Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Giải quyết tranh chấp biển đảo và phán quyết điển hình của cơ quan tài phán quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.57 KB, 110 trang )


Chịu trách nhiệm xuất bản:
Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PHẠM CHÍ THÀNH
Chịu trách nhiệm nội dung:
ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP - XUẤT BẢN
TS. VÕ VĂN BÉ
Biên tập nội dung:

TS. NGUYỄN THỊ QUỲNH NGA
TS. HOÀNG MẠNH THẮNG
BÙI BỘI THU
NGUYỄN ĐỒN

Trình bày bìa:

NGỌC NAM

Chế bản vi tính:
Đọc sách mẫu:

PHỊNG BIÊN TẬP KỸ THUẬT
VIỆT HÀ

Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 1360-2020/CXBIPH/19-301/CTQG.
Số quyết định xuất bản: 5012-QĐ/NXBCTQG, ngày 09/06/2020.
Nộp lưu chiểu: tháng 6 năm 2020.
Mã số ISBN: 978-604-57-5672-0.





NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
Hà Nội - 2018



LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Chủ quyền quốc gia là vấn đề đặc biệt quan trọng, có ý
nghĩa thiêng liêng với mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Tôn
trọng chủ quyền quốc gia là một nguyên tắc cơ bản của luật
pháp quốc tế. Chủ quyền quốc gia là tuyệt đối, bất khả xâm
phạm. Pháp luật quốc tế hiện đại và tập quán quốc tế đều
thừa nhận tính bất khả xâm phạm của lãnh thổ quốc gia và
biên giới quốc gia (bao gồm vùng đất, vùng biển, vùng trời).
Đối với các quốc gia, ngồi lãnh thổ đất liền, thì vùng
biển đảo là nơi dự trữ tài nguyên rất lớn về nguyên - nhiên
liệu và các sản vật biển. Cũng chính vì vậy, biển đảo là nơi
thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp lợi ích liên
quan đến chủ quyền, thậm chí, có những vụ việc mâu thuẫn
kéo dài nhiều năm liền giữa nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ.
Những tranh chấp kéo dài, phức tạp và ngày càng gia tăng
giữa hai hoặc nhiều bên có thể tiềm ẩn nguy cơ khó lường,
đe dọa đến hịa bình, ổn định ở các khu vực và thế giới.
Nhằm cung cấp cho bạn đọc những kiến thức pháp lý
về giải quyết tranh chấp biển đảo trên thế giới, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Phán
quyết điển hình của cơ quan tài phán quốc tế về giải
quyết tranh chấp biển đảo (sách tham khảo) của tác giả

5



PGS.TS. Bành Quốc Tuấn (Chủ biên) và ThS. Nguyễn Chí
Thắng. Nội dung cuốn sách giới thiệu và phân tích 6 phán
quyết điển hình của một số cơ quan tài phán quốc tế về giải
quyết tranh chấp biển đảo, như vụ tranh chấp chủ quyền
đảo Palmas giữa Hà Lan và Hoa Kỳ, vụ kiện của Philíppin
với Trung Quốc về một số vấn đề trên Biển Đông hay việc
phân định ranh giới biển giữa Guyana và Xurinam... Đặc
biệt, qua việc phân tích những phán quyết điển hình, cuốn
sách là tài liệu hữu ích giúp chúng ta tham khảo trong việc
củng cố thêm những căn cứ pháp lý cũng như đưa ra một số
giải pháp trong quá trình giải quyết xung đột về tuyên bố
chủ quyền biển đảo của Việt Nam trên Biển Đơng.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng cuốn sách khơng tránh
khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định. Nhà xuất bản và
các tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc
để cuốn sách được hồn thiện hơn trong lần xuất bản sau.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 11 năm 2018
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT

6


MỞ ĐẦU
Ngăn chặn các mâu thuẫn, tranh chấp về chủ quyền
lãnh thổ, biển đảo không phát triển thành các cuộc chiến
tranh hoặc phần nào đó giải quyết được các mâu thuẫn,
xung đột giữa các quốc gia bằng con đường hòa bình ln

là mục tiêu, mơ ước của nhân loại qua bao thế hệ. Môi
giới và trung gian, hoặc giải quyết thơng qua các ủy ban
điều tra và hịa giải là các biện pháp được tiến hành với
sự tham gia của bên thứ ba, bên không tham gia tranh
chấp nhằm giúp các bên liên quan có thể giải quyết được
tranh chấp của mình. Tuy nhiên, lịch sử nhân loại đã cho
thấy xây dựng pháp luật quốc tế thông qua ký kết các
điều ước quốc tế cũng như thành lập các thiết chế có thẩm
quyền tài phán là một trong những phương thức hiệu quả
nhất để đạt được mục tiêu trên. Theo cách thức này, tranh
chấp có thể được giải quyết thơng qua Tòa án hoặc Trọng
tài. Trọng tài quốc tế là cơ quan quốc tế được thành lập
trên cơ sở điều ước quốc tế ký kết giữa các bên liên quan
đến tranh chấp nhằm giải quyết một vụ tranh chấp hoặc
một loại tranh chấp cụ thể bằng phán quyết mang tính

7


bắt buộc. Tòa án cũng là phương thức giải quyết tranh
chấp tương tự như Trọng tài nhưng chặt chẽ hơn về mặt
thủ tục. Tòa án là cơ quan tồn tại một cách thường xun
chứ khơng mang tính tạm thời như Trọng tài. Mỗi phương
thức giải quyết thơng qua Tịa án hoặc Trọng Tài đều có
những ưu điểm và hạn chế riêng. Tuy nhiên, phương thức
giải quyết tranh chấp thông qua Trọng tài có phần thích
hợp hơn khi các bên mong muốn giải quyết tranh chấp
một cách hịa bình, sau khi tranh chấp được giải quyết
các bên vẫn có thể tiếp tục duy trì mối quan hệ với nhau.
Đó chính là một trong những lý do chủ yếu dẫn đến việc

thành lập Tòa Trọng tài thường trực La Hay (Permenent
Court Arbitration - PCA) có trụ sở tại Hà Lan cũng như
nhiều thiết chế giải quyết tranh chấp khác.
Việt Nam là quốc gia có liên quan đến xung đột về
tuyên bố chủ quyền tại Biển Đông, khi phê chuẩn Công
ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, Quốc hội
khóa IX đã tuyên bố: “Quốc hội một lần nữa khẳng định
chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa và chủ trương giải quyết các tranh chấp
về chủ quyền lãnh thổ cũng như các hoạt động khác liên
quan đến Biển Đơng thơng qua thương lượng hịa bình
trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tơn trọng lẫn nhau,
tôn trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp
quốc về Luật biển năm 1982, tôn trọng quyền chủ quyền
và quyền tài phán của các nước ven biển đối với vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa; trong khi nỗ lực thúc đẩy

8


đàm phán để tìm giải pháp cơ bản và lâu dài, các bên liên
quan cần duy trì ổn định trên cơ sở giữ ngun trạng,
khơng có hành động làm phức tạp thêm tình hình, khơng
sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực”1. Chính vì vậy,
trong tương lai, chúng ta có thể sẽ phải sử dụng đến các cơ
quan tài phán quốc tế để giải quyết các bất đồng, xung đột
về tuyên bố chủ quyền lãnh thổ quốc gia trong trường hợp
cần thiết. Xung đột về tuyên bố chủ quyền tại Biển Đông
là xung đột phức tạp, kéo dài qua nhiều giai đoạn lịch sử
với những sự kiện lịch sử rất phức tạp. Chính vì vậy, việc

nghiên cứu một cách có hệ thống các phán quyết đã tuyên
của Tòa Trọng tài thường trực La Hay (PCA) cũng như
phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế khác đối với
những vụ việc có nội dung tương đồng với vấn đề xung đột
về tuyên bố chủ quyền Biển Đông sẽ giúp chúng ta rút ra
được những kinh nghiệm cần thiết trong quá trình tham
gia giải quyết vụ việc tại Tòa Trọng tài thường trực La
Hay hay các thiết chế giải quyết tranh chấp khác.
Xuất phát từ những cơ sở trên, các tác giả đã tập hợp
và phân tích một số phán quyết điển hình trong việc giải
quyết các tranh chấp về chủ quyền biển đảo đã được ban
hành để xuất bản cuốn sách Phán quyết điển hình
của cơ quan tài phán quốc tế về giải quyết tranh
chấp biển đảo (sách tham khảo). Cuốn sách sẽ là tài liệu
1. Nghị quyết ngày 23-6-1994 của Quốc hội khóa IX “Về việc phê chuẩn
Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982”. Nguồn: .
gov.vn/vbpq/lists/vn%20bn%20php%20lut/view_detail.aspx?itemid=10091

9


hữu ích giúp bạn đọc và những ai quan tâm đến vấn đề
chủ quyền quốc gia có được nhận thức đúng đắn trong
việc sử dụng các công cụ pháp lý quốc tế để bảo vệ chủ
quyền quốc gia.

10


VỤ TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN ĐẢO PALMAS

GIỮA HÀ LAN VÀ HOA KỲ NĂM 1928
1. Sơ lược về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
của đảo Palmas
Đảo Palmas (ngày nay còn được biết đến với tên gọi
khác là đảo Pula Miangas, một bộ phận của lãnh thổ nước
Cộng hòa Inđơnêxia) là một hịn đảo nhỏ, có chiều dài
khoảng 3km và chiều rộng khoảng 1,2km, với số lượng
dân cư khoảng 750 người vào thời điểm phán quyết của
Tòa Trọng tài thường trực La Hay (PCA) được tuyên.
Vị trí đảo Palmas ở giữa đảo Minđanao của lãnh thổ
Philíppin và một đảo phía cực Bắc có tên là Nanusa, là
một đảo đã được phát hiện bởi Công ty Đông Ấn (East Indies
Company) của Hà Lan. Năm 1898, Tây Ban Nha đã nhượng
lại đảo Palmas cho Philíppin (lúc này là thuộc địa của
Hợp chúng quốc Hoa Kỳ) bằng Công ước Pari năm 18981.
1. Công ước Pari năm 1898 là Công ước ký giữa Hoa Kỳ và Tây Ban
Nha để chấm dứt cuộc chiến tranh Hoa Kỳ - Tây Ban Nha. Theo Công ước,
Tây Ban Nha phải trao nhượng tồn bộ thuộc địa Philíppin cho Hoa Kỳ.
Xem Nguyễn Quang Thắng - Hoàng Sa, Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam nhìn
từ Cơng pháp quốc tế, Nxb. Tri Thức, 2008, tr.216.

11


Từ thời điểm đó, Hoa Kỳ đặt đảo Palmas nằm bên trong
đường biên giới của Philíppin, thuộc địa của Hoa Kỳ. Năm
1906, một vị tướng người Mỹ là Leonard Wood, thăm
Palmas và phát hiện ra rằng Hà Lan cũng tuyên bố chủ
quyền trên đảo. Tranh chấp phát sinh và hai bên đã đồng ý
đưa vụ việc ra giải quyết tại Tịa Trọng tài thường trực La

Hay. Ngày 23-01-1925 Chính phủ Hà Lan và Chính phủ
Hoa Kỳ đã ký kết thỏa thuận để chính thức hóa việc đưa
vụ việc ra giải quyết tại PCA (The Special Agreement of
January 23rd, 19251). Văn bản phê chuẩn việc thỏa thuận
được trao đổi tại Oasinhtơn ngày 01-4-1925. Văn bản
thỏa thuận được đăng ký trong “League of Nations Treaty
Series” ngày 19-5-1925. Hội đồng trọng tài giải quyết vụ
việc chỉ có một Trọng tài viên duy nhất là ông Max Huber,
quốc tịch Thụy Sĩ; ông Michiels Van Verduynen là Tổng
thư ký.
2. Bối cảnh dẫn đến tranh chấp
Hiệp định Pari được ký ngày 10-12-1898 là một thỏa
thuận, theo đó Tây Ban Nha trao lại tồn bộ quyền kiểm
sốt Cuba và nhượng lại Puerto Rico, một phần Tây Ấn
Độ, Guam và Philíppin cho Hoa Kỳ sau thất bại trong
cuộc xung đột vũ trang với Hoa Kỳ từ tháng 4-1898 đến
tháng 8-1898. Trong đó, Tây Ban Nha nhượng lại quyền
1. Xem toàn văn văn bản tại />sites/175/2016/11/USA-Netherlands-Agreement-regarding-the-Sovereigntyover-the-Island-of-Palmas-or-Miangas.pdf

12


kiểm sốt Philíppin để lấy một khoản tiền trị giá hai
mươi triệu đơla từ Hoa Kỳ. Hiệp định có hiệu lực vào ngày
11-4-1898 báo hiệu cho sự kết thúc của đế chế Tây Ban
Nha ở châu Mỹ, Thái Bình Dương và đánh dấu sự mở đầu
của thế lực thực dân Hoa Kỳ tại đây.
Vấn đề Tây Ban Nha nhượng lại Philíppin là một
trong những nội dung cơ bản của Hiệp định Pari năm
1898, được quy định tại Điều 3 của Hiệp định. Cụ thể,

Tây Ban Nha nhượng lại cho Hoa Kỳ quần đảo Philíppin,
bao gồm những đảo nằm trong những đường biên giới
sau: Một đường biên chạy dài từ tây sang đông hoặc cận
20 độ vĩ tuyến Bắc và xuyên qua giữa eo biển Bachi, từ
118 độ kinh tuyến đến 127 độ kinh tuyến Đơng Grinch
(Greenwich), từ đó dọc theo 127 độ kinh tuyến Đông của
Grinuých (Greenwich) đến 4 độ 45 phút vĩ tuyến Bắc,
từ đó dọc theo 4 độ 45 phút vĩ tuyến Bắc đến đoạn giao
nhau với 119 độ 35 phút kinh tuyến Tây của Grinuých
(Greenwich), từ đó dọc theo kinh tuyến 119 độ 35 phút
Tây của Grinuých (Greenwich) đến vĩ tuyến 7 độ 40
phút Bắc, từ đó dọc theo kinh tuyến 7 độ 40 phút Bắc
đến đoạn giao với 116 độ kinh tuyến Tây của Grinuých
(Greenwich), và từ đó theo đến 118 độ vĩ tuyến Tây
Grinuých (Greenwich), và từ 118 độ vĩ tuyến Tây của
Grinuých (Greenwich) đến điểm bắt đầu. Hoa Kỳ sẽ trả
cho Tây Ban Nha tổng cộng là 20 triệu đơla trong vịng
03 tháng sau khi thông qua việc trao đổi của Hiệp định
hiện tại.

13


Sau khi Hiệp định Pari có hiệu lực, Hoa Kỳ đã kiểm
soát đảo Palmas với tư cách một bộ phận của Philíppin
cho đến khi phát sinh tranh chấp với Hà Lan. Hiệp định
Oasinhtơn ký ngày 07-11-1900 là một thỏa thuận giữa
Hoa Kỳ và Tây Ban Nha với mục đích loại bỏ mọi hiểu
lầm có thể phát sinh từ việc diễn giải Điều 3 của Hiệp
định Pari năm 1898 bằng cách làm rõ chi tiết về các vùng

lãnh thổ mà Tây Ban Nha giao lại cho Hoa Kỳ. Hiệp định
có hiệu lực từ ngày 23 tháng 3 năm 1901 sau khi hai bên
trao đổi văn kiện phê chuẩn hiệp định cho nhau. Hiệp
định Oasinhtơn nêu rõ:
(i) Tây Ban Nha giao lại cho Hoa Kỳ tất cả các tuyên
bố chủ quyền mà Tây Ban Nha có thể đã từng có vào lúc
ký kết Hiệp định Pari năm 1898 đối với tất cả các đảo
thuộc quần đảo Philíppin nằm ngồi những đường ranh
giới được mô tả trong Điều 3 của Hiệp định mà cụ thể
là đối với các đảo Cagayan Sulu và Sibutu cùng các đảo
phụ thuộc;
(ii) Tây Ban Nha đồng ý rằng, tất cả các đảo trên
phải được hiểu trong tổng thể tuyên bố chuyển quần
đảo Philíppin từ Tây Ban Nha sang Hoa Kỳ với tư cách
chúng đã được bao hàm rõ ràng trong phạm vi của các
đường ranh giới đã nhắc đến ở trên (Điều 3 Hiệp định Pari
năm 1898);
(iii) Hoa Kỳ đồng ý trả cho Tây Ban Nha số tiền trị giá
100.000 đơla trong vịng sáu tháng sau khi hai bên trao
đổi văn kiện phê chuẩn Hiệp định Oasinhtơn.

14


3. Yêu sách của các bên đối với chủ quyền đảo Palmas
Cả Hoa Kỳ và Hà Lan trong vụ tranh chấp này đều
đưa ra yêu sách công nhận chủ quyền của mình đối với
đảo Palmas. Đối với Hoa Kỳ, yêu sách chủ quyền đối với
đảo Palmas được đưa ra trên cơ sở chủ quyền của Tây Ban
Nha là chủ thể đầu tiên phát hiện ra đảo Palmas. Đối với

Hà Lan, yêu sách chủ quyền đối với đảo Palmas được đưa
ra dựa trên sự chiếm hữu liên tục cũng như sự thể hiện
chủ quyền trên thực tế đối với đảo Palmas. Vấn đề pháp
lý quan trọng liên quan đến vụ việc là phải trả lời có hay
khơng việc thiết lập quyền sở hữu đối với một vùng lãnh
thổ bởi người phát hiện ra nó đầu tiên, thậm chí ngay cả
khi họ khơng thực hiện chủ quyền thực tế của mình trên
vùng lãnh thổ đó hoặc một vùng lãnh thổ có thuộc về chủ
quyền của quốc gia chiếm hữu thực tế vùng lãnh thổ đó
hay khơng?
Trọng tài viên Max Huber, một luật sư người Thụy Sĩ,
đã giải quyết theo hướng có lợi cho Hà Lan và lập luận
rằng Hà Lan đã thực hiện chủ quyền thực tế đối với đảo
Palmas. Lập luận của ông được dựa trên cơ sở mà các bên
tranh chấp đưa ra như sau:
- Phải là người phát hiện ra đầu tiên: Trong lần tranh
luận đầu tiên giữa hai bên Hoa Kỳ lập luận họ là nước
có chủ quyền đối với đảo Palmas bởi lẽ Tây Ban Nha đã
nhượng lại chủ quyền đối với lãnh thổ của Philíppin cho
Hoa Kỳ bằng Hiệp định Pari ký ngày 10-12-1898 (trong
đó có đảo Palmas) vì Tây Ban Nha là chủ thể đầu tiên

15


phát hiện ra đảo Palmas. Theo Hoa Kỳ, chủ quyền đối với
một vùng lãnh thổ không được thiết lập đơn giản bởi hành
vi vẽ bản đồ mà phải thông qua một Công ước và Hoa
Kỳ đã viện dẫn Công ước Munster (Treaty of Munster)
ngày 30-01-1648 giữa Tây Ban Nha và Hà Lan. Cơng ước

Munster năm 1648 có nội dung tun bố hịa bình giữa
Tây Ban Nha và Hà Lan. Theo Hoa Kỳ, Điều V Cơng ước
có quan hệ tới vấn đề lãnh thổ giữa Tây Ban Nha và Công
ty Đông Ấn của Hà Lan. Như vậy, đảo Palmas là một phần
của lãnh thổ Philíppin và Hoa Kỳ đã chiếm giữ Philíppin
sau chiến thắng trong cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha
năm 1896. Như vậy, Hoa Kỳ đã thực hiện quyền chiếm
hữu của người phát hiện đầu tiên thông qua sự chuyển
nhượng quyền sở hữu hợp pháp từ Tây Ban Nha. Trọng
tài viên cũng đã đồng ý rằng khơng có quy định nào của
pháp luật quốc tế hiện đại không công nhận việc chuyển
giao lãnh thổ qua chuyển nhượng.
Tuy nhiên, Trọng tài viên đã lưu ý rằng, Tây Ban Nha
không thể chuyển giao một cách hợp pháp vùng lãnh thổ
mà họ không phải là người sở hữu hợp pháp và như vậy,
Hiệp định Pari không thể chuyển giao đảo Palmas cho
Hoa Kỳ một cách hợp pháp nếu Tây Ban Nha không thực
hiện quyền của người chiếm hữu nó trên thực tế. Trọng
tài viên đã kết luận Tây Ban Nha đã là người có quyền
sở hữu đối với đảo Palmas ngay khi Tây Ban Nha phát
hiện ra đảo. Tuy nhiên, Trọng tài viên cũng lưu ý rằng,
để duy trì chủ quyền của mình đối với vùng lãnh thổ đã

16


phát hiện ra, quốc gia phát hiện ra phải duy trì liên tục
trên thực tế quyền lực của mình đối với vùng lãnh thổ đó,
thậm chí chỉ bằng một hành động đơn giản như cắm quốc
kỳ trên bãi biển của hịn đảo đó. Trong trường hợp này,

Tây Ban Nha đã khơng thực hiện chủ quyền của mình
trên thực tế đối với đảo Palmas sau khi quốc gia này phát
hiện ra đảo. Chính vì vậy, lập luận của Hoa Kỳ đối với vụ
kiện về việc Hoa Kỳ có chủ quyền đối với đảo Palmas khi
là chủ thể phát hiện ra đầu tiên đã dựa trên một cơ sở
pháp lý tương đối yếu.
- Phải có sự tiếp giáp: Hoa Kỳ cũng đưa ra lập luận
rằng đảo Palmas là một phần của lãnh thổ tiếp giáp với
đất liền lãnh thổ Philíppin, là thuộc địa của Hoa Kỳ bởi
lẽ, nó gần lãnh thổ của Philíppin hơn là lãnh thổ của
Inđơnêxia - lãnh thổ thuộc địa của Hà Lan. Trọng tài
viên đã lập luận rằng khơng có bất kỳ quy định nào của
pháp luật quốc tế là cơ sở cho lập luận của Hoa Kỳ, bởi lẽ,
vị trí của đảo khơng phải là cơ sở quyết định chủ quyền
của đảo thuộc về quốc gia nào. Trọng tài viên cũng cho
rằng, nếu chỉ dựa vào vị trí thì khơng đủ cơ sở pháp lý
để tiến hành một vụ kiện đòi chủ quyền đối với một vùng
đất. Nếu cộng đồng quốc tế đi theo hướng lập luận của
Hoa Kỳ nó sẽ dẫn đến những kết quả giải quyết tùy tiện
và khơng có cơ sở pháp lý.
- Phải thể hiện chủ quyền một cách liên tục và công khai:
Quan điểm đầu tiên mà Hà Lan đưa ra: Hà Lan là chủ
thể có chủ quyền đối với đảo Palmas bởi lẽ từ năm 1677,

17


quốc gia này đã thực hiện quyền chiếm hữu trên thực tế
đối với đảo Palmas. Theo Hà Lan, đảo Palmas và các
đảo Nanusa, đảo Talauer, gọi chung là các đảo Talaud

(Talaud Islands) trước đó thuộc về Nhà nước Tabukan.
Như vậy, Nhà nước địa phương Tabukan mới là chủ thể
chiếm hữu trực tiếp trên thực tế đảo Palmas chứ không
phải Tây Ban Nha dù Tây Ban Nha là quốc gia đã phát
hiện ra đảo Palmas. Hà Lan cũng cho rằng, dựa vào
Công ước Munster năm 1648, năm 1677, Hà Lan đã đạt
được thỏa thuận với Nhà nước Tabukan về việc Hà Lan
sẽ quản lý, kiểm sốt đảo Palmas thơng qua một Hiệp
định giữa Công ty Đông Ấn với Nhà nước Tabukan. Theo
đó, một yêu cầu đặt ra đối với những người theo đạo Tin
lành là từ chối quyền kiểm soát của các quốc gia khác
đối với hòn đảo. Như vậy, Hà Lan đã chứng minh được
rằng Công ty Đông Ấn đã thực hiện quyền kiểm soát đối
với đảo Palmas từ thế kỷ XVII. Trong khi đó, Hoa Kỳ đã
khơng thể đưa ra được các bằng chứng chứng minh rằng
Tây Ban Nha đã thực hiện chủ quyền đối với đảo Palmas
ngoại trừ những văn bản cụ thể thể hiện việc Tây Ban
Nha đã phát hiện ra hịn đảo. Cũng khơng có bất cứ bằng
chứng nào chứng minh rằng đảo Palmas chịu sự quản
lý hành chính hoặc là một đơn vị hành chính của chính
quyền Tây Ban Nha ở Philíppin.
Trọng tài viên đã chấp nhận lập luận của Hà Lan và
cho rằng, nếu Tây Ban Nha cũng đã thực hiện chủ quyền
đối với đảo Palmas thì tất yếu phải xảy ra xung đột giữa

18




×