản sinh ra thế
hệ kế tiếp nhằm duy trì dịng họ, thân tộc và góp phần phụng sự quốc gia, dân tộc.3
Dưới góc độ pháp lý, theo khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:
“kết hơn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của luật này
về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hơn”. Đây chính là cách hiểu mang tính pháp lý
được nhà làm luật thể hiện cụ thể thông qua quy định tại luật chuyên ngành nhằm
đảm bảo cách hiểu thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật. Và cũng là cách hiểu
mà nhóm tác giả thống nhất hiểu khi sử dụng từ ngữ này trong nội dung tiểu luận.
1
Trung tâm Từ điển học (2015), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 639.
Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư Pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Tư pháp, tr. 410.
3
Nguyễn Văn Tiến, Giáo trình Luật hơn nhân và gia đình Việt Nam, Chương IV, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia
Việt Nam, tr.152.
2
Đối với khái niệm “kết hơn có yếu tố nước ngồi”, pháp luật Việt Nam chưa có
văn bản quy phạm pháp luật nào định nghĩa về cách hiểu thống nhất đối với thuật ngữ
này. Tuy nhiên căn cứ vào khái niệm “quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi” được hiểu
là “quan hệ hơn nhân và gia đình mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài,
người Việt Nam định cư ở nước ngồi; quan hệ hơn nhân và gia đình giữa các bên tham
gia là cơng dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo
pháp luật nước ngồi, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở
nước ngồi” và khái niệm “kết hơn” được Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 định
nghĩa tại Điều 3, từ đó có thể kết luận: kết hơn có yếu tố nước ngồi là việc nam nữ xác
lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng
ký kết hơn, trong đó ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài, người Việt Nam định
cư ở nước ngồi hoặc việc kết hơn được xác lập theo quan hệ pháp luật nước ngoài, phát
sinh tại nước ngoài, trước cơ quan có thẩm quyền ở nước ngồi.
Các trường hợp được xem là kết hơn có yếu tố nước ngồi:4
- Người Việt Nam kết hơn với người nước ngồi tại Việt Nam, trước cơ quan nhà
nước có thẩm quyền của Việt Nam;
- Công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài tại Việt Nam hoặc trước cơ
quan đại diện của Việt Nam tại nước ngồi;
- Cơng dân Việt Nam mà một hoặc hai bên định cư ở nước ngồi kết hơn với nhau
tại Việt Nam hoặc tại nước ngồi;
- Cơng dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngồi kết hơn với cơng dân Việt
Nam hoặc với người nước ngoài tại Việt Nam hoặc tại nước ngoài;
- Cơng dân Việt Nam với người nước ngồi kết hơn với nhau tại nước ngồi, trước
cơ quan có thẩm quyền của nước ngồi (hai bên kết hơn đều là cơng dân Việt Nam nhưng
căn cứ xác lập quan hệ vợ chồng là ở nước ngồi).
4
Lê Thị Mận, Giáo trình Luật hơn nhân và gia đình Việt Nam, Chương IX, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt
Nam, tr.516.
1.2. Đặc điểm kết hơn có yếu tố nước ngồi
Dựa vào khái niệm trên có thể rút ra một số đặc điểm của kết hơn có yếu tố nước
ngồi sẽ giống với đặc điểm của quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngoài như sau:
Thứ nhất, chủ thể tham gia kết hơn có ít nhất một bên là người nước ngoài, người
Việt Nam định cư nước ngoài.
Theo Điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì
người nước ngồi là người khơng có quốc tịch Việt Nam. Như vậy, người nước ngồi có
thể bao gồm người có quốc tịch nước ngồi hoặc người khơng mang quốc tịch.
Bên cạnh đó, theo Điều 3 của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 thì người Việt
Nam định cư ở nước ngồi sẽ bao gồm “cơng dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư
trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”. Cũng theo quy định trên thì khái niệm người gốc
Việt Nam định cư ở nước ngồi là người đã từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh ra
quốc tịch của họ được xác định theo nguyên tắc huyết thống, vậy thì cha đẻ hoặc mẹ đẻ,
ông nội hoặc bà nội, ông ngoại hoặc bà ngoại của họ đã từng là người có quốc tịch Việt
Nam.
Như vậy, đối tượng để xác định kết hơn có yếu tố nước ngồi khơng chỉ xác định
dựa trên yếu tố quốc tịch mà còn dựa trên yếu tố nơi cư trú. Trong bối cảnh hội nhập
quốc tế, rất nhiều vấn đề đã được tồn cầu hóa cho nên số lượng cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài ngày càng nhiều. Chính vì vậy đây là cơ chế xác định đối tượng chủ
thể nhằm bảo vệ quyền lợi của người mang quốc tịch Việt Nam và những người Việt
Nam định cư nước ngồi.
Thứ hai, giữa các bên là cơng dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập quan hệ theo
pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài.
Trên cơ sở chủ động hội nhập, tham gia ký kết và công nhận các quy tắc chung
của cộng đồng quốc tế, nhằm tiến bộ và phát triển thì việc kết hơn có yếu tố nước ngồi
khơng chỉ được điều chỉnh bởi các quy định trong nước mà còn được điều chỉnh bởi các
quy định quốc tế chung, thậm chí là được điều chỉnh bởi cả quốc gia khác. Việc kết hôn
phát sinh hay xác lập ở nước ngoài, trước cơ quan thẩm quyền ở nước ngồi khơng
đương nhiên được cơng nhận tại Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên có quy định và đương nhiên cơng nhận hành vi kết hơn đó với những
điều kiện xác định.
1.3. Điều kiện kết hơn có yếu tố nước ngồi
Điều kiện kết hơn là những tiêu chí được nhà làm luật đặt ra nhằm yêu cầu những
chủ thể kết hơn phải có. Bên cạnh đó thì có những điều kiện được đặt ra mà chủ thể
khơng được có những điều kiện đó thì mới có thể kết hơn.
Điều kiện kết hơn có thể nói là đã tồn tại từ rất lâu với những tiêu chí khác nhau,
tùy thuộc vào rất nhiều các yếu tố như lãnh thổ, tôn giáo, chính trị, văn hóa, phong tục,
tập qn, … Như vậy, mỗi quốc gia vào từng giai đoạn, từng thời điểm lại có những điều
kiện kết hơn khác nhau, thậm chí trong một quốc gia mỗi thời kỳ lại quy định khác về
điều kiện kết hơn. Ví dụ như ở một số quốc gia vẫn công nhận hôn nhân đồng giới
(Brasil, Argentina, Hà Lan, ...) và được cho là hợp pháp cịn ở Việt Nam thì khơng, điều
đó được thể hiện qua quy định tại khoản 2 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Nhưng khơng thể nói sự xuất hiện hay thay đổi các điều kiện kết hôn là yếu tố cản trở
những chủ thể đến được với hôn nhân mà điều kiện kết hôn được quy định nhằm bảo vệ,
bảo đảm quan hệ hôn nhân và gia đình. Những quy định đó được xác lập và thay đổi
không chỉ dựa vào các ngành pháp lý hay ngành y học mà còn dựa vào tâm lý học, xã hội
học, … đồng thời còn chịu sự tác động từ tôn giáo, phong tục tập quán, truyền thống của
mỗi dân tộc. Chính vì vậy điều kiện kết hơn mới được xác lập và thay đổi sao cho phù
hợp với tâm sinh lý của con người, phù hợp với quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đặt ra,
phù hợp quan điểm chính trị của quốc gia, phong tục tập quán của dân tộc, …
Hiện nay xu thế tồn cầu hóa đang phát triển, những điều kiện kết hơn có yếu tố
nước ngồi theo đó cũng được thay đổi. Tuy nhiên sự thay đổi này là chưa đủ vì giữa các
quốc gia vẫn có những sự khác biệt rất lớn. Chính vì vậy cần có sự trao đổi giữa các quốc
gia nhằm điều chỉnh vấn đề này. Thông thường, để thống nhất việc chọn luật áp dụng,
các nước ký các điều ước quốc tế trong đó quy định điều kiện kết hơn của các bên sẽ do
pháp luật của nước mà các bên chủ thể điều chỉnh.5 Trong các hiệp định tương trợ tư
5
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật hơn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb, Hồng Đức –
Hội Luật gia Việt Nam, Chương IX, tr.518.
pháp mà Việt Nam là thành viên thì các quy phạm xung đột hướng tới việc chủ thể mang
quốc tịch của quốc gia nào thì áp dụng điều kiện của quốc gia đó.
Căn cứ để xác định điều kiện kết hôn đối với các chủ thể theo Điều 126 Luật Hơn
nhân gia đình năm 2014 như sau:
- Đối với việc kết hơn được tiến hành trước cơ quan có thẩm quyền của nước
ngồi thì cơng dân Việt Nam phải đáp ứng được các điều kiện kết hôn mà pháp luật Việt
Nam quy định cịn cơng dân nước ngồi phải tn thủ các điều kiện kết hôn theo pháp
luật nước mà họ mang quốc tịch.
- Đối với việc kết hôn được tiến hành trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của
Việt Nam thì khi kết hơn thì cơng dân phải tuân theo các điều kiện pháp luật của nước mà
họ mang quốc tịch, đồng thời nếu như là người nước ngồi thì phải tn điều kiện mà
pháp luật Việt Nam quy định.
Các điều kiện kết hôn được quy định tại Điều 8 Luật Hơn nhân và gia đình năm
2014 bao gồm: điều kiện về tuổi tác, điều kiện về ý chí chủ thể, điều kiện về hành vi dân
sự và các trường hợp cấm kết hôn.
1.3.1. Điều kiện về tuổi kết hôn
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 thì
tuổi kết hôn của nam là từ đủ 20 trở lên, nữ từ đủ 18 trở lên.
Điều kiện này được xây dựng dựa trên những yếu tố phù hợp với điều kiện tâm
sinh lý con người, khả năng thực hiện quyền và nghĩa vụ trong hơn nhân và gia đình, lịch
sử lập pháp, …
Thứ nhất, về tâm sinh lý con người. Đây có thể coi là yếu tố quan trọng nhất quyết
định khả năng kết hôn của con người. Về mặt sinh học, cơ thể con người lúc đó mới phát
triển đầy đủ, đủ khả năng thực hiện chức năng gia đình. Nam nữ xác lập quan hệ hơn
nhân để thực hiện chức năng cơ bản của gia đình là duy trì nịi giống. Đến độ tuổi này,
nam và nữ mới đạt sự phát triển hoàn thiện. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng: Các bà mẹ
sinh con trước tuổi 18 thường hay gặp các vấn đề về sức khỏe. Không những thế, việc
quy định độ tuổi như vậy còn gắn liền với khả năng phát triển về tư duy nhận thức, gắn
với mức độ độc lập, tự chủ của chủ thể để thực hiện các chức năng gia đình.6
Thứ hai, về khả năng thực hiện quyền và nghĩa vụ trong hôn nhân và gia đình. Kết
hơn là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ hơn nhân và gia đình. Chính vì vậy để thực
hiện quyền và nghĩa vụ trong hơn nhân thì địi hỏi vợ chồng phải có khả năng, trách
nhiệm. Khả năng và trách nhiệm khơng chỉ địi hỏi về mặt tâm sinh lý mà còn đòi hỏi về
kinh nghiệm và kỹ năng nhằm đảm bảo việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tốt nhất của
một người làm chồng làm vợ, làm cha làm mẹ, …
Thứ ba, độ tuổi kết hơn mà Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 quy định có sự
kế thừa từ các luật trước đó và phù hợp với yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội. Điều kiện về
độ tuổi kết hơn nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên cịn Luật Hơn nhân và gia
đình năm 2014 thì quy định độ tuổi nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên.
Đây có thể coi là sự nới lỏng cho các chủ thể thực hiện kết hôn trên điều kiện về mặt
pháp lý.
1.3.2. Điều kiện về ý chí của chủ thể
Điều kiện này được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 Luật Hơn nhân và gia đình
năm 2014: “Việc kết hơn do nam và nữ tự nguyện quyết định”. Đây là một sự tiến bộ của
Luật Hơn nhân và gia đình. Điều kiện này được thể hiện qua hành vi có mặt tại thời điểm
đăng ký kết hơn, hồn thành thủ tục kết hôn theo quy định của pháp luật. Sở dĩ khi kết
hôn không thể thiếu điều kiện này bởi vì tiêu chí để xây dựng điều kiện này là dựa trên
các quy tắc của pháp luật quốc tế về quyền con người nói chung và các nguyên tắc trong
Luật Hơn nhân và gia đình nói riêng.
Thứ nhất, điều kiện này là yếu tố quyết định sự tồn tại lâu dài trong hôn nhân cũng
như đảm bảo sự hạnh phúc trong gia đình. Hơn nhân là nhu cầu tất yếu của xã hội lồi
người tuy nhiên đi kèm theo đó là các nghĩa vụ mà các chủ thể kết hôn phải thực hiện
khơng phải chỉ vì chính họ mà cịn vì những chủ thể khác có liên quan, thậm chí là ảnh
hưởng đến các lĩnh vực của đời sống. Chính vì vậy, yếu tố bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
6
.
trong hơn nhân địi hỏi rất nhiều từ sự tự nguyện của mỗi chủ thể trong quan hệ hôn nhân
và gia đình.
Thứ hai, điều kiện này là sự tiến bộ của các nhà lập pháp, xóa bỏ những tàn tích
của chế độ phong kiến lạc hậu, những tư tưởng sai lệch. Có rất nhiều phong tục tập quán
tồn tại trong các thời kỳ trước và kèm theo đó là những tư tưởng đi ngược với sự phát
triển, phải kể đến là trọng nam khinh nữ, năm thê bảy thiếp. Đây có thể coi là những yếu
tố ảnh hưởng tiêu cực tới quan hệ hơn nhân và gia đình.
1.3.3. Điều kiện về năng lực hành vi dân sự
Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì điều kiện về năng lực hành vi dân
sự là một trong những điều kiện quan trọng để hợp pháp việc kết hôn. Căn cứ theo điểm c
khoản 1 Điều 8 Luật này quy định cả hai bên nam và nữ tại thời điểm kết hôn không bị
mất năng lực hành vi dân sự. Theo khoản 1 Điều 126 Luật Hơn nhân và gia đình năm
2014 về vấn đề kết hơn có yếu tố nước ngồi có nói rõ: Trong việc kết hơn giữa cơng
nhân Việt Nam với người nước ngồi thì mỗi bên phải tn theo pháp luật nước mình về
điều kiện kết hơn. Vậy nên điều kiện cả hai bên nam và nữ tại thời điểm kết hôn không bị
mất năng lực hành vi dân sự tại thời điểm kết hôn cũng đúng với trường hợp kết hơn có
yếu tố nước ngồi.
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của
mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 19 Bộ luật dân sự năm 2015).
Người thành niên – là người từ đủ mười tám tuổi trở lên – có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ trừ trường hợp được quy định tại các Điều 22, 23 và 24 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Và trong các trường hợp loại trừ của năng lực hành vi dân sự đầy đủ đó thì Điều 22 Bộ
luật này quy định về mất năng lực hành vi dân sự. Cụ thể theo khoản 1 Điều 22 Luật này
có định nghĩa như thế nào là mất năng lực hành vi dân sự như sau: “khi một người do bị
bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì
theo u cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan,
Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở
kết luận giám định pháp y tâm thần. Khi khơng cịn căn cứ tuyên bố một người mất năng
lực hành vi dân sự thì theo u cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích
liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định
tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự”.
Như vậy, để kết luận một người là mất năng lực hành vi dân sự cần hội tụ đủ 3
điều kiện:
+ Người này trước đó có năng lực hành vi dân sự nhưng do bị bệnh tâm thần hoặc
mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.
+ Được người có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan u cầu
Tịa án tun bố tình trạng mất năng lực hành vi dân sự.
+ Tòa án ra quyết định tuyên bố người này mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở
kết luận của giám định pháp y tâm thần.
Pháp luật quy định về điều kiện bị mất năng lực hành vi dân sự thì khơng được kết
hơn là bởi vì: Một trong những ngun tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình là sự
tự nguyện. Mà người bị tuyên là mất năng lực hành vi dân sự thì khơng thể nhận thức
được việc kết hôn, không thể làm chủ được quyết định nên để người mất năng lực hành vi
dân sự kết hôn là vi phạm vào nguyên tắc tự nguyện trong hơn nhân và gia đình. Việc để
người mất năng lực hành vi dân sự kết hơn cịn ảnh hưởng đến gia đình sau này,
vợ/chồng, con cái vì họ khơng có khả năng chăm sóc con cái hay nâng cao cuộc sống gia
đình. Gánh nặng sẽ đè lên người cịn lại và điều đó ảnh hưởng nặng đến chất lượng cuộc
sống và ảnh hưởng đến xã hội. Chính vì lẽ đó mà dù kết hơn có yếu tố nước ngồi hay
khơng có yếu tố nước ngồi đều phải tn thủ theo điều kiện trên khi áp dụng pháp luật
Việt Nam.
1.3.4. Các trường hợp cấm kết hôn và chung sống như vợ chồng
- Cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với
người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hơn hoặc chung sống như vợ
chồng với người đang có chồng, có vợ;
- Cấm kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người có quan hệ thân
thuộc;
- Cấm kết hơn giả tạo;
- Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn.
1.4. Đăng ký kết hơn có yếu tố nước ngồi
1.4.1. Khái niệm đăng ký kết hơn có yếu tố nước ngoài
Theo từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp: “đăng ký kết
hôn” là ghi vào sổ đăng ký kết hơn để chính thức cơng nhận nam nữ là vợ chồng trước
pháp luật7.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 9 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 thì việc đăng ký
khẳng định tính cần thiết của việc đăng ký kết hôn, nếu hai người kết hơn mà khơng đăng
ký kết hơn thì việc kết hơn đó khơng có giá trị pháp lý. Việc đăng ký kết hơn phải do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình và
pháp luật về hộ tịch. Kể từ ngày đăng ký kết hôn, các bên nam nữ phát sinh quan hệ vợ
chồng trước pháp luật.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 122 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014: “các
quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình của nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngồi, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”. Vậy nên việc kết hơn có yếu tố nước
ngồi được tiến hành tại cơ quan nhà nước Việt Nam thì phải đăng ký kết hôn theo thủ
tục của Luật này để quan hệ hôn nhân có giá trị pháp lý.
Dựa vào khoản 25 Điều 3 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 định nghĩa về
quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi và những phân tích trên thì ta có thể đưa ra khái
niệm về đăng ký kết hơn có yếu tố nước ngồi như sau: “Đăng ký kết hơn có yếu tố nước
ngoài là việc ghi vào sổ đăng ký kết hơn để cơ quan nhà nước có thẩm quyền chính thức
công nhận nam nữ là vợ chồng trước pháp luật, mà trong đó có ít nhất một bên tham gia
là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngồi; quan hệ hơn nhân và gia
đình giữa các bên tham gia là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi,
chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản
liên quan đến quan hệ đó ở nước ngồi”.
1.4.2. Thẩm quyền đăng ký kết hơn có yếu tố nước ngoài
7
Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Tư pháp, Nhà xuất bản từ điển Bách
Khoa, Hà Nội.
Theo Điều 37 Luật Hộ tịch năm 2014 quy định:
- Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam thực hiện đăng ký
kết hôn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi; giữa cơng dân Việt Nam cư trú ở
trong nước với công dân Việt Nam định cư ở nước ngồi; giữa cơng dân Việt Nam định
cư ở nước ngồi với nhau; giữa cơng dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngồi
với cơng dân Việt Nam hoặc với người nước ngồi.
- Trường hợp người nước ngồi cư trú tại Việt Nam có u cầu đăng ký kết hơn tại
Việt Nam thì Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của một trong hai bên thực hiện đăng
ký kết hôn.
Theo Điều 19 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều luật và
biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình quy định:
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, nơi đăng ký thường trú của công dân Việt Nam, thực
hiện đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngồi, giữa cơng dân Việt
Nam với nhau mà ít nhất một bên định cư ở nước ngồi. Trường hợp cơng dân Việt Nam
khơng có nơi đăng ký thường trú, nhưng có nơi đăng ký tạm trú theo quy định của pháp
luật về cư trú thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, nơi đăng ký tạm trú của công dân Việt Nam
thực hiện đăng ký kết hôn.
- Trường hợp người nước ngồi có u cầu đăng ký kết hơn với nhau tại Việt Nam
thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, nơi đăng ký thường trú của một trong hai bên, thực hiện
đăng ký kết hôn; nếu cả hai bên khơng đăng ký thường trú tại Việt Nam thì Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh, nơi đăng ký tạm trú của một trong hai bên thực hiện đăng ký kết hôn.
- Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh sự và cơ quan khác được ủy
quyền thực hiện chức năng lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài (sau đây gọi là Cơ quan
đại diện) thực hiện đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngồi, nếu
việc đăng ký đó khơng trái với pháp luật của nước sở tại.
Trường hợp công dân Việt Nam định cư ở nước ngồi kết hơn với nhau thì Cơ
quan đại diện thực hiện đăng ký kết hơn, nếu có yêu cầu.
Từ đó có thể thấy việc phân quyền cho các cơ quan Nhà nước thực hiện việc đăng
ký kết hơn có yếu tố nước ngồi được quy định hết sức cụ thể và chi tiết, tạo thuận lợi
cho cơng dân trong việc xác định cơ quan có thẩm quyền về việc tiến hành đăng ký kết
hơn có yếu tố nước ngoài đồng thời sự phân quyền rõ ràng tránh được trường hợp chồng
chéo về mặt thẩm quyền khiến việc giải quyết trì trệ hoặc khơng đảm bảo quyền lợi hợp
pháp của người tiến hành đăng ký cũng như tồn đọng hồ sơ trên thực tế.
1.4.3. Trình tự đăng ký kết hơn có yếu tố nước ngồi
Theo Điều 38 Luật Hộ tịch năm 2014 quy định trình tự thủ tục đăng ký kết hơn có
yếu tố nước ngồi:
- Hai bên nam, nữ nộp tờ khai theo mẫu quy định và giấy xác nhận của tổ chức y
tế có thẩm quyền của Việt Nam hoặc nước ngoài xác nhận người đó khơng mắc bệnh tâm
thần hoặc bệnh khác mà khơng có khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của mình cho cơ
quan đăng ký hộ tịch. Người nước ngồi, cơng dân Việt Nam định cư ở nước ngồi phải
nộp thêm giấy tờ chứng minh tình trạng hơn nhân, bản sau hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá
trị thay hộ chiếu.
- Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1
Điều này, cơng chức làm cơng tác hộ tịch có trách nhiệm xác minh, nếu thấy đủ điều kiện
kết hôn theo quy định của pháp luật thì Phịng Tư pháp báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp huyện giải quyết.
- Khi đăng ký kết hôn cả hai bên nam, nữ phải có mặt tại trụ sở Ủy ban nhân dân,
cơng chức làm công tác hộ tịch hỏi ý kiến hai bên nam, nữ, nếu các bên tự nguyện kết
hơn thì ghi việc kết hôn vào Sổ hộ tịch, cùng hai bên nam, nữ ký tên vào Sổ hộ tịch. Hai
bên nam nữ cùng ký vào Giấy chứng nhận kết hôn. Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, trao
Giấy chứng nhận kết hơn cho hai bên nam, nữ.
- Chính phủ quy định bổ sung giấy tờ trong hồ sơ đăng ký kết hơn, việc phỏng
vấn, xác minh mục đích kết hơn khi giải quyết yêu cầu đăng ký kết hôn; thủ tục cấp giấy
xác nhận tình trạng hơn nhân cho cơng nhân Việt Nam để kết hơn với người nước ngồi
tại cơ quan có thẩm quyền của người nước ngồi ở nước ngồi nhằm bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của các bên.
Trình tự thực hiện thủ tục đăng ký kết hơn có yếu tố nước ngồi theo Nghị định
126/2014/NĐ-CP được tiến hành như sau:
Điều 20 quy định hồ sơ đăng ký kết hôn gồm: một bộ hồ sơ bao gồm các giấy tờ
sau:
1. T 2. Giấy xác nhận tình trạng hơn nhân hoặc tờ khai đăng ký kết hơn có xác nhận
ờ
k
h
ai
đ
ă
n
g
k
ý
k
ết
h
ơ
n
c
ủ
a
m
ỗ
i
b
ê
n
t
h
e
o
m
ẫ
u
q
u
y
đ
ị
n
h.
tình trạng hôn nhân của công dân Việt Nam được cấp chưa quá 06 tháng, tính đến ngày
nhận hồ sơ; giấy tờ chứng minh tình trạng hơn nhân của người nước ngồi do cơ quan có
thẩm quyền của nước mà người đó là cơng dân cấp chưa q 06 tháng tính đến ngày nhận
hồ sơ, xác nhận hiện tại người đó là người khơng có vợ hoặc khơng có chồng. Trường
hợp pháp luật nước ngồi khơng quy định việc cấp giấy tờ xác nhận tình trạng hơn nhân
thì thay bằng giấy tờ xác nhận tuyên thệ của người đó hiện tại khơng có vợ hoặc khơng
có chồng, phù hợp với pháp luật của nước đó.
3. Giấy xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền của Việt Nam hoặc nước ngồi
cấp chưa q 06 tháng, tính đến ngày nhận hồ sơ, xác nhận người đó khơng mắc bệnh
tâm thần hoặc bệnh bệnh khác mà khơng có khả năng nhận thức, làm chủ được hành vi
của mình.
4. Đối với công dân Việt Nam đã ly hôn tại cơ quan có thẩm quyền của nước
ngồi, người nước ngồi đã ly hôn với công dân Việt Nam tại cơ quan có thẩm quyền của
nước ngồi thì phải nộp giấy xác nhận ghi vào Sổ hộ tịch việc ly hôn đã được giải quyết ở
nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam.
5. Bản sao sổ hộ khẩu hoặc sổ tạm trú (đối với công dân Việt Nam cư trú ở trong
nước), thẻ thường trú hoặc thẻ tạm trú hoặc chứng nhận tạm trú (đối với người nước
ngoài thường trú hoặc tạm trú tại Việt Nam kết hôn với nhau).
Ngoài ra, tùy vào từng trường hợp mà các bên còn phải nộp các loại giấy tờ tương
ứng khác theo quy định của pháp luật.
Thủ tục nộp và tiếp nhận hồ sơ được quy định tại Điều 21 gồm:
+ Hồ sơ đăng ký kết hôn do một trong hai bên kết hôn nộp trực tiếp tại Sở Tư
pháp, nếu đăng ký kết hôn tại Việt Nam hoặc Cơ quan đại diện, nếu đăng ký kết hôn tại
Cơ quan đại diện.
+ Cán bộ tiếp nhận hồ sơ có trách nhiệm kiểm tra giấy tờ trong hồ sơ, nếu hồ sơ
đầy đủ và hợp lệ thì viết phiếu tiếp nhận hồ sơ, ghi rõ ngày phỏng vấn và ngày trả kết
quả.
Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ, không hợp lệ, cán bộ tiếp nhận hồ sơ hướng dẫn
hai bên nam, nữ bổ sung, hoàn thiện. Việc hướng dẫn phải ghi vào văn bản, trong đó ghi
đầy đủ, rõ ràng loại giấy tờ cần bổ sung, hoàn thiện; cán bộ tiếp nhận hồ sơ ký, ghi rõ họ
tên và giao cho người nộp hồ sơ. Trường hợp người có yêu cầu nộp hồ sơ khơng đúng cơ
quan có thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 19 của Nghị định này thì cán bộ tiếp
nhận hồ sơ có trách nhiệm hướng dẫn người đó đến cơ quan có thẩm quyền để nộp hồ sơ.
Thời hạn giải quyết việc đăng ký kết hôn cũng được nhà làm luật đề cập tại Điều
22:
- Thời hạn giải quyết việc đăng ký kết hôn tại Việt Nam không quá 25 ngày, kể từ
ngày Sở Tư pháp nhận đủ hồ sơ hợp lệ và lệ phí.
Trường hợp Sở Tư Pháp yêu cầu cơ quan công an xác minh theo quy định tại
khoản 2 Điều 23 của Nghị định này thì thời hạn được kéo dài thêm không quá 10 ngày.
- Thời hạn giải quyết việc đăng ký kết hôn tại Cơ quan đại diện không quá 20
ngày, kể từ ngày Cơ quan đại diện nhận đủ hồ sơ hợp lệ và lệ phí.
Trường hợp Cơ quan đại diện yêu cầu cơ quan trong nước xác minh theo quy định
tại khoản 2 Điều 25 của Nghị định này thì thời hạn được kéo dài thêm khơng q 35
ngày.
Trình tự giải quyết việc đăng ký kết hơn tại Việt Nam được quy định tại Điều 23:
- Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ, Sở Tư pháp có trách nhiệm:
1. Phỏng vấn trực tiếp hai bên nam, nữ tại trụ sở Sở Tư pháp để kiểm tra làm rõ về
nhân thân, sự tự nguyện kết hơn, mục đích kết hơn và mức độ hiểu biết của hai bên nam,
nữ về hồn cảnh gia đình, hồn cảnh cá nhân của nhau; về ngơn ngữ, phong tục tập qn,
văn hóa pháp luật về hơn nhân và gia đình của mỗi nước. Trường hợp cần phiên dịch để
thực hiện phỏng vấn thì Sở Tư pháp chỉ định người phiên dịch.
Kết quả phỏng vấn phải được lập thành văn bản. Cán bộ phỏng vấn phải nêu rõ ý
kiến đề xuất của mình và ký tên vào văn bản phỏng vấn; người phiên dịch nếu có phải
cam kết dịch chính xác nội dung phỏng vấn và ký tên vào văn bản phỏng vấn.
2. Nếu kết quả phỏng vấn cho thấy hai bên kết hơn chưa hiểu biết về hồn cảnh
của nhau thì Sở Tư pháp hẹn ngày phỏng vấn lại, việc phỏng vấn lại được thực hiện trong
thời hạn 30 ngày kể từ ngày phỏng vấn trước.
3. Nghiên cứu, thẩm tra hồ sơ đăng ký kết hôn; trường hợp nghi vấn có khiếu nại,
tố cáo việc kết hơn thơng qua mơi giới nhằm mục đích kiếm lời, kết hơn giả tạo, lợi dụng
việc kết hơn để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, kết hơn vì mục
đích trục lợi khác hoặc xét thấy có vấn đề cần làm rõ. Về nhân thân của bên nam và bên
nữ hoặc giấy tờ trong hồ sơ đăng ký kết hơn thì Sở Tư pháp xác minh làm rõ.
- Trường hợp xét thấy vấn đề cần xác minh thuộc chức năng của cơ quan cơng an
thì Sở Tư pháp có văn bản nêu rõ vấn đề cần xác minh, kèm theo bản chụp hồ sơ đăng ký
kết hôn gửi cơ quan công an cùng cấp đề nghị xác minh.
Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản của Sở Tư pháp,
cơ quan công an xác minh vấn đề được yêu cầu và trả lời bằng văn bản cho Sở Tư pháp.
Nếu hết thời hạn xác minh theo quy định tại Điều này mà cơ quan Cơng an chưa
có văn bản trả lời thì Sở Tư Pháp vẫn hoàn tất hồ sơ, đề xuất ý kiến trình Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định, trong đó nêu rõ vấn đề đã yêu cầu cơ quan Công
an xác minh.
- Sau khi thực hiện phỏng vấn hai bên nam, nữ, nghiên cứu, thẩm tra hồ sơ kết
hôn, ý kiến của cơ quan Công an (nếu có), Sở Tư pháp báo cáo kết quả và đề xuất giải
quyết việc đăng ký kết hơn, trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định kèm theo bộ hồ sơ
đăng ký kết hôn.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản trình của Sở Tư
pháp cùng hồ sơ đăng ký kết hôn, nếu xét thấy hai bên nam, nữ đáp ứng đủ điều kiện kết
hôn, không thuộc trường hợp từ chối đăng ký kết hôn quy định tại Điều 26 của Nghị định
này thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ký Giấy chứng nhận kết hôn và trả hồ sơ cho
Sở Tư pháp để tổ chức lễ đăng ký kết hôn. Trường hợp từ chối đăng ký kết hôn, Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh có văn bản nêu rõ lý do gửi Sở Tư pháp để thông báo cho hai bên nam,
nữ.
- Trường hợp kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau mà hai bên định cư ở
nước ngoài, kết hơn giữa người nước ngồi với nhau tại Việt Nam thì khơng áp dụng biện
pháp phỏng vấn quy định tại khoản 1 điều này.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ ĐĂNG KÝ KẾT HƠN CĨ YẾU TỐ NƯỚC
NGỒI TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1.
Thực trạng áp dụng pháp luật về vấn đề đăng ký kết hơn có yếu tố nước
ngồi tại thành phố Hồ Chí Minh
2.1.1. Thuận lợi khi áp dụng pháp luật về đăng ký kết hơn có yếu tố nước ngồi tại
Thành phố Hồ Chí Minh
Việt Nam đang ngày càng hội nhập quốc tế, mở rộng quan hệ ngoại giao. Đây là
yếu tố giúp cho việc áp dụng các điều kiện kết hôn cũng như đăng ký kết hơn có yếu tố
nước ngồi dễ dàng và thuận lợi hơn. Việt Nam đã ký kết nhiều điều ước quốc tế về quan
hệ hơn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài hay các Hiệp định tương trợ tư pháp về các
vấn đề dân sự, gia đình và hình sự với nhiều quốc gia (như Cộng hòa Cuba, Cộng hòa
Balan,…). Từ đó, tạo được nhiều điều kiện thuận lợi cho cơng dân Việt Nam ở nước
ngồi có thể thực hiện được việc kết hôn dễ dàng mà không gặp các vấn đề tư pháp; đồng
thời cũng là sự khuyến khích cho người nước ngoài đang định cư, sinh sống ở Việt Nam
tiến hành các thủ tục đăng ký kết hôn mà không phải lo lắng về các thủ tục tư pháp.
Làm cho sự kì thị chủng tộc, rào cản về pháp lý, thủ tục về visa, sự cản trở đa dạng
về nghề nghiệp văn hóa và lối sống khơng thể tồn tại, phát huy tốt quyền tự do của con
người về mọi mặt.
Thẩm quyền đăng ký kết hơn có yếu tố nước ngoài được giao cho Uỷ ban nhân
dân cấp huyện, khơng cịn là thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã tạo nhiều
thuận lợi cho người dân. Họ không cần phải đi xa xơi, mất nhiều thời gian, chi phí. Đồng
thời việc thay đổi thẩm quyền này cũng làm tăng trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp
huyện và tăng cường vai trò quản lý của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
Đội ngũ cán bộ hộ tịch phụ trách việc đăng ký kết hơn có yếu tố nước ngồi ngày
càng được nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ; có các kỹ năng cơ bản để giải quyết
các vấn đề có thể phát sinh đối với việc kết hơn có yếu tố nước ngồi.
Trung tâm hỗ trợ kết hơn Thành phố Hồ Chí Minh hoạt động tích cực, chủ động
và kịp thời cho phụ nữ tại địa bàn Thành phố. Hoạt động của trung tâm như tư vấn, tuyên
truyền cho mọi người biết về các thông tin cần thiết của quan hệ hơn nhân gia đình có
yếu tố nước ngồi; từ đó để chị em có nhận thức chính xác, đưa ra quyết định đúng đắn
trong việc kết hơn có yếu tố nước ngồi và đồng thời cũng nâng cao được tính tự nguyện
trong kết hơn. Ngồi ra, trung tâm cịn giới thiệu, giúp đỡ những người có nhu cầu hơn
nhân (cả cơng dân Việt Nam và người nước ngồi) tìm hiểu các vấn đề về hồn cảnh cá
nhân, gia đình, xã hội, phong tục, tập qn, … để có đủ thơng tin tiến tới hơn nhân tự
nguyện, bình đẳng tiến bộ; giúp đỡ các bên thực hiện các thủ tục đăng ký kết hôn. Theo
số liệu năm 2010, trung tâm đã tiếp nhận tư vấn 2.150 trường hợp, trong đó 1.718 là phụ
nữ (chiếm trên 80%). Đã có 1.025 trường hợp có quyết định kết hơn với người nước
ngồi và 365 trường hợp đăng ký kết bạn trong nước. Trung tâm đã giới thiệu được 272
cặp hôn nhân tự nguyện.8
Từ các văn bản, Nghị quyết của Chính phủ như:
+ Luật Hơn nhân và gia đình ngày 19/06/2014 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2015);
+ Luật Hộ tịch ngày 20/11/2014 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2016);
+ Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch (có hiệu lực từ ngày 01/01/2016);
+ Thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 của Bộ Tư pháp Quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày
8
truy cập ngày 11/04/2020.
15/1/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch
(có hiệu lực từ ngày 02/01/2016);9
Thành phố cũng ban hành thêm Quyết định số 52/2016/QĐ-UBND ngày
10/12/2016 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ban hành mức thu 10 loại phí
và 07 loại phí trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (có hiệu lực từ ngày 01/01/2017), để
từ đó đưa ra được một thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngồi hồn chỉnh nhất giúp
cho người dân có thể dễ dàng áp dụng một cách hiệu quả hơn.
Ví dụ: Nhờ có các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn cũng như đăng ký
kết hơn có yếu tố nước ngồi mà việc kết hơn của một người Việt Nam với một người
nước ngoài diễn ra một cách thuận lợi hơn, xu hướng lấy chồng nước ngoài cũng trở nên
phổ biến hơn. Chẳng hạn như: Ca sĩ Thu Minh với chồng ngoại quốc là một doanh nhân
người Hà Lan, Đoan Trang kết hôn cùng một người đàn ông Thụy Điển hay vào tháng
06/2016, siêu mẫu Hà Anh lên xe hoa cùng người đàn ơng có quốc tịch nước ngoài
nhưng sinh sống và làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh, mới đây nhất là hơn lễ giữa ca
sĩ Võ Hạ Trâm và người chồng Ấn Độ vào tháng 01/2019,…
Thủ tục đăng ký kết hơn có yếu tố nước ngoài ngày càng được rút gọn và được xử
lý nhanh chóng, tạo nhiều thuận lợi cho các chủ thể thực hiện quyền đăng ký kết hơn có
yếu tố nước ngồi của mình.
2.1.2. Khó khăn khi áp dụng pháp luật về đăng ký kết hơn có yếu tố nước ngồi tại
thành phố Hồ Chí Minh
Kết hơn với người nước ngoài là quyền nhân thân của mỗi người, trên cơ sở bảo
đảm nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, bình đẳng theo Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014
đang có hiệu lực thì pháp luật Việt Nam khơng có bất cứ quy định nào ngăn cản hay là
cấm việc kết hơn có yếu tố nước ngồi. Nhưng trên hiện nay, xã hội ngày càng phát triển,
ngày càng thay đổi cho nên đòi hỏi pháp luật cũng sẽ trở nên bị lạc hậu so với thời đại. Vì
vậy, trong quá trình ngun cứu về điều kiện kết hơn có yếu tố nước ngồi thì đã cho ta
thấy những khó khăn cũng như những nhược điểm khi áp dụng pháp luật trên thực tế. Do
9
/>
đó, nhóm tác giả đã tìm được một số khó khăn và một số nhược điểm cịn thiếu sót của
Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 trong q trình đăng ký, làm thủ kết hơn có yếu tố
nước ngồi. Qua đó, ta có thể khắc phục và làm cho hệ thống Luật Hơn nhân và gia đình
năm 2014 ở nước ta ngày càng hoàn thiện hơn. Sau đây là một số những bất cập, khó
khăn mà nhóm tác giả đã tìm hiểu trong quá trình nghiên cứu:
Thứ nhất, trong Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 và các văn bản hướng dẫn
thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì khơng có các quy định cụ thể, chi tiết,
rõ ràng về điều kiện kết hơn có yếu tố nước ngồi, mà nó chỉ quy định một cách chung
chung, khơng có sự tách biệt rạch rịi giữa quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi và
quan hệ hơn nhân khơng có yếu tố nước ngồi. Từ đó, làm cho các cơ quan tiến hành
đăng ký kết hơn khó khăn hơn khi mà áp dụng vào thực tiễn cuộc sống. Ví dụ như về
điều kiện độ tuổi kết hôn của Việt Nam nam giới từ đủ 20 tuổi, còn nữ giới là từ đủ 18
tuổi là phù hợp với văn hóa của người Việt. Tuy nhiên, ở một số quốc gia Châu Âu nam
giới phát triển trưởng thành sớm hoặc muộn hơn nên độ tuổi ở các nước đó thấp hơn hoặc
ngược lại là cao hơn so với Việt Nam. Điển hình như Hàn Quốc độ tuổi kết hôn nam nữ
đều từ đủ 21 tuổi trở lên. Vậy, nếu như người Việt mình đăng ký kết hơn ở Việt Nam đã
đủ điều kiện về độ tuổi theo quy định của pháp luật nước ta nhưng lại không đủ điều kiện
về độ tuổi kết hôn mà Hàn Quốc quy định, liệu hơn nhân có yếu tố nước ngồi đó có
được pháp luật hai bên thừa nhận. Hoặc ngược lại, người Việt Nam đủ điều kiện kết hôn
và làm thủ tục kết hơn với người nước ngồi, sau đó về Việt Nam tiếp tục đăng ký kết
hôn lại ở Việt Nam nhưng không đủ điều kiện về tuổi quy định kết hơn ở Việt Nam thì cơ
quan tiến hành đăng ký phải làm thế nào khi đăng ký nước ngồi đã xong cịn thủ tục
Việt Nam thì khơng làm được? Cho nên, nhóm tác giả nghĩ cần quy định riêng về điều
kiện kết hơn có yếu tố nước ngồi và kết hơn khơng có yếu tố nước ngồi.
Và hiện trạng thực tế đã xảy ra, nhiều phụ nữ người Việt Nam lấy chồng nước
ngoài, họ bị bạo hành, ngược đãi ở nước ngoài một phần là do nguyên nhân pháp luật
nước ta khơng có sự phân biệt rõ ràng về nguyên tắc, thủ tục khi tiến hành đăng ký kết
hơn với người nước ngồi, bên cạnh đó một phần dẫn đến sự việc trên là do cơ quan đăng
ký kết hôn chưa đảm bảo ở chỗ lúc họ đăng ký kết hôn không kèm theo cam kết hay điều
kiện gì để bảo vệ quyền lợi của người Việt Nam sau khi họ đã đăng ký kết hơn. Vì kết
hơn với người nước ngồi có thể người Việt Nam sẽ xuất cảnh và sinh sống ở nước ngoài
nên lúc đăng ký kết hôn tại sao luật pháp nước ta lại khơng quy định thêm cam kết giữa
người nước ngồi với người Việt Nam về những quyền lợi để bảo vệ con người, sở dĩ ta
làm như vậy là muốn cho người nước ngồi biết nếu kết hơn với cơng dân Việt Nam thì
họ khơng được có những hành vi đánh đập, hành hạ công dân Việt Nam, nếu họ làm
những hành vi như vậy sẽ có những chế tài nào để xử lý họ trong những trường hợp trên
bên cạnh áp dụng pháp luật của chính quốc gia họ đang cư trú để xử lý? Điều đó thì pháp
luật nước ta lại chưa có quy định cụ thể. Chính vì thế, sẽ có nhiều tư tưởng là họ nghĩ
mình đưa vợ/chồng ra nước ngồi thì pháp luật về Hơn nhân và gia đình Việt Nam khơng
can thiệp? Vì thế, để tránh trường hợp trên xảy ra thì pháp luật nước ta cần phải có những
quy định cụ thể, rõ ràng trong văn bản pháp luật để can thiệp đúng lúc, kịp thời trong
những trường hợp người nước ngoài đối xử không tốt với công dân Việt Nam, nhưng mà
cho đến hiện nay pháp luật nước ta chưa có quy định điều luật cụ thể, rõ ràng để xử lý
những trường hợp đó, những điều luật cịn rất chung chung vì thế mà pháp luật nước ta
vẫn chưa thể bảo vệ được quyền lợi của họ khi bị xâm hại ở nước ngồi. Nên đây cũng là
vấn đề khi cơng dân kết hơn với nước ngồi, Việt Nam phải có những cơ chế như thế nào
bảo vệ công dân của nước mình.
Thứ hai, ngồi việc quy định điều kiện kết hơn khơng được cụ thể, rõ ràng thì vấn
đề về tuổi tác kết hôn cũng là một vần đề cần đặt ra khi giải quyết trong các trường hợp
thực tế. Hiện nay, trong tất cả các văn bản pháp luật của nước ta chỉ quy định độ tuổi tối
thiểu của nam là từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ là từ đủ 18 tuổi trở lên là đủ điều kiện kết hơn
nhưng nó lại chưa có sự quy định về sự chênh lệch độ tuổi khi kết hôn. Trên thực tế, qua
phân tích thực trạng kết hơn có yếu tố nước ngồi thì có một số trường hợp phụ nữ kết
hơn với người hơn mình trên 20 tuổi trở lên, thậm chí cịn có những trường hợp kết hơn
chênh lệch nhau đến tận 30, 40 tuổi. Bên cạnh đó, khơng ít những gia đình coi việc kết
hơn với người nước ngồi là chìa khóa để cải thiện đời sống kinh tế, dẫn đến nhiều cuộc
hơn nhân khơng có tình cảm, mà là sự mua bán bất chấp sự chênh lệch về tuổi tác, về sức
khỏe, ... Mặc dù, kết hôn là sự tự nguyện của hai bên nên khơng có quy định giới hạn về
tuổi tác nhưng sự chênh lệch quá nhiều về tuổi tác (chẳng hạn một người nước ngoài 80
tuổi lấy một người Việt Nam 18 tuổi) có thể sẽ dẫn đến chất lượng cuộc sống hôn nhân
không như mong muốn, bên cạnh đó sẽ tạo nên sự khác biệt quá lớn về tâm lý, sinh lý,
ảnh hưởng đến sự phát triển của thế hệ tương lai và những giá trị đạo đức truyền thống,
thuần phong mỹ tục của nước ta. Cũng chính vì sự chênh lệch q lớn về tuổi tác, mà một
số cán bộ tư pháp họ khơng có cơ sở nào để từ chối không cho đăng ký kết hơn. 10 Đó là
một vấn đề cần được hồn thiện trong tương lai trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Thứ ba, việc chuẩn bị hồ sơ kết hơn có yếu tố nước ngồi thì đó là một q trình
đầy khó khăn đối với các bên nam, nữ chuẩn bị kết hôn. Một minh chứng cụ thể cho điều
này là pháp luật Việt Nam có quy định người nước ngồi phải cung cấp đầy đủ giấy tờ
độc thân sau đó mới tiến hành làm thủ tục đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, việc cấp Giấy
chứng nhận độc thân không là một việc dễ dàng đối với những người nước ngoài. Thực tế
thì hiện nay việc cấp Giấy chứng nhận khơng phải tất cả các quốc gia đều cấp Giấy
chứng nhận tình trạng độc thân cho cơng dân nước mình mà có một số nước khơng có
quy định về việc cấp Giấy chứng nhận độc thân, trong khi đó cơng dân Việt Nam kết hơn
với người nước ngồi, cơng dân Việt Nam định cư ở nước ngồi với nhiều nước khác
nhau. Vì vậy làm cho các cán bộ công chức trong quá trình tiến hành làm thủ tục kết hơn
đơi khi cịn lúng túng trong việc tiếp cận với các giấy tờ chứng minh tình trạng độc thân
được lập tại nước ngồi của các nước khơng có trong danh mục được cấp Giấy chứng
nhận độc thân11. Từ đó đã dẫn đến một số người nước ngồi khơng thể kết hơn với cơng
dân Việt Nam. Bên cạnh đó, một bất cập xảy ra đối với vấn đề cấp Giấy chứng nhận độc
thân là nếu một người họ sống ở nhiều nơi khác nhau, họ sống trong và ngồi nước thì họ
phải đến tất cả những nơi họ đã sinh sống và cư trú để xin cấp giấy chứng nhận độc thân
thì việc này quả là một khó khăn lớn cho các bên nam, nữ. Vì thế, trên thực tế, cơng việc
10
/>10/4/2020 vào lúc 10 giờ 22 phút.
11
/>10/4/2020 vào lúc 22 giờ 35 phút.
truy
cập
ngày
truy
cập
ngày
xin cấp Giấy chứng nhận độc thân thì các đương sự sẽ nhờ cơ quan nhà nước có thẩm
quyền tiến hành thay mình để xin được cấp Giấy chứng nhận độc thân cho mình. Điều đó
là vấn đề thuận lợi cho các bên nam, nữ hơn khi họ không cần phải tự mình đi đến những
nơi đó để xin Giấy chứng nhận độc thân. Tuy nhiên, nếu nhà nước làm thay cho đương sự
mà sau 15 ngày vẫn chưa thể cấp giấy chứng nhận độc thân cho các bên nam, nữ thì việc
kết hơn của họ sẽ bị tạm ngưng trong một thời gian cho đến khi họ có được Giấy chứng
nhận độc thân. Vì thế, để giải quyết vấn đề này thì hiện nay pháp luật nước ta cũng chưa
có văn bản nào hướng dẫn về việc này, nếu sau 15 ngày mà các bên vẫn chưa có Giấy
chứng nhận độc thân thì họ sẽ làm những gì để tiếp tục q trình làm thủ tục kết hơn hay
là họ sẽ phải ngưng kết hơn cho đến khi có được Giấy chứng nhận độc thân. Đây vẫn còn
là vấn đề khó khăn trong tương lai mong pháp luật nước ta sẽ sớm có biện pháp khắc
phục tốt hơn.
Thứ tư, việc lựa chọn cơ quan đăng ký kết hôn đối với việc kết hơn có yếu tố
nước ngồi thì hiện nay nước ta quy định có hai lựa chọn để các bên tiến hành thủ tục
đăng ký kết hôn: Một là, họ sẽ đến cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam tại Việt Nam để
đăng ký kết hôn. Hai là, họ sẽ đến cơ quan có thẩm quyền của quốc gia mà người nước
ngồi có quốc tịch để đăng ký kết hơn. Khi đó, vấn đề đặt ra lúc này là họ sẽ phải lựa
chọn cơ quan nào để đăng ký kết hôn. Thực tiễn, đây là vấn đề không hề đơn giản. Bởi lẽ
không phải lúc nào đăng ký kết hôn tại Việt Nam cũng dễ dàng hơn đăng ký kết hơn tại
quốc gia mà người nước ngồi có quốc tịch. Ví dụ điển hình về vấn đề này là: Khi công
dân Việt Nam kết hôn với người Trung Quốc thì việc đăng ký tại Trung Quốc sẽ thuận
lợi hơn so với việc đăng ký kết hôn tại Việt Nam. Tuy nhiên, khi công dân Việt Nam kết
hôn với người Mỹ hoặc người Anh thì việc kết hơn tại Việt Nam lại có nhiều điểm dễ
thực hiện hơn so với việc đăng ký kết hôn tại Mỹ hoặc Anh. Vì thế, để có thể lựa chọn
được đúng cơ quan đăng ký kết hơn địi hỏi người đi đăng ký đăng kết hơn phải có những
am hiểu nhất định về pháp luật mà nước mình dự định kết hơn, đó là một vấn đề gây
khơng ít khó khăn cho các bên muốn đăng ký kết hôn khi mà họ không am hiểu cũng như
không hiểu biết về quy định pháp luật của từng nước.
Thứ năm, việc xác định tính tự nguyện của hai bên cũng đang là một vấn đề khó
khăn cho các cán bộ khi tiến hành thủ tục đăng ký kết hơn có yếu tố nước ngồi. Tính đến
thời điểm hiện nay, Nhà nước ta chưa ban hành một văn bản pháp luật nào quy định cụ
thể về việc xác định tính tự nguyện giữa các bên. Từ đó, đã tạo nên những bất cập trong
quá trình áp dụng vào thực tế bởi vì khơng biết cuộc hơn nhân có yếu tố nước ngồi đó
phải là sự tự nguyện của hai bên khơng, hay cuộc hơn nhân đó chỉ là nhằm mục đích đơi
bên có lợi mà thơi. Việc xác định tính tự nguyện là rất khó vì chưa có một văn bản nào
hướng dẫn về vấn đề này, cho nên thực tiễn thì việc xác định tính tự nguyện chỉ có thể
dựa vào những người trực tiếp làm thủ tục đăng ký kết hơn, dựa vào sự cảm tính, khách
quan của đơi bên nam, nữ mà từ đó cơ quan tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn cho họ.
Trước đây, muốn đánh giá sự hiểu biết của các bên cũng như sự tự nguyện của hai bên thì
có thể thơng qua việc phỏng vấn sau đó mới đến việc tiến hành đăng ký thủ tục kết hơn.
Tuy nhiên thì hiện nay khi Luật Hộ tịch 2012 đang có hiệu lực áp dụng, hiện nay thì đã
bỏ đi quy định phải phỏng vấn đối với hai bên nam, nữ. Vì vậy, việc xác định tính tự
nguyện của hai bên lại càng gặp nhiều khó khăn hơn12. Trên thực tế, cho thấy có rất nhiều
cuộc hơn nhân nằm ngồi mục đích thực của hơn nhân, chủ yếu vì lý do kinh tế hoặc để
được xuất cảnh, … Vì thế, nó khơng đáp ứng được yếu tố hoàn toàn tự nguyện giữa hai
bên. Và pháp luật nước ta cũng chưa có biện pháp hữu hiệu hay những chế tài xử phạt
nào để ngăn chặn tình trạng kết hơn giả tạo nhằm mục đích khác, đó là một vấn đề khó
khăn cũng như là bất cập trong hệ thống pháp luật của nước ta cần phải được hoàn thiện
trong tương lai.
Thứ sáu, khả năng bất đồng về ngôn ngữ của hai bên cũng là một vấn đề đáng lo
ngại, thực tế có rất nhiều các trường hợp công dân Việt Nam kết hôn với cơng dân nước
ngồi có sự bất đồng về ngơn ngữ. Cũng vì khơng hiểu biết về ngơn ngữ, văn hóa của đất
nước họ đến nên khi về nhà chồng, nhà vợ lại sống chung với bố và gia đình vợ/chồng.
Cụ thể, thường thì cơng dân nước ngồi thì họ khơng thể nói được tiếng Việt hoặc có thể
giao tiếp được nhưng lại hạn chế về cách diễn đạt từ ngữ và cơng dân Việt Nam thì cũng
12
/>10/4/2020 vào lúc 10 giờ 22 phút.
truy
cập
ngày
giống như vậy họ không thể nghe, hiểu được người nước ngồi đang nói gì. Vì thế, nếu
chỉ căn cứ vào khả năng giao tiếp chưa có sự thống nhất chung về ngôn ngữ mà tiến hành
đăng ký kết hôn thì từ đó sẽ tạo nên những khó khăn trong q trình tiến hành đăng ký
kết hơn13. Và sự bất đồng về ngôn ngữ, về phong tục tập quán làm cho khơng ít chị em
phải đối mặt với cuộc sống cô đơn, không người chia sẻ, chỉ như một cái bóng trong gia
đình chồng, bị nhà chồng coi thường nhất là các cô gái xuất thân từ nông thôn, không có
trình độ, khi sang các nước đó sẽ khơng gây ít khó khăn.
Thứ bảy, hiện nay thì Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hơn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngồi khơng cịn là một yếu tố bắt buộc trước khi tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn
mà nó là một sự tự nguyện của các bên, Nhà nước khơng ép buộc. Chính vì thế, đó được
coi là một vấn đề bất cập gây khó khăn đối với cơ quan tiến hành đăng ký kết hôn cũng
như giữa các bên tiến hành kết hơn. Bởi vì, việc có Giấy xác nhận đã được tư vấn và hỗ
trợ hôn nhân có yếu tố ngồi là rất quan trọng đối với các bên cũng như tạo nên sự thuận
lợi trong q trình tiến hành thủ tục kết hơn được tiến hành thuận lợi và nhanh chóng
hơn. Nhờ Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài mà các bên
sẽ được tư vấn, hỗ trợ, để nâng cao sự hiểu biết về văn hóa, phong tục tập quán, pháp
luật, đất nước, con người của người mà mình dự định kết hơn hoặc có thể giúp đỡ các bên
kết hơn tìm hiểu các vấn đề về hồn cảnh cá nhân, gia đình, xã hội của mỗi bên và các
vấn đề khác liên quan mà các bên yêu cầu, tạo điều kiện để họ tiến tới hơn nhân tự
nguyện, tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc, thậm chí các cá nhân đăng ký kết hơn cịn phải
hiểu được rằng những vấn đề nào mà pháp luật nước ta cịn chưa thể hồn thiện cũng như
chưa tiến hành ký kết các Điều ước quốc tế, Hiệp định tương trợ tư pháp để bảo đảm
quyền của công dân Việt Nam một cách tốt nhất và pháp luật nước mà người đó sẽ chung
sống với người nước ngồi sau kết hơn có điểm gì khác biệt, bất lợi hơn so với pháp luật
nước ta.
Thứ tám, khó khăn sau khi các bên nam, nữ đã đăng ký kết hôn. Đây là khó khăn
xuất phát từ việc người đi đăng ký kết hơn đã tìm hiểu khơng đầy đủ, khơng hiểu một
13
/>10/4/2020 vào lúc 10 giờ 22 phút.
truy
cập
ngày
cách chính xác các quy định của pháp luật. Do đó, việc kết hơn có yếu tố nước ngồi khi
đăng ký kết hôn tại một trong hai cơ quan đã nói ở trên thì việc cịn lại cần làm là phải
ghi chú kết hơn tại quốc gia cịn lại. Thực tế, có rất nhiều cặp đơi do khơng hiểu biết nên
cho rằng chỉ cần kết hôn tại Việt Nam hoặc tại quốc gia mà người nước ngồi có quốc
tịch là thủ tục kết hơn đã hồn thành. Thực tiễn khơng phải như vậy, việc kết hơn với
người nước ngồi cần phải được cơ quan quản lý Hộ tịch của cả hai quốc gia chứng nhận
thì việc đăng ký kết hơn mới đầy đủ 14. Cũng chính những hiểu biết hạn hẹp về pháp luật
cũng như những quy định không cụ thể, rõ ràng trong luật đã làm cho cho các bên đương
sự không áp dụng đúng pháp luật vào trong thực tiễn cuộc sống. Hơn thế nữa, nếu xảy ra
vấn đề xung đột giữa pháp luật quốc gia Việt Nam với pháp luật quốc gia của người kết
hơn có quốc tịch nước ngoài hoặc xung đột với Điều ước quốc tế thì ở đây sẽ xảy ra vấn
đề khơng biết ưu tiên áp dụng pháp luật của nước nào. Vì vậy, nếu xung đột với Điều ước
quốc tế thì theo Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 và Bộ luật dân sự năm 2015 thì ưu
tiên áp dụng Điều ước quốc tế. Còn đối với sự xung đột giữa pháp luật quốc gia Việt
Nam và pháp luật quốc gia của người có quốc tịch nước ngồi muốn kết hơn với cơng
dân Việt Nam thì ở đây ta sẽ ưu tiên dùng pháp luật của quốc gia Việt Nam nếu việc kết
hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam theo khoản 1 Điều
126 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014. Tuy nhiên, Luật Hơn nhân và gia đình năm
2014 cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài nếu pháp luật nước ngoài không vi phạm
những nguyên tắc tại Điều 2 của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 thì vẫn được áp
dụng. Dẫn đến tình trạng dẫn chiếu ngược lại nhau và quy định này khơng cho biết pháp
luật nước ngồi, pháp luật Việt Nam khi được dẫn chiếu đến bao gồm những nội dung gì,
dẫn chiếu tới pháp luật nội dung hay cả pháp luật nội dung và xung đột 15. Do đó làm cho
cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hơn khó khăn trong khâu áp dụng luật, đồng thời làm
cho cơng dân Việt Nam có ý định lấy chồng/vợ nước ngồi phải băn khoăn khơng biết
14
truy cập ngày 10/04/2020, vào 12 giờ 20
phút.
15
Vũ Thị Hương, Bất cập Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 và Kiến nghị hoàn thiện, 2017,
tr.45.