MỤC LỤC
1
MỞ ĐẦU
Gia đình khơng chỉ là “tế bào” tự nhiên mà còn là một đơn vị kinh tế
của xã hội. Gia đình có vai trị đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ đất nước. Gia đình có vai trị quyết
định đối với sự hình thành và phát triển của xã hội. Những chuẩn mực giá trị
tốt đẹp của gia đình được tiếp nhận, phát triển góp phần xây dựng, tơ thắm,
làm rạng rỡ thêm bản sắc văn hóa dân tộc. Đại hội XI, Đảng ta khẳng định:
“Gia đình là mơi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành
nhân cách, góp phần chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lịng u
nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm cơng dân, có tri thức, sức khỏe, lao
động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính”.
Con người Việt Nam chỉ có thể được trang bị những phẩm chất tốt đẹp
nếu có một mơi trường xã hội tốt. Mơi trường đó trước hết là từ mỗi gia đình,
mỗi tế bào của xã hội. Gia đình chịu trách nhiệm trước xã hội về sản phẩm
của gia đình mình, có trách nhiệm ni dưỡng và giáo dục con cái, cung cấp
cho xã hội những công dân hữu ích. Cùng với nhà trường, gia đình tham gia
tích cực nhiệm vụ “dạy người, dạy chữ”, tạo ra lực lượng lao động tương lai
chất lượng cao. Gia đình chính là “đơn vị xã hội” đầu tiên cung cấp lực lượng
lao động cho xã hội. Từ những người lao động chân tay giản đơn đến lao
động trí óc... đều được sinh ra, nuôi dưỡng và chịu sự giáo dục của gia đình.
Do đó, sau một thời gian tìm hiểu tác giả đã chọn đề tài “ Vai trò của Đảng
chính trị Việt Nam trong quy trình chính sách gia đình mới tại Việt Nam”
để hiểu rõ hơn về mặt lý luận cũng như thực tiễn gia đình Việt Nam.
2
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN QUY
TRÌNH CHÍNH SÁCH VÀ SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
1.1. Lý luận chung về quy trình hoạch định chính sách và phân tích chính
sách
1.1.1. Định nghĩa
Trên thế giới có rất nhiều định nghĩa khác nhau về chính sách và chính
sách cơng. Chính sách liên quan đến những tun bố, hành động mang tính
quyền lực nhà nước, dựa trên giả thuyết về nguyên nhân và kết quả, nhằm
mục tiêu giải quyết các vấn đề công, hay thúc đẩy các giá trị ưu tiên.
Quy trình hoạch định chính sách (Policy making process), hay cịn
được gọi là quy trình chính sách, hoặc chu trình chính sách (policy cycle),
diễn tả logic q trình hình thành, phát triển của chính sách cơng, cùng với
vai trò và mối quan hệ của các chủ thể tham gia q trình này.
Phân tích chính sách (Policy analysis) có thể được hiểu là một q trình
xử lý thơng tin bằng các cơng cụ phân tích, nhằm đề ra các phương án lựa
chọn giải quyết một vấn đề công.
1.1.2. Quy trình hoạch định chính sách
Khoa học chính sách hiện tại cũng chưa có được một quy trình hoạch
định chính sách thống nhất, chuẩn mực. Điều này có thể lý giải bởi sự khác
biệt thể chế chính trị và cách thức tổ chức quyền lực nhà nước giữa các quốc
gia, dẫn tới sự khác nhau trong quy trình chính sách. Bên cạnh đó, vẫn cịn
những hồi nghi trong nghiên cứu lý luận về quy trình chính sách, ví dụ như
quy trình chính sách là một lý thuyết khoa học được kiểm định, hay chỉ mang
tính kinh nghiệm, mơ tả q trình. Mặc dù vậy, việc nhận thức khái quát về
một quy trình logic với các giai đoạn của nó vẫn đóng vai trò quan trọng, làm
cơ sở cho việc tiếp cận nghiên cứu và thực hành chính sách.
3
Q trình chính sách thường bao gồm các giai đoạn chính, theo trình tự
thời gian là: Lập chương trình nghị sự; Hình thành chính sách; Thơng qua
chính sách; Thực thi chính sách; Đánh giá chính sách. Ngồi ra, có thể phân
chia thành các giai đoạn nhỏ hơn, đưa vào một số bước phân tích, hoặc thêm
một số giai đoạn, như: Xác định vấn đề cơng, điều chỉnh chính sách (thay đổi
chính sách), sự thành cơng của chính sách, và kết thúc chính sách. Dưới đây
khái quát một số giai đoạn chính trong một q trình hoạch định chính sách
truyền thống:
– Lập chương trình (Agenda setting): Các cá nhân và tổ chức, cơ quan
chức năng tham gia làm chính sách trình vấn đề công ra thảo luận, và xem xét
đưa vào chương trình chính thức. Trên thực tế, có những vấn đề chính sách dễ
dàng mở “cánh cửa cơ hội” xuất hiện trong chương trình nghị sự; trong khi
nhiều vấn đề khác lại bị trì hỗn lâu dài.
– Hình thành chính sách (Policy formulation, bao gồm việc thiết kế
chính sách – policy design): Chính thức đề xuất các phương án (biện pháp
thay thế) nhằm mục tiêu giải quyết vấn đề chính sách. Giải pháp thay thế
trong các đề xuất chính sách có thể thể hiện dưới dạng dự thảo các quy định
pháp lý của chính phủ, tịa án hoặc dự luật của Quốc hội.
– Thơng qua chính sách (Policy adoption): Chính sách được chính thức
thơng qua bởi đa số, hay được hợp pháp hố (legitimation). Nói chung, chính
sách có thể được thơng qua bởi Quốc hội, Chính phủ và Tịa án trong phạm vi
luật định.
– Thực thi chính sách (Policy implementation): Một chính sách được
thơng qua sẽ được chuyển đến cơ quan hành pháp để huy động các nguồn lực
tài chính, nhân lực triển khai thực hiện. Đây là giai đoạn quan trọng mà chính
sách cơng thực sự tác động đến xã hội nhằm đạt được các mục tiêu nhà nước
4
đã đề ra; và cũng có thể dẫn tới những tác động khơng mong muốn, thậm chí
ngồi dự đốn phân tích ban đầu.
– Đánh giá chính sách (Policy evaluation): Trong giai đoạn này, các
đơn vị chức năng như thanh tra, kiểm tốn xác định xem các cơ quan thực thi
chính sách có đáp ứng yêu cầu, tuân thủ quy định pháp lý, và đạt được các
mục tiêu của chính sách khơng. Theo nghĩa này thì đánh giá chính sách là một
giai đoạn trong quy trình chính sách. Bên cạnh đó, đánh giá chính sách trong
nghiên cứu chính sách cịn được hiểu là một phương pháp phân tích chương
trình, chính sách, thơng qua việc sử dụng các cơng cụ phân tích.
Có nhiều yếu tố dùng để đánh giá các kết quả chính sách (policy
outcomes), và chất lượng của quy trình hoạch định chính sách. Trong đó,
ngồi các tiêu chí phổ biến như hiệu suất và hiệu quả, cịn có các tiêu chí
khác, như tính hợp pháp, dân chủ, cơng bằng xã hội, minh bạch, trách nhiệm
giải trình, cùng các giá trị khác mà chính sách mang lại, và chúng có thể mâu
thuẫn với nhau.
Một điểm lưu ý, là quy trình hoạch định chính sách được xem là một
q trình liên tục, mà đằng sau nó là hoạt động phân tích chính sách. Việc
“kết thúc” một chính sách thường là khởi đầu cho một giai đoạn mới, với các
vấn đề công cộng mới nảy sinh, cần tiếp tục được phát hiện, phân tích, giải
quyết và đánh giá. Vì thế, các giai đoạn của quy trình chính sách thường được
biểu diễn trong một vịng trịn, mang ý nghĩa một chu trình tiếp nối liên tục –
chu trình chính sách. Trong đó, việc phân tích chính sách nói chung diễn ra ở
hầu hết, nếu khơng nói là tất cả, các giai đoạn của q trình chính sách. Do
vậy, nghiên cứu về chu trình chính sách cần hiểu được vai trị của phân tích
chính sách và vận dụng phân tích chính sách phù hợp trong từng giai đoạn.
5
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Đảng cộng sản Việt Nam
1.2.1. Giới thiệu chung
Qua 80 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được
nhân dân và cả dân tộc Việt Nam thừa nhận là người tổ chức, lãnh đạo và
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng được nhân dân tin
yêu, che chở, bảo vệ và coi Đảng là Đảng của mình. Đảng Cộng sản Việt Nam
ngày càng mở rộng quan hệ với các Đảng Cộng sản và Công nhân quốc tế;
ngồi ra, Đảng cịn có quan hệ với nhiều đảng cầm quyền khác trên thế giới;
có sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ to lớn của bạn bè và nhân dân u chuộng
hồ bình, tiến bộ trên thế giới.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, khơng có các
đảng chính trị đối lập nên khơng có sự cạnh tranh về vai trò lãnh đạo của
Đảng;
- Đảng hoạt động một cách công khai, hợp pháp, hợp hiến; vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với đất nước đã được nhân dân thừa nhận trong thực tế và
được quy định tại Điều 4 của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam;
- Đảng có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân, một cơng cụ đắc lực, mạnh mẽ và sắc bén để Đảng thực hiện sự lãnh đạo
của mình đối với tồn xã hội và có Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể chính trị xã hội hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước và xã
hội, các tổ chức đảng được thành lập ở mọi nơi, ở tất cả các cấp, các ngành,
các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội từ trung ương đến địa phương và
cơ sở. Hệ thống tổ chức cơ bản của Đảng được thành lập tương ứng với hệ
thống tổ chức hành chính của Nhà nước gồm 4 cấp: cấp trung ương, cấp tỉnh,
cấp huyện và cấp cơ sở. Ngồi ra, tổ chức đảng cịn được lập ra ở những nơi
có đặc điểm riêng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
6
Hiện nay, tồn Đảng có 67 đảng bộ trực thuộc Trung ương, gồm 58
đảng bộ tỉnh, 05 đảng bộ thành phố, 04 đảng bộ trực thuộc Trung ương. Có
gần 1.300 đảng bộ cấp huyện và tương đương (gần 700 đảng bộ huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh và gần 600 đảng bộ tương đương là cấp trên trực
tiếp của tổ chức cơ sở đảng).
Tồn Đảng có hơn 57.000 tổ chức cơ sở đảng, với hơn 23.000 đảng bộ
cơ sở và hơn 34.000 chi bộ cơ sở; hơn 1.600 đảng bộ bộ phận, hơn 241.000
chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở với tổng số hơn 3,9 triệu đảng viên. Có 5 loại
hình tổ chức cơ sở đảng cơ bản là: Tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn; tổ
chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp (trong đó có nhiều loại hình doanh
nghiệp); tổ chức cơ sở đảng trong cơ quan hành chính; tổ chức cơ sở đảng
trong đơn vị sự nghiệp và tổ chức cơ sở đảng trong lực lượng vũ trang.
Trong những năm thực hiện công cuộc đổi mới, nhất là trong 10 năm
gần đây, số lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên trong các loại hình cơ sở
tăng nhanh và chất lượng khơng ngừng được nâng lên. Nhiều tổ chức cơ sở
đảng trong các loại hình đã phát huy vai trị lãnh đạo và là hạt nhân chính trị ở
cơ sở; có nhiều mơ hình mới và điển hình tiên tiến, lãnh đạo thực hiện tốt
nhiệm vụ chính trị, cơng tác chun mơn, góp phần giữ vững ổn định chính
trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, đẩy
mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Số lượng đảng viên trong những năm gần đây tăng nhanh, bình quân
mỗi năm toàn Đảng kết nạp hơn 170.000 đảng viên mới, trong đó số đảng
viên trẻ, là Đồn viên thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh chiếm hơn 60%; số
đảng viên nữ, đảng viên là người dân tộc thiểu số ngày càng tăng, làm cho
tuổi bình qn của tồn Đảng giảm và cơ cấu đội ngũ đảng viên từng bước
chuyển dịch theo hướng tích cực.
7
1.2.2. Bản chất, mục đích và nền tảng tư tưởng của Đảng
1.2.1. Bản chất, mục đích và nền tảng tư tưởng của Đảng
Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng đã xác định như sau:
- Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt
Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và dân tộc.
- Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam hồ bình, độc lập,
dân giầu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, thực hiện thành
công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
- Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan,
xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường
lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Nguyên tắc tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng
- Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và
hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê
bình và phê bình; đồn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng;
gắn bó mật thiết với nhân dân; Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà
nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng
về chính sách và chủ trương lớn; bằng tuyên truyền, thuyết phục, vận động;
bằng công tác tổ chức, cán bộ và kiểm tra; bằng sự gương mẫu của mỗi cán
bộ, đảng viên.
8
- Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ,
giới thiệu những đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực vào hoạt động trong
các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng tôn trọng, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào dân để xây
dựng Đảng..
- Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị đồng thời là một bộ phận của hệ
thống ấy. Đảng lãnh đạo, phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã hội. Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước
chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp cơng nhân, góp phần
tích cực vào sự nghiệp hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
của nhân dân thế giới.
1.2.3. Một số thành tựu và hạn chế của Đảng Cộng sản Việt Nam
Thành tựu
Qua gần 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và qua các kỳ Đại hội,
nhận thức về phương thức lãnh đạo của Đảng ngày càng rõ và đầy đủ hơn:
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và
chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức,
kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh
đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu
tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của
hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thơng qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt
động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm
cá nhân, nhất là người đứng đầu.
Đảng phải thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo,
đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trị, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm
của các tổ chức khác và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị.
9
Những đổi mới về quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội là định hướng chính trị cho đổi mới hoạt động
của hệ thống chính trị nước ta trong những năm qua.
+ Đảng đặc biệt coi trọng việc thể chế hoá, cụ thể hoá quan điểm, chủ
trương đường lối thành luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước.
+ Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo Quốc hội trong các hoạt động lập pháp,
giám sát tối cao và việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
+ Định hướng cho việc ban hành cơ chế, chính sách, các chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phịng, an ninh,
đối ngoại… của Chính phủ.
-
Đảng lãnh đạo công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết
phục, thực hành công khai, dân chủ trong Đảng và trong xã hội; phát huy và
thực hiện tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân; phát huy tính năng động, sáng
tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội.
-
Việc lập đảng đoàn, ban cán sự đảng, giới thiệu những đảng viên
của Đảng vào các vị trí lãnh đạo chủ chốt của các hệ thống chính trị, củng cố
tổ chức cơ sở đảng và phát huy vai trò quản lý, giám sát của tổ chức đảng đối
với đảng viên, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của đảng viên đã có tác
động tích cực đến việc giữ vững và nâng cao vai trị lãnh đạo của Đảng.
-
Cơng tác kiểm tra, giám sát của Đảng đã được tăng cường. Đảng
lãnh đạo, phối hợp sự kiểm tra, giám sát của Đảng với của Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân đối với các tổ chức trong hệ thống chính
trị và cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, về trách nhiệm đối với công việc và thái
độ phục vụ nhân dân.
10
-
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ và
phong cách, lề lối làm việc của các cấp uỷ và đảng viên có đổi mới theo
hướng khoa học, công khai, dân chủ, sát cơ sở hơn.
Nguyên nhân:
-
Đường lối đổi mới đúng đắn và những thành tựu đạt được của đất nước
trong hơn 30 năm qua đã đặt ra những yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng và là cơ sở khoa học để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
-
Đảng ta ngày càng quan tâm, nhận thức rõ hơn ý nghĩa và tầm quan
trọng của việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, coi đổi mới phương
thức lãnh đạo là một trong những nhiệm vụ và giải pháp hàng đầu để nâng
cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng.
-
Trong quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo, Đảng ta vừa giữ vững
những nguyên tắc cơ bản của công tác xây dựng Đảng, giữ vững vai trò lãnh
đạo của Đảng, vừa bám sát thực tiễn đất nước, tổng kết thực tiễn, phát huy
dân chủ để tìm tịi, đổi mới một cách sáng tạo.
Hạn chế
Vẫn cịn tình trạng cấp uỷ bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo
đối với hoạt động của hệ thống chính trị trên một số lĩnh vực. Chậm ban hành
những quy định cụ thể về phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các đồn thể; về mối quan hệ cơng tác giữa các tổ chức trong hệ
thống chính trị.
Cịn thiếu những quy định cụ thể bảo đảm thực hiện đúng đắn nguyên
tắc tập trung dân chủ, thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng, công tác cán
bộ đổi mới chậm; chất lượng cơng tác tư tưởng, tun truyền cịn nhiều hạn
chế.
11
Chậm cụ thể hoá tiêu chuẩn cán bộ trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện
đại hố cho từng chức danh cụ thể ở các cấp, các ngành.
Chất lượng công tác đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân
chuyển, bổ nhiệm cán bộ cịn nhiều hạn chế; chính sách đãi ngộ với cán bộ
cịn bất cập.
Chưa có cơ chế, chính sách phù hợp để phát hiện, tuyển chọn, bồi
dưỡng, trọng dụng người có đức, có tài, thay thế kịp thời những người yếu
kém về phẩm chất và năng lực.
Chưa thực sự coi trọng đổi mới phong cách, lề lối làm việc; tình trạng
họp hành nhiều, nói chưa đi đơi với làm, nói nhiều, làm ít, né tránh, đùn đẩy
trách nhiệm, thiếu gương mẫu còn diễn ra ở nhiều nơi.
Nguyên nhân :
-
Phương thức lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ chiến tranh và quản lý
tập trung quan liêu, bao cấp còn ảnh hưởng đến ngày nay.
-
Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện một đảng
duy nhất cầm quyền lãnh đạo công cuộc đổi mới, thực hiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế… là vấn đề mới mẻ, chưa có thực tiễn trong
nước và trên thế giới, đòi hỏi phải tìm tịi, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm.
Lý luận về Đảng cầm quyền, về phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều
kiện một Đảng cầm quyền còn nhiều vấn đề chưa làm rõ, nhận thức còn khác
nhau.
-
Những hạn chế trong tổ chức bộ máy và yếu kém trong đội ngũ cán bộ
đã tác động tiêu cực, cản trở việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
12
-
Chậm ban hành đầy đủ, đồng bộ các quy chế, quy định về sự lãnh đạo
và phối hợp công tác giữa các tổ chức đảng với các tổ chức trong hệ thống
chính trị.
CHƯƠNG II: VAI TRỊ CỦA ĐẢNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
TRONG QUY TRÌNH CHÍNH SÁCH GIA ĐÌNH MỚI HIỆN NAY
2.1. Nội dung và mục đích của các chính sách gia đình mới
Hiện nay, khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền ở nước ta cịn
lớn, bất bình đẳng thu nhập dân cư có xu hướng gia tăng; tỷ lệ hộ nghèo và
cận nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn cao; tệ
nạn xã hội nhiều nơi diễn biến phức tạp; bình đẳng giới, bảo vệ phụ nữ và trẻ
em có nơi chưa được quan tâm đúng mức, còn xảy ra nhiều vụ bạo lực gia
đình, bạo hành, xâm hại trẻ em gây bức xúc xã hội; đời sống của người yếu
thế còn nhiều khó khăn... Trong 10 năm qua việc thực hiện các tiêu chí xây
dựng gia đình mới được thể hiện như sau:
2.1.1. Chính sách gia đình ít con
Các gia đình Việt Nam coi trọng giá trị của con cái (bao gồm giá trị xã
hội, kinh tế, an sinh và tâm lý - tình cảm). Một trong những giá trị quan trọng
của con cái là “lưới an sinh” của cha mẹ khi về già (“trẻ cậy cha, già cậy
con”, con cái là “của để dành”), nhất là trong bối cảnh các dịch vụ xã hội
chăm sóc người cao tuổi cịn chưa phát triển, mức độ tích lũy tài sản bảo đảm
khi về già thấp. Đạo hiếu là một truyền thống văn hóa tốt đẹp đang tiếp tục
được giữ gìn. Con cái và cha mẹ hỗ trợ nhau trên ba khía cạnh chính, là tài
chính, việc nhà và tình cảm.
Gia đình Việt Nam hiện nay có quy mơ ngày càng nhỏ, trung bình 3, 4
người, cho thấy xu hướng hạt nhân hóa gia đình khá rõ nét, số lượng gia đình
đơn thân tăng. Thực tế này đặt ra những yêu cầu mới về vai trị chăm sóc và
xây dựng gia đình bảo đảm sự gắn kết xã hội.
13
Tâm lý muốn sinh con trai vẫn phổ biến ở một số nhóm đối tượng có
học vấn thấp, đặc biệt ở một số tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng - nơi chịu
ảnh hưởng mạnh của Nho giáo. Điều này đòi hỏi các chính sách truyền thơng
và can thiệp cần hướng tới các nhóm cụ thể.
Giá trị an sinh của con cái giảm đi ở các nhóm học vấn cao, ở đơ thị,
khu vực có mức sống tốt nhưng nhìn chung truyền thống của gia đình Việt
Nam vốn quy trách nhiệm chăm sóc cha mẹ lúc về già thuộc về con trai, nên
những người mong muốn có con chăm sóc sẽ là nhóm mong muốn có con
trai. Do đó, để thay đổi nhận thức của người dân về giá trị an sinh xã hội của
con cái cần cải thiện điều kiện an sinh xã hội cho nhóm dân số cao tuổi.
2.1.2. Chính sách gia đình no ấm
Thời gian qua, mức sống của gia đình Việt Nam trên các khía cạnh nhà
ở, thu nhập, chi tiêu ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, cịn có sự chênh
lệch giữa các nhóm, các vùng, giữa thành thị và nơng thơn. Thực tế này địi
hỏi xây dựng tầm nhìn thúc đẩy kinh tế, khát vọng làm giàu của gia đình để
tạo ra hệ thống an sinh xã hội nhiều lớp, tăng khả năng chống chịu rủi ro, bảo
đảm khơng gian an tồn cho gia đình.
Gia đình đang là nguồn lực quan trọng, chia sẻ gánh nặng an sinh xã
hội với Nhà nước. Hiện chính sách an sinh xã hội của Nhà nước chủ yếu tập
trung vào các đối tượng là gia đình có cơng, hộ nghèo, hộ người dân tộc thiểu
số, hộ có hồn cảnh đặc biệt khó khăn, người cao tuổi, trẻ em, người khuyết
tật...
Hiện nay, tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm y tế tự
nguyện của đối tượng nơng dân, lao động khu vực phi chính thức còn hạn
chế. Nguyên nhân chủ yếu là do thu nhập cịn thấp; niềm tin về hiệu quả mức
đóng - hưởng của bảo hiểm xã hội chưa cao; quyền lợi của bảo hiểm chưa hấp
dẫn cũng là các rào cản cho việc tham gia hiện nay. Điều này đặt ra yêu cầu
14
về sự hỗ trợ của Nhà nước cho nông dân và lao động khu vực phi chính thức
nhằm khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm, bảo đảm an sinh xã hội lúc
tuổi già.
2.1.3. Chính sách tiến bộ
Tiêu chí này thể hiện qua giáo dục gia đình và thực hiện bình đẳng giới.
Hiện nay, giáo dục con cái trong gia đình vẫn chủ yếu hướng tới các giá trị
truyền thống cốt lõi, như trung thực, hiếu thảo, thương yêu, tiết kiệm… với
phương pháp giáo dục truyền thống, như nêu gương, khuyên nhủ... Tuy nhiên,
trong bối cảnh bùng nổ thông tin, không gian mạng và không gian xã hội
đang biến đổi mạnh mẽ, nhiều gia đình cịn lúng túng trong xác định nội dung
và phương pháp giáo dục con cái. Vai trị giáo dục của cha mẹ cũng có sự thay
đổi theo hướng bình đẳng hơn. Vị thế của con cái đã dần tăng lên, tỷ lệ trẻ vị
thành niên được tham gia quyết định những việc liên quan tới bản thân khá
cao. Tuy nhiên, mối quan hệ cha mẹ - con cái về cơ bản vẫn tuân thủ tôn ti
trật tự truyền thống, cha mẹ vẫn là người quyết định các công việc liên quan
đến con cái. Điều này dẫn đến hiện tượng thiếu tơn trọng quyền của con hoặc
có những hành vi đối xử vi phạm quyền tự do thân thể của trẻ em.
Phát huy vai trò giáo dục trong gia đình là rất cần thiết, tạo nền tảng
xây dựng trẻ em thành nhân tố hòa nhập xã hội hiện đại, thành những cơng
dân có ích. Việc giáo dục con cái là trách nhiệm chung nên cần sự tham gia
tích cực của các thành viên trong gia đình (khơng chỉ là trách nhiệm của
người mẹ, người vợ). Bên cạnh đó, cần có thêm các dịch vụ hỗ trợ giáo dục,
tư vấn trước, trong và sau hôn nhân, hỗ trợ gia đình về phương pháp, nội dung
giáo dục mới phù hợp với sự thay đổi những giá trị và lối sống hiện đại trong
bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Gia đình Việt Nam đề cao giá trị chung thủy, u thương, chia sẻ, bình
đẳng trong hơn nhân. Tuy nhiên, bất bình đẳng giới và định kiến giới trong
các quan hệ gia đình và xã hội vẫn tồn tại. Hệ quả là dẫn đến tình trạng mất
15
cân bằng giới tính khi sinh, phụ nữ vừa đi làm vừa đảm nhiệm vai trị chăm
sóc và nội trợ, mức độ đại diện của phụ nữ trong hệ thống lãnh đạo, quản lý
cịn thấp, tình trạng phân biệt giới trong chi trả tiền lương/tiền cơng cịn diễn
ra… Định kiến giới về vai trị phụ nữ trong gia đình và xã hội là một lực cản
đối với cơ hội phát triển của phụ nữ. Thực tế này đòi hỏi những nỗ lực khơng
ngừng của cả hệ thống chính trị và tồn xã hội để thúc đẩy bình đẳng giới thời
gian tới.
2.1.4. Tiêu chí hạnh phúc
Thiết chế gia đình đang có xu hướng lỏng lẻo hơn, thể hiện qua mức độ
tăng dần của tỷ lệ ly hôn, chung sống không kết hơn, độc thân, khơng sinh
con,... Có hiện tượng một bộ phận thanh niên khơng muốn lập gia đình, ngại
sinh con là do khơng muốn ràng buộc vào cuộc sống có nhiều thách thức của
gia đình, muốn có cuộc sống cá nhân tự do, thoải mái. Thực tế này yêu cầu
cần có những chính sách và dịch vụ xã hội bảo đảm sự tiếp cận cơng bằng,
bình đẳng giữa các hình thức gia đình.
2.1.5. Tiêu chí văn minh
Thách thức lớn nhất đối với gia đình Việt Nam những năm 20 của thế
kỷ XXI là làm thế nào vừa tiếp thu những giá trị nhân văn mới trong xu thế
hội nhập quốc tế, vừa giữ gìn và phát huy được những giá trị truyền thống tốt
đẹp của gia đình Việt Nam, tạo điều kiện cho sự ổn định và phát triển lâu dài
của đất nước.
Các quan điểm chỉ đạo của Đảng, chính sách, phát luật của Nhà nước
trong nhiều năm qua nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng và nhân rộng các mơ
hình gia đình điển hình, tiêu biểu, tạo ra phong trào xây dựng gia đình ít con,
no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc; biểu dương kịp thời và nhân rộng các
mơ hình gia đình vượt khó vươn lên, gia đình làm kinh tế giỏi, gia đình hiếu
học, gia đình trẻ hạnh phúc, gia đình nhiều thế hệ chung sống mẫu mực, chăm
sóc người cao tuổi, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
16
Hiện nay, nước ta bước vào thời kỳ già hóa dân số. Số người cao tuổi
ngày càng tăng trong bối cảnh mức sinh giảm, hệ thống dịch vụ chăm sóc
người cao tuổi hiện cịn hạn chế, lực lượng chăm sóc truyền thống là phụ nữ
ngày càng tham gia nhiều vào thị trường lao động. Điều này đặt ra yêu cầu
xây dựng các chiến lược quốc gia tồn diện chăm sóc và phát huy vai trò
người cao tuổi phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và văn hóa hiện nay.
Theo thống kê của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, năm 2018 có khoảng 3,1
triệu người cao tuổi được nhận lương hưu và bảo hiểm xã hội (chiếm khoảng
27,4% tổng số dân cao tuổi). Khoảng 2,8 triệu người cao tuổi (chiếm 24,7%
tổng số dân cao tuổi) nhận trợ cấp xã hội hằng tháng. Do đó, cả trợ cấp xã hội
và lương hưu có thể chi trả cho khoảng một nửa số người cao tuổi dưới dạng
một số hình thức hỗ trợ hằng tháng. Khoảng 50% người cao tuổi còn lại phải
sống dựa vào gia đình và tự hỗ trợ bản thân.
Khu vực tư nhân đang có vai trị tăng lên trong cung cấp dịch vụ hỗ trợ
người cao tuổi nhưng chủ yếu cho nhóm có thu nhập cao. Vì thế, gia đình
hiện đang đóng vai trị chủ đạo, quan trọng trong chăm sóc tồn diện cho
người cao tuổi. Hình thức chăm sóc người cao tuổi tại cộng đồng mang lại
hiệu quả kinh tế, không làm thay đổi môi trường sống của người cao tuổi, có
sự kết nối với gia đình và cộng đồng quen thuộc, cho phép người cao tuổi vẫn
có sự tự chủ, độc lập. Vì thế, cần gìn giữ và phát huy tính cộng đồng trong
hiện đại hóa, coi đây là mơi trường sống và hỗ trợ quan trọng với dân số cao
tuổi. Đồng thời, cung cấp những hỗ trợ tài chính, dịch vụ chăm sóc ngắn hạn
và dài hạn tại nhà, bao gồm cả chăm sóc chính thức và phi chính thức cho
người cao tuổi. Chăm sóc người cao tuổi tại cộng đồng khơng có nghĩa là tiếp
tục giao trách nhiệm chăm sóc hồn tồn cho gia đình, mà Nhà nước, cộng
đồng, các tổ chức đồn thể cung cấp các chính sách, dịch vụ chăm sóc cho
người cao tuổi tại gia đình, tại cộng đồng.
17
Những thách thức của q trình già hóa dân số là một động lực để xem
xét vai trò của người cao tuổi. Với tuổi thọ cao hơn, chất lượng cuộc sống tốt
hơn, ngày càng có nhiều người cao tuổi khỏe mạnh và vẫn có nhu cầu cống
hiến, đóng góp, làm việc, khơng đơn thuần vì mục đích kinh tế, mà cả duy trì
sự minh mẫn, khỏe mạnh. Người cao tuổi đã và đang có những đóng góp về
xã hội, văn hóa, kinh tế và chính trị cho xã hội bằng nhiều cách, với tư cách là
người chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ, người gìn giữ truyền thống, người lãnh
đạo cộng đồng, hình mẫu,... Điều này cũng cho phép người cao tuổi phát huy
tốt hơn vai trò trong kinh tế, giáo dục, văn hóa tại cộng đồng, trở thành một
nguồn lực tinh thần và kinh tế quan trọng của xã hội.
2.1. Thực trạng q trình vận dụng và hồn thiện chính sách gia đình
mới của Đảng chính trị Việt Nam
2.1.1. Q trình tác động đến chính sách gia đình của Đảng
Nhận thức được vai trò to lớn của gia đình, Đảng và Nhà nước ta vẫn
ln quan tâm chăm lo, xây dựng, phát triển gia đình Việt Nam ấm no, tự do,
phồn vinh, hạnh phúc, đảm bảo tiến bộ và cơng bằng xã hội, bởi vì gia đình
có no ấm, tự do, hạnh phúc, bình đẳng, tiến bộ thì mới có điều kiện để xây
dựng và phát triển đất nước.
Ngày 24/6/2021, Ban Bí thư đã ký ban hành Chỉ thị về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác xây dựng gia đình trong tình hình mới.
Ban Bí thư khẳng định, xây dựng gia đình hạnh phúc, tạo nền tảng để xây
dựng xã hội hạnh phúc là vấn đề hết sức hệ trọng của dân tộc ta.
Thời gian qua, Chính phủ cũng đã ban hành rất nhiều Nghị quyết, Chỉ
thị, Quyết định để chăm lo xây dựng, phát triển và bảo vệ gia đình Việt Nam
như: Ngày 29/3/2017, Thủ tướng ban hành Chỉ thị số 11/CT-TTg về “Đẩy
mạnh giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình”;Chỉ thị số 08/CT-TTg, ngày
18
04/02/2020 của Chính phủ về “Đẩy mạnh cơng tác phịng, chống bạo lực gia
đình”; Quyết định số 2215/QĐ-TTg, ngày 24/12/2020 của Chính phủ ban
hành Kế hoạch thực hiện Kết luận số 76-KL/TW ngày 04/6/2020 của Bộ
Chính trị khóa XII về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày
09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước; Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2020;…
Nghị quyết Trung ương 9, khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa,
con người Việt Nam” của Đảng ta đã xác định: Xây dựng gia đình thực sự là
nơi hình thành, ni dưỡng nhân cách văn hóa và giáo dục nếp sống cho con
người. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ,
hạnh phúc, văn minh. Xây dựng và nhân rộng các mơ hình gia đình văn hóa
tiêu biểu, có nền nếp, ơng bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng
hòa thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau.
Trên cơ sở xác định nhân dân và chủ thể cao nhất của sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước, trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10
năm từ năm 2021-2030, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định “Khơi
dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ
thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn
hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm
sự phát triển bền vững. Phải có cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống
hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân”.
Điều đó có thể thấy, gia đình Việt Nam ln được Đảng, Nhà nước, các
tổ chức chính trị, xã hội quan tâm chăm lo, xây dựng, bồi dưỡng, phát triển
19
toàn diện và được bảo vệ bằng hệ thống pháp luật, chỉ thị, nghị định, quy
định, … chặt chẽ, đảm bảo công bằng, nghiêm minh.
2.1.2. Một số thành tựu đạt được trong chính sách gia đình của Đảng
Trên 50 năm qua (từ năm 1962 đến nay), Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch kiên trì duy trì đẩy mạnh thực hiện phong trào xây dựng gia đình văn hóa,
trong đó tiêu chí: Gia đình hịa thuận, tiến bộ, hạnh phúc được đề cao thực
hiện, cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Hiện nay có trên 16 triệu hộ gia
đình đạt chuẩn văn hóa. Định kỳ 5 năm/1 lần, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch tổ chức Hội nghị tun dương Gia đình văn hóa tiêu biểu xuất sắc tồn
quốc. Tun dương 911/16 triệu hộ gia đình (năm 2007) và 822/16.421.740
hộ gia đình (năm 2013) đạt chuẩn gia đình văn hóa.
Để củng cố, xây dựng gia đình thành tế bào lành mạnh của xã hội,
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong những
năm đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm chăm lo đến gia đình và chỉ rõ: Phải gắn
chặt xây dựng nếp sống mới với xây dựng con người mới, xây dựng gia đình
văn hóa. Chỉ thị số 49-CT/TW, ngày 21-02-2005, của Ban Bí thư Trung ương
Đảng khóa IX đề cao vai trị của gia đình: “Gia đình là tế bào của xã hội, là
nơi duy trì nịi giống, là mơi trường quan trọng hình thành, ni dưỡng và
giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt
đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Thực hiện mục tiêu xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc, các bộ, ngành Trung ương phát động và xây dựng các phong trào mang
tính xã hội trên quy mơ tồn quốc như phong trào: Ông bà cha mẹ mẫu mực,
con cháu thảo hiền, con trung hiếu, cháu thảo hiền, Phụ nữ Việt Nam ni con
khỏe, dạy con ngoan... Năm 1962, Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch) phát động phong trào xây dựng Gia đình văn hóa với tiêu chí xây
dựng gia đình hịa thuận, hạnh phúc. Nội dung xây dựng gia đình hướng tới:
20