Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tiêu chí đánh giá VHAT.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.21 KB, 12 trang )

Em xem tài liệu tôi gửi kèm đây và bản luận văn của em để sắp xếp lại. Các nội dung liện
quan đến đề cương dưới đây em cứ đưa vào rồi chỉnh sửa sau, điều quan trọng nhất là
sắp xếp logic đã nhé
Đề cương sắp xếp lại:
Chương 1. Cơ sở lý luận về văn hóa an tồn trong doanh nghiệp
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.2. Vai trò của văn hóa an tồn trong doanh nghiệp
1.3. Nội dung văn hóa an tồn trong doanh nghiệp
1.4. Các tiêu chí đánh giá văn hóa an tồn trong doanh nghiệp (xem tài liệu mình gửi ở
dưới)
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến văn hóa an tồn trong doanh nghiệp
1.6. Kinh nghiệm của 1 số DN về hồn thiện văn hóa an tồn
Chương 2. Thực trạng văn hóa an tồn tại cơng ty…
2.1. Tổng quan về cơng ty
2.2. Thực trạng văn hóa an tồn tại cơng ty (em đánh giá theo các tiêu chí bảng mình gửi
bên dưới đây – phần bơi vàng)
2.3. Đánh giá thực trạng (ưu nhược điểm): nhận xét dựa trên bảng tiêu thức đánh giá ở
trên xem đã làm đc gì? Chưa làm đc gì? Tại sao chưa làm đc (là do nhân tố ảnh hưởng)
Chương 3. Hoàn thiện văn hóa an tồn
3.1. Phương hướng
3.2. Giải pháp hồn thiện (tập trung giải quyết chỗ tại sao chưa làm được ở mục 2.3, để
làm được thì cần làm gì

Tiêu chí để đánh giá mức Văn hóa an tồn của cơ sở áp dụng Văn hóa an tồn trong sản
xuất ở Việt Nam
Nguyên tắc xây dựng phương pháp và các tiêu chí đánh giá Văn hóa an tồn (VHAT)
trong cơ sở sản xuất ở Việt Nam là phải mang tính kế thừa các thành quả đã đạt được
trong công tác ATVSLĐ ở Việt Nam, kế thừa và thống nhất với cách đánh giá và các tiêu


chí đánh giá của thế giới, phù hợp với điều kiện Việt Nam và đo đạc, định lượng được


bầu không khí (mơi trường) VHAT của cơ sở. Hay nói cách khác là đo được mức VHAT
của cơ sở so với thang đo quốc tế và đánh giá được những thay đổi trong công tác
ATVSLĐ khi áp dụng VHAT.
Việc triển khai xây dựng VHAT trong cơ sở sản xuất ở Việt Nam là cơng việc hồn tồn
mới mẻ ở Việt Nam. Đến thời điểm Viện Khoa học An toàn và Vệ sinh lao động triển
khai đề tài “Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và xây dựng mơ hình cơ sở văn hóa an
tồn trong sản xuất ở Việt Nam”, chưa có sơ sở nào xây dựng và đánh giá VHAT nên việc
xây dựng phương pháp đánh giá chỉ có thể tham khảo kinh nghiệm và tài liệu của nước
ngoài liên quan đến vấn đề này.
Việc xây dựng VHAT trong cơ sở sản xuất là một q trình địi hỏi nỗ lực, sự quyết tâm
của lãnh đạo cơ sở và thời gian, có khi mất hàng chục năm. Trong khi đó, việc áp dụng
mơ hình cơ sở VHAT của đề tài khơng thể kéo dài. Đó cũng là 1 đặc điểm yêu cầu
phương pháp đánh giá phải đủ nhậy, đo được cả những sự thay đổi nhỏ của mức VHAT ở
cơ sở áp dụng.
Mức VHAT có thể đạt được trong thời gian đề tài có thể triển khai được sẽ phụ thuộc lớn
vào tình hình cơng tác ATVSLĐ hiện tại của cơ sở áp dụng. Nếu cơ sở đã chú ý đầu tư
nhiều cho công tác ATVSLĐ trong những năm qua (như đã áp dụng hệ thống quản lý
công tác ATVSLĐ, hệ thống quản lý mơi trường hoặc ít nhất cũng đã áp dụng hệ thống
quản lý chất lượng sản phẩm) thì các chính sách, cam kết của lãnh đạo, cơng tác thơng
tin, báo cáo... đã có nền nếp, việc triển khai VHAT sẽ thuận lợi hơn.
Trên cơ sở các điều kiện nêu trên và kinh nghiệm ở nước ngoài Viện Khoa học An toàn
và Vệ sinh lao động phối hợp với Hội KHKT ATVSLĐ Việt Nam đưa ra thang đánh giá 5
mức VHAT (từ mức 1 đến mức 5). Có 4 nhóm tiêu chí, gồm 23 tiêu chí cụ thể, được
chấm điểm theo thang 50 điểm (mỗi mức VHAT ứng với 10 điểm).
Nội dung các tiêu chí và thang điểm đánh giá VHAT của VNNIOSH-VOSHA


Tiêu chí

Mức độ thấp (10-20 điểm)


Mức độ cao (40-50 điểm)

I. NHĨM TIÊU CHÍ THỨ NHẤT: THỂ HIỆN CỦA LÃNH ĐẠO
- Lãnh đạo cao nhất chứng
minh sự cam kết của mình về
cơng tác an tồn
- Đảm bảo an tồn là trách

- Lãnh đạo và đội ngũ nhân

nhiệm của người lao động

viên thường xuyên bàn luận về

- Lãnh đạo cấp cao chỉ nói về

cơng tác an tồn

1. Sự cam kết của lãnh đạo tầm quan trọng của cam kết về - Hành động tốt về an toàn
về an toàn

an toàn

được ghi nhận
- Các mục tiêu được lập trên cơ

- Các mục tiêu an toàn chỉ

sở tham khảo kiến thức bên


được đặt ra đột xuất khi có sự

ngồi và các dữ liệu bên trong

cố xảy ra và có xu hướng chỉ

đơn vị

2. Mục tiêu thực hiện

căn cứ vào kinh nghiệm trước - Các chỉ tiêu cải thiện được

ATVSLĐ

đây.

xác lập

- Khơng có cơ chế để các kết
quả về cơng tác an tồn VSLĐ - Các quá trình kinh doanh đảm

3. Tác động

ảnh hưởng tới quyết định của

bảo rằng công tác ATVSLĐ sẽ

lãnh đạo hoặc quyết định


có thể buộc phải thay đổi thiết

phương án thiết kế.

kế hoặc dừng dự án lại.
- Tổ chức có đầu tư chiến lược

- Nguồn lực hoặc các trang bị

để triển khai các q trình

4 . Đầu tư và bố trí nguồn

cung cấp cho các hoạt động

ATVSLĐ của tổ chức một cách

lực

ATVSLĐ ít hoặc khơng đủ.

rộng rãi.
- Chính sách rộng về an tồn

- Tổ chức khơng có chính sách được lập thành hồ sơ và công
rộng hoặc chiến lược về

bố công khai.

ATVSLĐ.


- Việc kiểm tra chính sách và

- Các hoạt động ATVSLĐ

chiến lược được quy định là

5. Chính sách và chiến

được thực hiện khơng có hệ

một bộ phận của quy trình kinh

lược về ATVSLĐ

thống, khơng có kế hoạch.

doanh của tổ chức.
- Bộ máy cán bộ được khuyến
khích chú ý đến cơng tác
ATVSLĐ trong thiết kế và

- Việc kiểm tra an toàn không

được tạo đủ các nguồn lực,


Những vấn đề về lý luận và thực tiễn của văn hóa an tồn trong DN
1. Sự ra đời và phát triển của khái niệm văn hóa an tồn.
Thuật ngữ “Văn hóa an tồn” đã được thế giới nhắc đến hơn 30 năm trước đây, khi các

chuyên gia ATVSLĐ khẳng định yếu tố con người đóng vai trị quan trọng trong hệ thống
đảm bảo ATVSLĐ và cho rằng cùng với các yếu tố pháp lý và kỹ thuật, cần phải huy
động sự tham gia rộng rãi của con người vào cơng tác ATVSLĐ. Đó chính là nhân tố
quan trọng để có văn hóa an tồn.
Tuy nhiên vấn đề tầm quan trong của con người trong hệ thống quản lý ATVSLĐ phải
trải qua một quá trình mới được đặt đúng vị trí của nó. Khi vụ tai nạn ngun tử ở Three
Mile Island (Pennsylvania – Mỹ) xảy ra vào tháng 3/1979, người ta vẫn chỉ chú ý đến vấn
đề kỹ thuật mà thôi. Mãi đến năm 1986 khi sự cố thảm khốc tại nhà máy điện nguyên tử
Chernobyl (Liên Xô cũ) xảy ra, yếu tố con người mới được thực sự nhắc tới. Trong báo
cáo về thảm họa Chernobyl của Tập đoàn tư vấn an toàn hạt nhân (INSAG) thuộc Cơ
quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) đã cho rằng nguyên nhân của thảm họa là do
VHAT kém. Từ đó trở đi, vấn đề VHAT được nhắc đến ngày càng nhiều, được triển khai
sang hàng loạt ngành công nghiệp khác.
Như vậy là từ sau khi IAEA công bố báo cáo phân tích đầy đủ về vụ Chernobyl vào năm
1991, khái niệm VHAT ngày càng được nghiên cứu bổ sung, hoàn chỉnh, được nhiều tác
giả, nhiều quốc gia quan tâm và đưa ra nhiều định nghĩa.
Trong mấy chục năm qua, nhiều tác giả và tổ chức đã công bố những quan điểm, ý kiến
phân tích và định nghĩa về VHAT. Chúng có nhiều điểm tương đồng và cũng có nhiều
điểm khác nhau. Đã có hàng chục định nghĩa về VHAT được nêu lên, trong đó phải kể
đến những định nghĩa sau:
Ủy ban tư vấn an toàn và lắp đặt hạt nhân (ASCNI, 1993): “VHAT của một tổ chức là
một sản phẩm của các giá trị tập thể và cá nhân, thái độ, năng lực và hành vi được xác
định bằng sự cam kết cũng như phương thức và sự thực hiện có kết quả tốt chương trình
về an tồn và sức khỏe của tổ chức đó”


Ủy ban an toàn và Sức khỏe của Anh (HSC, 1993): “VHAT của một tổ chức là một sản
phẩm của các giá trị riêng rẽ hoặc nhóm các giá trị quan điểm, nhận thức, trình độ kiểu
mẫu về hành vi thể hiện sự cam kết, hiệu quả công tác quản lý an tồn và sức khỏe của tổ
chức đó”

Tổ chức dịch vụ không lưu quốc tế (CANSO): “VHAT là giá trị bền vững, sự ưu tiên và
cam kết của mỗi cá nhân, tập thể và mọi cấp của tổ chức đối với việc đảm bảo ATVSLĐ.
VHAT phản ánh quan niệm, thái độ các quy tắc và hành vi của các cá nhân, tập thể và tổ
chức đối với việc đảm bảo ATVSLĐ trong hoạt động hàng ngày của mình.
Năm 2002, Wiegnann và cộng sự đã đưa ra 13 định nghĩa khác nhau về VHAT trong một
tài liệu nghiên cứu của mình, mà mỗi định nghĩa đều có những sự thay đổi khác nhau
[10].
Thaden và Gibbon (2008) cũng đã đưa ra một định nghĩa khá cô đọng “VHAT được xác
định như là một giá trị bền vững và ưu tiên của NLĐ và an toàn xã hội, được xây dựng
bởi mỗi thành viên của từng nhóm người, trong mọi cấp của tổ chức đó” [15].
Trong khi trao đổi về khái niệm, định nghĩa VHAT, các nhà nghiên cứu lại bổ sung thêm
nhiều ý mới. Có người thì nhấn mạnh thêm khía cạnh về nhận thức do đó ra đời cụm
thuật ngữ “nhận thức về an toàn được chia sẻ" của Glendon [14]; có người khác lại nhấn
mạnh đến tính thực tế, cụ thể của VHAT nên mới đưa ra khái niệm đơn giản nhưng rất ý
nghĩa, đó là: “VHAT là các chúng ta thường làm hàng ngày” để đề cập từ việc đơn giản
là có đeo khẩu trang trong khi làm việc hay không, cho đến sự nghiêm túc hay không của
lãnh đạo khi nói đến VHAT của tác giả Cullen; thậm chí Reason (1998) lại nhấn mạnh
rằng “VHAT là một khái niệm của một thời đại đã đến” để nói đến thách thức và cơ hội
cho việc xây dựng cơ sở lý luận nguyên lý cơ bản cho VHAT trong một giai đoạn mới.
Qua một số định nghĩa nêu trên, chúng ta có thể thấy rằng, cho đến nay, vấn đề VHAT
trên thế giới vẫn còn là một khái niệm mới mẻ, khá trìu tượng và các nghiên cứu vẫn còn
nhiều điểm chưa thống nhất khi đưa ra các định nghĩa về VHAT.
Có lẽ vì thế mà Tổ chức Lao động quốc tế ILO và năm 2003 đã chủ động đặt vấn đề
VHAT một cách có hệ thống và kêu gọi các quốc gia hưởng ứng chiến lược toàn cầu về


ATVSLĐ của ILO được hoạch định trên 2 cơ sở là nâng cao VHAT và thực hiện hệ thống
quản lý ATVSLĐ. Trong đó, vấn đề nâng cao VHAT được đặc biệt nhấn mạnh và được
ILO đưa thành chủ đề chính của ngày thế giới về ATVSLĐ tại nơi làm việc hằng năm
(28/04).

ILO cũng đã đưa ra định nghĩa về VHAT như sau: “VHAT tại nơi làm việc là văn hóa mà
trong đó quyền có một mơi trường làm việc an toàn và vệ sinh của NLĐ được tất cả các
cấp tơn trọng. Chính phủ, NSDLĐ, NLĐ đều tham gia tích cực vào việc đảm bảo mơi
trường làm việc an tồn và vệ sinh thông qua hệ thống các quyền, trách nhiệm và nghĩa
vụ được xác định. Trong đó nguyên tắc phịng ngừa được đặt vào vị trí ưu tiên hàng đầu”
[12].
Hưởng ứng cách đặt vấn đề của ILO về VHAT và tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của
ATVSLĐ trong giai đoạn mới, phù hợp với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế mạnh
mẽ, nhiều hoạt động trên phạm vi quốc tế và trong từng quốc gia về ATVSLĐ, nhất là về
nâng cao VHAT đã và đang diễn ra trong những năm vừa qua:
- Các Đại hội thế giới về An toàn và Sức khỏe trong lao động diễn ra 3 năm một lần, bắt
đầu từ Đại hội lần thừ 17 ở Orlando, Florida – Mỹ (18-22/09/2005) đã đưa ra chủ đề
“Phòng ngừa trong một thế giới toàn câu – thành quả xuyên suốt của sự hợp tác về
ATVSLĐ”. Đại hội lần thứ 18 diễn ra ở Seoul, Hàn Quốc (tháng 6/2008) đã đặt vấn đề
phòng ngừa TNLĐ và BNN – một nội dung được coi là ưu tiên trong VHAT, trở thành
một chủ đề quan trọng nhất. Tại Đại hội 18 đã có bản Tuyên bố Seoul về an toàn và sức
khỏe trong lao động và sau đó đã ra đời khái niệm “văn hóa phịng ngừa” trong ATVSLĐ
(tích hợp giữa khái niệm VHAT với nguyên tắc lấy phòng ngừa là biện pháp ưu tiên hàng
đầu). Cũng từ đó, một “Tiểu ban về văn hóa phịng ngừa” (Section for a Culture of
Prevention) đã được thành lập tháng 6/2011 theo sáng kiến Tổ chức An sinh xã hội quốc
tê (ISSA), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và Cơ quan ATVSLĐ của Hàn Quốc
(KOKHA).
Các đại hội thế giới tiếp theo ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ (lần thứ 19, từ 11 đến 14/08/2011),
ở Frankfurt, CHLB Đức (lần thứ 20, từ ngày 24 đến 27/08/2014) cũng đề đã đưa ra các
chủ đề liên quan đến văn hóa phịng ngừa trong ATVSLĐ.


- Các hội nghị thường niên của Tổ chức An toàn và vệ sinh lao động Châu Á – Thái Bình
Dương (APOSHO) cũng đều nhấn mạnh đến chủ đề xây dựng VHAT. Có nhiều báo cáo
về vấn đề VHAT của nhiều quốc gia, trong đó phải kể đến vai trị tích cực và những đóng

góp cho VHAT của KOSHA (Hàn Quốc).
- Nhiều tổ chức Liên quốc gia hoặc quốc gia như Cơ quan An toàn và Sức khỏe Châu Âu
(EUOSHA), Cơ quan An toàn và Sức khỏe của Anh (HSE), của New Zealand, Cơ quan
ATVSLĐ của Hàn Quốc (KOSHA), Hội đồng An toàn Singapore (NSCS), Hiệp hội An
toàn và vệ sinh công nghiệp Nhật Bản (JISHA)… cũng đã coi trọng phát triển VHAT, có
nhiều cơng trình nghiên cứu về VHAT được công bố.
- Nhiều hội thảo về VHAT được diễn ra trên thế giới và ở nhiều quốc gia, trong đó có
nhiều hội thảo do Tiểu ban Văn hóa phịng ngừa đứng ra tổ chức. Một số thư tin tức liên
quan đến VHAT được phát hành trên thế giới.
Qua những điều đã trình bày về sự ra đời, quá trình phát triển của VHAT và qua phân tích
các định nghĩa khác nhau về VHAT, chúng ta thấy rằng VHAT là một xu hướng phát triển
tất yếu mà ATVSLĐ phải hướng đến ngày càng mạnh mẽ. Mặc dù khái niệm VHAT hiện
nay cịn có những ý kiến khác nhau nhưng tựu trung lại vẫn có những điểm thống nhất đó
là VHAT thể hiện quan điểm, nhận thức, thái độ và hành vi ứng xử đúng đắn của tổ chức
và cá nhân người lãnh đạo cũng như mọi người trong tổ chức đó đối với việc đảm bảo an
tồn và sức khỏe cho con người trong lao động. VHAT phải coi trọng, lấy biện pháp
phòng ngừa làm ưu tiên hàng đầu. VHAT của một tổ chức cần được thể hiện bởi trạng
thái bên ngồi, đó là một bầu khơng khí an tồn và vừa thể hiện bới giá trị, niềm tin sâu
xa bên trong, nói lên bản chất, truyền thốngtốt đẹp của tổ chức đó đối với sự nghiệp bảo
đảm an tồn, bảo vệ sức khỏe NLĐ.
2. Những vấn đề cơ bản trong nội dung của VHAT.
VHAT có nội dung rất phong phú, liên quan đến nhiều mặt, từ các vấn đề về luật phát,
chính sách, tổ chức quản lý, các vấn đề về tâm lý xã hội, hành vi ứng xử cho đến các vấn
đề về kỹ thuật, công nghệ sản xuất, máy móc thiết bị.


Vì vậy nhiều tác giả trên thế giới khi nghiên cứu về VHAT đã đưa ra nhiều câu hỏi cần
giải đáp như: Các thành tố cấu thành VHAT là gì, nội dung và cách phân loại chúng ra
sao? Cần phải đánh giá mức độ đạt được của VHAT như thế nào? Những tiêu chí nào cần
phải được nêu lên để xác định, phân loại và đánh giá một tổ chức, một cơ sở có VHAT?

Nhiều cơng trình nghiên cứu đã đi sâu phân tích, trả lời các câu hỏi trên. Sau đây chúng
ta hãy xem xét, đề cập đến một vài quan điểm trong số đó để hiểu rõ hơn bản chất của
VHAT.
2.1. Các thành tố của VHAT.
Nói đến các thành tố của VHAT là nói đến việc những vấn đề gì, hoạt động nào cần phải
tiến hành để xây dựng một cơ quan, tổ chức có VHAT. Hay nói cụ thể hơn là những điểm
nào cấu tạo nên VHAT.
Có nhiều tác giả nêu các ý kiến khác nhau về các lĩnh vực mà VHAT phải quan tâm, coi
đó là những thành tố cơ bản cấu tạo nên VHAT. Cũng có tác giả phân VHAT ra nhiều
thành phần rồi mơ tả, giải thích các thành phần đó để có thể thấy rõ bản chất của VHAT.
Có thể nêu ra một vài trường hợp:
- Theo James Reason (1997) thì VHAT bao gồm chủ yếu các vấn đề về văn hóa tuân thủ
pháp luật, văn hóa báo cáo, văn hóa học tập, văn hóa thơng tin, văn hóa trong ứng xử…
- Theo Ron Westrum (1999) thì VHAT phải trả lời được các vấn đề đặt ra, cũng là những
thành tố chủ yếu của VHAT, đó là: Tổ chức, cơ quan đã đặt tầm quan trọng của ATVSLĐ
như thế nào? Chính sách của tổ chức trong việc tuân thủ pháp luật, đề cao trách nhiệm ra
sao? Vấn đề thông tin, huấn luyện cho mọi người về ATVSLĐ thế nào? Nguồn lực đã
dành cho ATVSLĐ thế nào? Tình hình thực tế tại các chỗ làm việc ra sao? Hiệu quả của
công tác ATVSLĐ thế nào?
- Theo Mark Flemming (2000) thì nhiều vấn đề cụ thể phải đề ra và trả lời được các vấn
đề đó, tức là đã làm tốt VHAT. Đó là: sự cam kết của lãnh đạo đơn vị về ATVSLĐ; Việc
tổ chức thông tin một các thông suốt, công khai trong đơn vị về những vấn đề liên quan
đến ATVSLĐ; Nguồn lực dành cho ATVSLĐ; Sự tham gia của mọi người trong đơn vị
vào công tác ATVSLĐ; Công tác huấn luyện về ATVSLĐ; Đánh giá về nhận thức của


mọi cấp, mọi người về ATVSLĐ, về mối quan hệ và sự tin cậy lẫn nhau, về mức độ hài
lòng của họ đối với công tác ATVSLĐ. Vấn đề rút kinh nghiệm và hồn thiện cơng tác
quản lý ATVSLĐ của đơn vị… Cơng trình nghiên cứu trên đây của Mark Flemming [11]
đã được nhiều nước chú ý và áp dụng, trong đó có cả một số doanh nghiệp của nước

ngồi đầu tư ở Việt Nam cũng áp dụng.
Từ đó, để làm rõ hơn nội dung của VHAT, sau khi tổng hợp, phân tích hệ thống hóa lại,
chúng ta có thể nêu lên những điểm chính sau:
- Điểm quan trọng đầu tiên là vấn đề ATVSLĐ phải được đưa thành những quy định
trong các văn bản pháp luật, thể hiện quan điểm nhân văn, coi việc đảm quyền được làm
việc trong điều kiện an toàn và tiện nghi của NLĐ là quyền cơ bản của con người.
- VHAT phải được thể hiện đầy đủ, đúng mức trong nhận thức của mọi cấp quản lý, mọi
người trong cộng đồng. Mọi người phải thấy rõ trách nhiệm của mình trong ATVSLĐ và
phải cam kết thực hiện tốt ATVSLĐ cho cộng đồng, đơn vị.
- Từ cơ sở pháp lý, từ nhận thức đúng đắn, cần đề ra những chính sách, nguyên tắc ứng
xử trong việc thực hiện ATVSLĐ ở từng đơn vị.
- Cần phải xây dựng một hệ thống quản lý ATVSLĐ ở từng quốc gia, từng ngành và từng
cơ sở phù hợp với các quy định của pháp luật, chuẩn mực đạo đức và cách ứng xử, bản
sắc và truyền thống của quốc gia, ngành, đơn vị đó.
- Cần huy động mọi nguồn lực một cách hợp cho hoạt động ATVSLĐ; áp dụng thành tựu
khoa học và công nghệ và lấy biện pháp phòng ngừa làm ưu tiên hàng đầu trong
ATVSLĐ.
- Làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền, huấn luyện về ATVSLĐ. Động viên tính tự
giác tham gia vào cơng tác ATVSLĐ của mọi người trong đơn vị.
- Thực hiện tốt chế độ kiểm tra ATVSLĐ một cách thường xuyên. Từ đó rút kinh nghiệm
để cải tiến quản lý ATVSLĐ.
- Thực hiện tốt chế độ báo cáo TNLĐ, BNN, báo cáo công tác ATVSLĐ một cách kịp
thời đầy đủ.


- Thực hiện tốt việc đánh giá kết quả, khen thưởng, tôn vinh người làm tốt ATVSLĐ, xử
lý kịp thời những vi phạm.
- Xây dựng truyền thống, gìn giữ bản sắc và uy tín, thương hiệu của đơn vị nói chung và
trong ATVSLĐ nói riêng.
Những điểm được nêu trên là nội dung chủ yếu của ATVSLĐ mà một tổ chức (cơ quan,

đơn vị) cần thực hiện để có thể trở thành một tổ chức có ATVSLĐ.
2.2. Phân loại mức VHAT của một tổ chức
Để đánh giá mức VHAT của một tổ chức, trước hết cần đưa ra các tiêu chí của mức
VHAT. Nhiều tác giả đã nghiên cứu và đưa ra cách xếp mức VHAT.
- Theo Chương trình “Trái tim và khối óc” [13], VHAT có thể chia làm 5 mức từ thấp đến
cao như sau:
+ Mức 1 – “Bắt buộc”: Tổ chức đó khơng tự giác quan tâm đến ATVSLĐ, chỉ thực hiện
một cách bắt buộc theo các quy định để khỏi bị vi phạm.
+ Mức 2 – “Thụ động” Phải thực hiện ATVSLĐ vì đã bị mắc lỗi, phải sửa chữa thụ động
mà thơi.
+ Mức 3 - “Có tính tốn”: Lãnh đạo của tổ chức biết thu thập, phân tích các số liệu, tình
hình thực tế để đề ra các biện pháp ATVSLĐ – Có kiểm tra đánh giá công tác này.
+ Mức 4 – “Tiên tiến”: Công tác quản lý ATVSLĐ được lãnh đạo xây dựng trên cơ sở rút
kinh nghiệm để phòng ngừa các nguy cơ. NLĐ tham gia làm tốt công tác ATVSLĐ ở đơn
vị.
+ Mức 5 – “Tự giác”: Tổ chức đã biết áp dụng tốt các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật
ATVSLĐ. Công tác quản lý ATVSLĐ được thực hiện tốt, không ngừng rút kinh nghiệm
và cải tiến. Mọi người trong tổ chức luôn học hỏi, được cung cấp đầy đủ thông tin và tự
giác làm tốt công tác ATVSLĐ.
- Ủy ban Kinh tế Cộng đồng châu Âu (EEC) cũng đưa ra 5 mức phát triển VHAT:
+ Mức 1 – “Báo động”: Quan niệm của tổ chức cho rằng TNLĐ không thể tránh được, do
đó chấp nhận để nó xảy ra thụ động, khơng có biện pháp chủ động ngăn ngừa. Nhận thức
về ATVSLĐ không đầy đủ.


+ Mức 2 – “Có quản lý”: Biết coi TNLĐ, BNN là một nguy cơ ảnh hưởng đến hoạt động
của tổ chức. Do đó đã biết xây dựng kế hoạch về ATVSLĐ gắn liền với sản xuất, kinh
doanh – Cho rằng TNLĐ là có thể ngăn ngừa được, cần có biện pháp phòng chống.
+ Mức 3 – “Tham gia”: Coi trọng việc cải thiện điều kiện làm việc. Có kế hoạch để thực
hiện và điều tra giám sát công tác ATVSLĐ. Tỷ lệ TNLĐ giảm – NLĐ tham gia làm tốt

ATVSLĐ.
+ Mức 4 – “Hợp tác”: Lãnh đạo nhận thức rõ trách nhiệm trong ATVSLĐ, biết vận động
tổ chức để NLĐ cùng tham gia làm tốt ATVSLĐ. Có kế hoạch thực hiện, kiểm tra giám
sátcơng tác ATVSLĐ. Đơn vị có bầu khơng khí an tồn, hợp tác, cùng giữ truyền thống.
+ Mức 5 – “Không ngừng cải thiện”: Tổ chức coi việc cải thiện điều kiện làm việc, phòng
ngừa TNLĐ, BNN là nhiệm vụ quan trọng, là giá trị cốt lõi của mình. Có kế hoạch, biện
pháp đảm bảo ATVSLĐ, thường xuyên kiểm tra, giám sát, rút kinh nghiệm. Đầu tư cho
ATVSLĐ đầy đủ, đúng mức – Mọi người trong đơn vị ln có ý chí phấn đấu ngày càng
làm tốt hơn nữa ATVSLĐ, không tự thỏa mãn với hiện tại.
Qua trình bày các cách phân loại mức VHAT ở trên cho thấy tên gọi có thể khác nhau
nhưng tiêu chí xếp loại mức VHAT về cơ bản khơng khác nhau là mấy. Ngoài 5 mức
thường được nêu như trên, cũng có nơi người ta cịn đưa thêm mức 0 để chỉ mức lạc hậu
nhất và ở đây cần nêu rõ tên của các đơn vị.
2.3. Đánh giá mức VHAT
Cho đến nay chưa có một tiêu chuẩn thống nhất, một thước đo phù hợp với tất cả các tổ
chức và các nước để đánh giá VHAT của các tổ chức (cơ quan, doanh nghiệp). Việc đánh
giá VHAT của một tổ chức hiện nay chỉ mới được nghiên cứu bước đầu, chưa có sự thống
nhất giữa các quốc gia.
Tuy nhiên khi nói đến việc đánh giá VHAT hay nói cụ thể hơn là đánh giá mức VHAT
của một tổ chức, thường các nhà nghiên cứu đề cập đến các vấn đề chính sau đây cần
đánh giá:
- Các quy định, quy trình, nội dung về ATVSLĐ.


- Các cam kết của lãnh đạo về ATVSLĐ và việc phân định rõ trách nhiệm các cá nhân
trong tổ chức về ATVSLĐ.
- Các kế hoạch, biện pháp đã được thực hiện để bảo đảm ATVSLĐ.
- Công tác thông tin, tuyên truyền, huấn luyện về ATVSLĐ trong tổ chức.
- Việc thực hiện các quy định, tính kỷ luật trong ATVSLĐ.
- Cơng tác thống kê, phân tích, báo cáo về TNLĐ, BNN và về cơng tác ATVSLĐ nói

chung.
- Sự tham gia của NLĐ trong công tác ATVSLĐ ở đơn vị.
- Việc thanh tra, kiểm tra về ATVSLĐ; việc khen thưởng và xử phạt trong cơng tác
ATVSLĐ.
- Những thành tích đã đạt được, những bản sắc riêng của tổ chức đã xây dựng và trở
thành truyền thống của đơn vị trong ATVSLĐ.
- Bầu khơng khí chung của đơn vị về ATVSLĐ.
Căn cứ vào những điểm chính nêu trên và dựa theo những tiêu chí của các mức VHAT,
người ta áp dụng các phương pháp khác nhau để tiếp cận với đối tượng cần đánh giá như
sử dụng các bảng hỏi, phỏng vấn, phát biểu, điều tra xã hội học, đo đạc và khảo sát thực
tế, phân tích các báo cáo… để xác định mức độ VHAT mà đối tượng đạt được theo các
chỉ tiêu và mức VHAT mà đối tượng đạt được theo các chỉ tiêu và mức VHAT đã nêu, từ
đó có sự đánh giá tổng thể về VHAT của tổ chức đó.



×