Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

CƠ QUAN TÀI PHÁN QUỐC TẾ VÀ CƠ QUAN TÀI PHÁN QUỐC GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.15 KB, 13 trang )

BÀI TẬP HỌC KỲ

I.

MÔN: CÔNG PHÁP QUỐC TẾ

KHÁI NIỆM CƠ QUAN TÀI PHÁN QUỐC TẾ VÀ CƠ QUAN TÀI
PHÁN QUỐC GIA

Để hiểu thế nào là cơ quan tài phán quốc gia, cơ quan tài phán quốc tế, chúng ta
cần hiểu tài phán là gì. Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, tài phán được hiểu là
toàn bộ các hoạt động, hành vi của tổ chức, cơ quan hay cá nhân có thẩm quyền theo
luật định trong việc giải quyết các vụ việc tranh chấp pháp lý. Quyền tài phán là quyền
năng theo pháp luật, phù hợp với pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Quyền tài phán
theo pháp luật là dạng quyền tài phán do pháp luật đặt ra. Cũng có thể đó là quyền tài
phán không phải được pháp luật trực tiếp lập ra nhưng được quy phạm pháp luật cho
phép các cá nhân, tổ chức có thẩm quyền lập ra.
Hành vi tài phán là hành vi của cá nhân hoặc tổ chức, hoặc cơ quan có quyền tài
phán. Hành vi tài phán được đặt trong phạm vi, bối cảnh nhất định, tức là có giới hạn.
Thể chế tài phán là các quy tắc pháp lý, bao gồm các quy tắc nền tảng và các
quy tắc nội dung về tài phán, ở cả diện rộng hoặc hẹp (bao trùm hoặc trong phạm vi
một lĩnh vực). Thiết chế tài phán là cơ cấu vật chất của tài phán. Nó chỉ rõ ai là "chủ
thể" của tài phán, mang quyền tài phán.
Như vậy, với những kiến thức chung nhất về tài phán, chúng ta hãy cùng tỉm
hiểu cơ quan tài phán quốc tế và cơ quan tài phán quốc gia.
I.1.

Cơ quan tài phán quốc tế - hệ thống cơ quan tài phán quốc tế

Trong lịch sử hoạt động, hình thức tài phán quốc tế đầu tiên tồn tại dưới dạng
trọng tài quốc tế. Trước thế kỷ XX, hình thái của cơ quan tài phán quốc tế là các trọng


tài ad hoc. Công ước Lahaye năm 1899 lần đầu tiên đã trù định thành lập một cơ quan
tài phán quốc tế thường trực, theo đó Tòa án trọng tài thường trực được thành lập năm
1900 và đi vào hoạt động từ năm 1902. Tuy nhiên trên thực tế đây chỉ là một danh
sách các trọng tài viên thường trực, có thể được các quốc gia lựa chọn kho giải quyết
các tranh chấp quốc tế bằng việc sử dụng biện pháp này. Còn cơ quan tài phán quốc tế
thường trực đầu tiên trong lịch sử hình thành và phát triển các loại hình tài phán quốc
tế là Pháp viện thường trực quốc tế, được thành lập và hoạt động trong khuân khổ hội
Dương Thu Phương (DS32C.038)

Page 1


BÀI TẬP HỌC KỲ

MÔN: CÔNG PHÁP QUỐC TẾ

quốc liên. Quy chế của pháp viện này được Đại hội đồng Hội quốc liên thông qua
ngày 16/12/1920. Cho đến nay, nhìn chung các cơ quan tài phán quốc tế tồn tại chủ
yếu dưới hai dạng là tòa án và trọng tài quốc tế.
Các tranh chấp được giải quyết bằng nhiều biện pháp khác nhau và một trong
các biện pháp đó là việc sử dụng hình thức tài phán quốc tế. Về bản chất, tài phán
quốc tế là cách thức hòa bình để giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các phương
pháp, thủ tục tư pháp do các quốc gia tự lựa chọn. Như vậy, trong quan hệ quốc tế,
thẩm quyền của các cơ quan tài phán quốc tế thường phụ thuộc vào ý chí của các bên
tranh chấp.
Cơ quan tài phán quốc tế là cơ quan hình thành trên cơ sở thỏa thuận hoặc thừa
nhận của các chủ thể luật quốc tế nhằm thực hiện chức năng giải quyết bằng trình tự,
thủ tục tư pháp các tranh chấp nảy sinh trong quá trình các chủ thể thực thi, tuân thủ
luật quốc tế.
Hiện nay, trong các tài liệu không có nhiều khái niệm về hệ thống cơ quan tài

phán quốc tế. Em xin mạnh dạn đưa ra khái niệm như sau: Hệ thống cơ quan tài phán
quốc tế là tất cả các cơ quan tài phán quốc tế có chức năng giải quyết các tranh chấp
nảy sinh trong quá trình các chủ thể thực thi, tuân thủ luật quốc tế (chức năng giải
quyết tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể luật quốc tế). Hệ thống cơ quan tài phán
quốc tế bao gồm: Tòa án công lý quốc tế của Liên hợp quốc; Tòa án liên minh châu
Âu; Tòa án luật biển; Tòa trọng tài thường trực Lahaye; Tòa trọng tài quốc tế về luật
biển và các cơ quan tài phán quốc tế khác (thiết chế tài phán của Tổ chức thương mại
thế giới; thiết chế tài phán của Asean).

Dương Thu Phương (DS32C.038)

Page 2


BÀI TẬP HỌC KỲ

MÔN: CÔNG PHÁP QUỐC TẾ

Sơ đồ hệ thống cơ quan tài phán quốc tế
Thiết chế tài phán quốc tế

Các thiết chế Tòa án quốc tế

Tòa án
công

quốc
tế của
Liên
hợp

quốc

I.2.

Tòa án
liên
minh
châu
Âu

Tòa án
luật
biển

Các thiết chế Trọng tài quốc tế

Tòa
trọng
tài
thường
trực
Lahaye

Tòa
trọng tài
quốc tế
về luật
biển

Cơ quan tài phán

quốc tế khác

Cơ quan tài phán quốc gia - hệ thống cơ quan tài phán quốc gia

Nhà nước ban hành ra pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Nếu
trong quan hệ xã hội nảy sinh những tranh chấp sẽ có những cơ quan có thẩm quyền
áp dụng pháp luật để giải quyết những tranh chấp đó. Đó là các cơ quan tài phán. Cơ
quan tài phán quốc gia cũng chủ yếu bao gồm: Tòa án và trọng tài.
Cơ quan tài phán quốc gia là cơ quan do quốc gia đó thành lập nhằm thực hiện
chức năng giải quyết các tranh chấp phát sinh theo một trình tự, thủ tục nhất định do
quy phạm pháp luật quy định.
Hệ thống cơ quan tài phán quốc gia bao gồm tất cả các cơ quan tài phán trong
quốc gia đó được pháp luật của quốc gia này quy định, có chức năng, nhiệm vụ và
thẩm quyền khác nhau nhằm giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể của
luật quốc gia.
Ở mỗi quốc gia khác nhau có hệ thống cơ quan tài phán khác nhau. Sau đây là
một số mô hình cơ quan tài phán của các nước trên thế giới:
Dương Thu Phương (DS32C.038)

Page 3


BÀI TẬP HỌC KỲ

MÔN: CÔNG PHÁP QUỐC TẾ

- Hệ thống Tòa án Anh (lược đồ đơn giản hóa):
Thượng nghị viện

Hội đồng tư vấn


Tòa phúc thẩm
Tòa dân sự

Tòa hình sự
Tòa tối cao
Tòa cấp cao

Tòa của
Nữ
hoàng

Tòa của
VP Hoàng
gia

Tòa gia
đình
Tòa Hoàng gia

Tòa án địa phương
Tòa sơ thẩm
- Hệ thống xét xử tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (mô hình đơn giản hóa)
Các tòa án Liên bang
Tòa án tối cao Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ

Các tòa phúc thẩm Liên
bang


Tòa liên bang cấp quận

Dương Thu Phương (DS32C.038)

Các tòa án bang
Tòa tối cao

Tòa phúc thẩm

Tòa sơ thẩm

Page 4


BÀI TẬP HỌC KỲ

MÔN: CÔNG PHÁP QUỐC TẾ

- Hệ thống trọng tài ở Việt Nam
Trung tâm Trọng tài ở Việt Nam là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp
nhân, có con dấu và tài khoản riêng. Trung tâm Trọng tài được lập chi nhánh, văn
phòng đại diện của Trung tâm. Trung tâm Trọng tài có Ban điều hành và các Trọng tài
viên. Ban điều hành Trung tâm Trọng tài gồm có Chủ tịch, một hoặc các Phó chủ tịch,
có thể có Tổng Thư ký do Chủ tịch Trung tâm Trọng tài cử.
Ví dụ: Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (Hà nội): có Ban điều hành (đứng
đầu là Chủ tịch ban điều hành) và có các trọng tài viên. Chi nhánh, văn phòng đại diện
của Trung tâm ở 3 thành phố: Tp.HCM, Đà Nẵng và Hải Phòng. Ở các chi nhánh, văn
phòng đại diện có các trưởng chi nhánh, văn phòng đại diện của trung tâm trọng tài và
các trọng tài viên.
Hiện nay, ở nước ta có 6 trung tâm trọng tài đó là: Trung tâm Trọng tài quốc tế

Việt Nam; trung tâm Trọng tài Thương mại Hà Nội; Trung tâm trọng tài thương mại
quốc tế Á Châu; Trung tâm Trọng tài Thương mại Tp.HCM, Trung tâm Trọng tài
Thương mại Cần Thơ và Trung tâm Trọng tài quốc tế Thái Bình Dương.
II.

ĐẶC THÙ CỦA CƠ QUAN TÀI PHÁN QUỐC TẾ SO VỚI CƠ
QUAN TÀI PHÁN QUỐC GIA

Khi so sánh một vấn đề nào đó, chúng ta cần đưa ra những tiêu chí để làm nổi
bật những đặc thù của đối tượng so sánh. Để biết cơ quan tài phán quốc tế có những
điểm khác nào so với cơ quan tài phán quốc gia, Em xin đưa ra những tiêu chí sau:
II.1. Cơ sở pháp lí
Khi khẳng định trọng tài và tòa án là cơ quan tài phán quốc tế, chúng ta cần chỉ
ra cơ sở pháp lí. Trong Hiến chương liên hợp quốc 1945, quy chế Tòa án công lý quốc
tế được thông qua năm 1946 và nội quy của Tòa được thông qua vào ngày 6/5/1946
có chỉ rõ tòa án là 1 cơ quan tài phán quốc tế. Công ước Lahaye năm 1907 đã định
nghĩa trọng tài quốc tế là: “một phương thức giải quyết các tranh chấp giữa các quốc
gia qua các thẩm phán do các quốc gia tự lựa chọn”, là cơ quan tài phán không
thường trực, không có quy chế riêng.
Dương Thu Phương (DS32C.038)

Page 5


BÀI TẬP HỌC KỲ

MÔN: CÔNG PHÁP QUỐC TẾ

Còn cơ sở pháp lí của các thiết chế tài phán quốc gia là những quy phạm pháp
luật quốc gia. Ví dụ: Cơ quan tài phán của quốc gia Việt Nam bao gồm Tòa án và

Trọng tài. Thiết chế Tòa án được quy định trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung
năm 2001); Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002… Thiết chế trọng tài được quy
định trong Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003; Nghị định 25/2004/NĐ-CP Hướng
dẫn Pháp lệnh Trọng tài Thương mại…
Khi có tranh chấp xảy ra, các thiết chế tài phán quốc tế sẽ áp dụng các nguyên
tắc và quy phạm của luật quốc tế, cụ thể là các điều ước quốc tế mà các bên ký kết
hoặc tham gia (trước hết là những điều ước liên quan trực tiếp đến tranh chấp) và tập
quán quốc tế. Các điều ước và tập quán này là cơ sở để xác định mức độ vi phạm
nghĩa vụ đã cam kết của các bên. Trên cơ sở đó, các cơ quan tài phàn quốc tế ra phán
quyết để giải quyết tranh chấp. Ngoài ra, với các thiết chế trọng tài quốc tế, ngoài các
nguyên tắc và quy phạm của luật quốc tế, trong một số trường hợp, nếu điều ước quốc
tế về trọng tài mà các bên ký kết có quy định về khả năng viện dẫn các nguồn khác
chẳng hạn như pháp luật quốc gia, các nguyên tắc pháp luật chung hoặc một quy định
đặc biệt nào đó thì Tòa trọng tài có thể áp dụng các nguồn này để giải quyết tranh
chấp. Ví dụ, trong vụ Trail Smelter 1941, Tòa trọng tài được thiết lập để giải quyết
tranh chấp giữa Canada và Mỹ liên quan đến việc một nhà máy luyện kim của Canada
đã gây ô nhiễm vì chất sunlphur dioxide gây thiệt hại cho cây trồng của một số vùng
lãnh thổ Mỹ giáp với biên giới Canada. Để giải quyết tranh chấp này, các bên đã thỏa
thuận không chỉ áp dụng luật quốc tế mà còn áp dụng các quy định của pháp luật Mỹ.
Như vậy, các thiết chế tài phán quốc tế cho phép các quốc gia thỏa thuận luật áp dụng.
Còn các cơ quan tài phán quốc gia không cho phép các chủ thể thỏa thuận luật áp
dụng để giải quyết các tranh chấp.
II.2. Cơ sở hình thành
Cơ quan tài phán quốc tế được hình thành bởi sự thỏa thuận hoặc thừa nhận của
các chủ thể luật quốc tế nhằm thực hiện chức năng giải quyết bằng trình tự thủ tục tư
pháp các tranh chấp nảy sinh trong quá trình các chủ thể thực thi, tuân thủ luật quốc
Dương Thu Phương (DS32C.038)

Page 6



BÀI TẬP HỌC KỲ

MÔN: CÔNG PHÁP QUỐC TẾ

tế. Còn cơ quan tài phán quốc gia do quốc gia đó thành lập, chịu sự giám sát và thống
nhất quản lý của Nhà nước. Ví dụ, Nhà nước Việt Nam đã thành lập ra hệ thống Tòa
án Việt Nam (Tòa án nhân dân tối cao - Tòa án quân sự TW; Tòa án nhân dân cấp
Tỉnh - Tòa án quân sự cấp quân khu; Tòa án nhân dân cấp Huyện - Tóa án quân sự
khu vực), Nhà nước Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã thành lập ra hệ thống xét xử ở Hoa
kỳ (xem sơ đồ hệ thống cơ quan xét xử của hợp chủng quốc hoa kỳ ở trên)…
II.3. Chức năng, thẩm quyền
Chức năng, thẩm quyền của các thiết chế tài phán quốc tế có những nét đặc thù
so với các thiết chế tòa án quốc gia.
-

Trước hết, Tòa án công lí quốc tế của Liên hợp quốc có chức năng giải quyết
tranh chấp phát sinh giữa chủ thể là quốc gia (không phân biệt quốc gia đó có
phải là thành viên của Liên hợp quốc hay không); chức năng đưa ra các kết luận
tư vấn được xác định theo Điều 96 Hiến chương Liên hợp quốc; có thẩm quyền
chỉ định các chánh án của Tòa trọng tài, Ủy ban trọng tài hoặc hòa giải và các
ủy viên khi cần hoặc theo yêu cầu của các Quốc gia;

-

Tòa án Liên minh châu Âu có chức năng giải thích Luật của EU và đảm bảo cho
pháp luật của Liên minh được các thiết chế thuộc EU, các quốc gia thành viên
và công dân của các nước thành viên tuân thủ; có thẩm quyền giải quyết đơn
thư kháng cáo đối với Tòa sơ thẩm cộng đồng châu Âu đồng thời Tòa còn có
thẩm quyền giải quyết các khiếu nại hoặc đơn yêu cầu về những phán quyết do

Tòa đưa ra đối với các bên; có chức năng giải thích luật của cộng đồng theo yêu
cầu của Tòa án các nước thành viên;

-

Tòa án luật biển có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia
thành viên cũng như tất cả các thực thể khác không phải là quốc gia thành viên
của Công ước trong tất cả các trường hợp liên quan đến việc quản lý và khai
thác vùng - di sản chung của toàn thể loài người, ngoài ra Tòa án luật biển còn
có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp
dụng Công ước trong lĩnh vực thực hiện các quyền chủ quyền hay quyền tài

Dương Thu Phương (DS32C.038)

Page 7


BÀI TẬP HỌC KỲ

MÔN: CÔNG PHÁP QUỐC TẾ

phán của quốc gia ven biển, đối với các quyền tự do của các quốc gia khác về
hàng hải, hàng không, đặt dây cáp và ống dẫn ngầm, đối với việc nghiên cứu
khoa học biển, đối với các tài nguyên sinh vật thuộc vùng đặc quyền kinh tế;
-

Tòa trọng tài thường trực Lahaye (PCA) có thẩm quyền giải quyết tất cả các
tranh chấp phát sinh giữa các quốc gia thành viên trừ khi các quốc gia thỏa
thuận lựa chọn một phương pháp giải quyết khác;


-

Tòa trọng tài quốc tế về luật biển có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên
quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước về việc thi hành các quyền chủ
quyền hay quyền tài phán của các quốc gia ven biển; Các tranh chấp liên quan
đến việc giải thích hay áp dụng các quy định của Công ước về nghiên cứu khoa
học biển; Các tranh chấp liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các quy định
của Công ước về đánh bắt hải sản;

-

Thiết chế tài phán của Tổ chức thương mại thế giới có thẩm quyền giải quyết
các tranh chấp phát sinh trong tất cả các lĩnh vực thương mại hàng hóa, thương
mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại; …
Như vậy, cơ quan tài phán quốc tế có chức năng nổi bật nhất là giải quyết các

tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể là quốc gia hoặc các tổ chức quốc tế. Ngoài ra,
một số thiết chế tài phán còn có chức năng giải thích pháp luật (có giá trị pháp lý như
quy phạm pháp luật); tư vấn; giải quyết khiếu nại (Tòa án liên minh châu Âu)…
Khác với cơ quan tài phán quốc tế, cơ quan tài phán quốc gia có những chức
năng sau: Với Tòa án, chức năng quan trọng nhất của nó là xét xử. Đối với trọng tài,
chức năng của nó là giải quyết các tranh chấp phát sinh do luật quốc gia điều chỉnh.
Việc giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài sẽ giảm bớt những thủ tục và
nhanh chóng hơn so với việc giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án. Cơ quan tài
phán quốc gia không có chức năng giải thích luật như ở một số cơ quan tài phán quốc
tế; cơ quan tài phán quốc gia chỉ giải quyết các tranh chấp do chủ thể của luật quốc gia
gây nên…

Dương Thu Phương (DS32C.038)


Page 8


BÀI TẬP HỌC KỲ

MÔN: CÔNG PHÁP QUỐC TẾ

Cơ quan tài phán quốc tế không có thẩm quyền đương nhiên theo quy chế hoạt
động mà trước hết phụ thuộc vào sự thỏa thuận của chủ thể có liên quan đến tranh
chấp xảy ra. Còn thẩm quyền của cơ quan tài phán quốc gia là đương nhiên và theo
luật định.
Ví dụ: Theo pháp luật Việt Nam, khi các bên có tranh chấp về tài sản, các chủ
thể tranh chấp này sẽ khởi kiện ra Tòa và đương nhiên Tòa án nhân dân thụ lý đơn
kiện này phải là Tòa án nơi mà các chủ thể tranh chấp này thường trú hoặc nơi có tài
sản… chứ các chủ thể không được quyền lựa chọn tòa án khác.
II.4. Cơ cấu tổ chức
Thiết chế tài phán quốc tế có cơ cấu tổ chức khác với thiết chế tài phán quốc
gia. Đối với Tòa án quốc tế, cơ cấu tổ chức của nó bao gồm: thẩm phán, bộ phận hành
chính văn phòng và bộ phận khác. Nhưng đối với thiết chế Tòa án quốc gia, cơ cấu tổ
chức của nó có sự khác biệt đối với cơ quan tài phán quốc tế. Thiết chế tài phán quốc
gia có cơ cấu, tổ chức theo luật quốc gia quy định.
Ví dụ: Tòa án công lý của Liên hợp quốc
- Thẩm phán được bầu theo quy chế;
- Đại hội đồng và Hội đồng bảo an có thẩm quyền đề cử và bầu thành viên
của Tòa án;
- Số lượng thành viên là 15 người, với nhiệm kỳ chung là 9 năm, trong đó có
phân thành tỷ lệ 1/3 số thành viên có nhiệm kỳ 3 năm và 6 năm;
- Khi phiên tòa mở ra, các bên có thể lựa chọn tòa án ad hoc nhằm đảm bảo
nguyên tắc công bằng;
- Các phụ thẩm có thể được lựa chọn.

Tòa án nhân dân tối cao của Nước CHXHCN Việt Nam có cơ cấu tổ chức như
sau1:
- Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao;

1

Điều 18 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002

Dương Thu Phương (DS32C.038)

Page 9


BÀI TẬP HỌC KỲ

MÔN: CÔNG PHÁP QUỐC TẾ

- Bao gồm các Tòa chuyên trách: Toà án quân sự trung ương, Toà hình sự,
Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà lao động, Toà hành chính và các Toà phúc
thẩm Toà án nhân dân tối cao; trong trường hợp cần thiết, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội quyết định thành lập các Toà chuyên trách khác theo đề nghị của
Chánh án Toà án nhân dân tối cao;
- Bộ máy giúp việc;
- Thành phần của Toà án nhân dân tối cao có Chánh án, các Phó Chánh án,
Thẩm phán, Thư ký Toà án.
Đối với thiết chế trọng tài, cơ cấu tổ chức của trọng tài quốc gia do Luật quốc
gia quy định. Ví dụ: Việt Nam quy định cơ cấu tổ chức của Trung tâm Trọng tài như
sau2: Trung tâm Trọng tài có Ban điều hành và các Trọng tài viên. Ban điều hành
Trung tâm Trọng tài gồm có Chủ tịch, một hoặc các Phó chủ tịch, có thể có Tổng Thư
ký do Chủ tịch Trung tâm Trọng tài cử. Những người được Trung tâm Trọng tài mời

làm Trọng tài viên phải có đủ điều kiện quy định của pháp luật về trọng tài. Cơ cấu tổ
chức của thiết chế trọng tài quốc tế bao gồm: hội đồng trọng tài và các trọng tài viên.
Đứng đầu hội đồng trọng tài là chủ tịch hội đồng trọng tài (chủ tịch hội đồng trọng tài
phải là công dân nước thứ ba không liên quan đến tranh chấp).
II.5. Thủ tục tố tụng
Các cơ quan tài phán quốc tế sử dụng trình tự thủ tục tư pháp để giải quyết các
tranh chấp nảy sinh trong quá trình các chủ thể thực thi, tuân thủ luật quốc tế. Các
thiết chế cơ quan tài phán quốc gia cũng sử dụng trình tự, thủ tục tư pháp để giải quyết
các tranh chấp do quy phạm pháp luật quốc gia điều chỉnh. Tuy nhiên, Tòa trọng tài
quốc tế cho phép các bên tranh chấp thỏa thuận về việc áp dụng thủ tục tại tòa. Nếu
không thỏa thuận được các bên phải tuân thủ công ước Lahay 1899 và 1907. Còn các
thiết chế tài phán quốc gia, khi giải quyết tranh chấp các chủ thể này phải tuân thủ một
thủ tục theo luật định, không có quyền thỏa thuận để lựa chọn một trình tự thủ tục
khác.
2

Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003

Dương Thu Phương (DS32C.038)

Page 10


BÀI TẬP HỌC KỲ

MÔN: CÔNG PHÁP QUỐC TẾ

II.6. Giá trị pháp lý của phán quyết
Giá trị pháp lý của một phán quyết tại Tòa án quốc tế hoặc tại các thiết chế tài
phán quốc tế khác được chủ thể tranh chấp thừa nhận và bảo đảm thi hành trên cơ sở

các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế mà không thông qua trình tự cưỡng chế do cơ
quan tài phán quốc tế đã giải quyết tranh chấp thực hiện. Vì vậy, hình thức thực hiện
của bản án của cơ quan tài phán quốc tế gần với cơ chế thực thi, tuân thủ luật quốc tế
và không có tính chất của việc thực hiện một bản án được đưa ra bởi một cơ quan tài
phán theo cách thông thường tại cơ quan tài phán trong từng quốc gia.
Giá trị pháp lý của một phán quyết tại cơ quan tài phán quốc gia mang tính bắt
buộc đối với các chủ thể tranh chấp. Tuy nhiên, các chủ thể đó có quyền kháng cáo
khi không đồng ý với phán quyết đó. Tùy theo pháp luật của từng quốc gia mà các
phán quyết sẽ bắt buộc thi hành ở giai đoạn nào. Ví dụ: theo quy định của pháp luật
Việt Nam, đối với tranh chấp về bồi thường thiệt hại, phán quyết của Tòa án nhân dân
được thể hiện bằng bản án có tính chất bắt buộc đối với các chủ thể. Nếu các chủ thể
này không đồng ý với phán quyết đó thì có thể kháng cáo lên tòa án nhân dân cấp trên.
Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, ở cấp sơ thẩm hay phúc thẩm thì phán quyết cuối
cùng cũng mang tính bắt buộc, nếu không thi hành phán quyết đó, nhà nước sẽ có
những biện pháp cưỡng chế buộc thi hành.
II.7. Hệ thống cơ quan tài phán
Hệ thống cơ quan tài phán quốc tế mang tính chất độc lập, có cơ cấu tổ chức
khác biệt và có mối quan hệ bình đẳng, không lệ thuộc vào nhau. Nhưng đối với hệ
thống cơ quan tài phán quốc gia thì các cơ quan có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau.
Điều này thể hiện rõ nhất ở mô hình Tòa án. Tòa án là một nhánh của quyền lực Nhà
nước nên nó mang tính quyền lực rõ rệt. Các thiết chế tòa án quốc gia có sự phân cấp
rõ rệt. Hệ thống Tòa án thể hiện sự phụ thuộc lẫn nhau, cơ quan cấp trên giám sát,
kiểm tra cơ quan cấp dưới (Xem bảng hệ thống Tòa án của Anh và Hoa kỳ đã trình
bày ở trên). Riêng ở Việt Nam, hệ thống cơ quan Tòa án có sự rằng buộc chặt chẽ,
điều đó được thể hiện qua sơ đồ sau:
Dương Thu Phương (DS32C.038)

Page 11



BÀI TẬP HỌC KỲ

MÔN: CÔNG PHÁP QUỐC TẾ

HỆ THỐNG TÒA ÁN NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM
TAQSTW

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
TAND cấp Tỉnh

UBTP

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
UBTP
CÁC TÒA CHUYÊN TRÁCH

UBTP

TAQS khu
vực

VIỆN KHOA HỌC XÉT Xử

VỤ TỔ CHứC CÁN BỘ

TẠP CHÍ TÒA ÁN

VĂN PHÒNG

TÒA PHÚC THẨM 3


TÒA PHÚC THẨM 2

TÒA PHÚC THẨM 1

TÒA LAO ĐỘNG

TÒA DÂN SỰ

TÒA HÌNH SỰ

TÒA KINH TẾ

TÒA HÀNH CHÌNH

TAQS cấp
Quân khu

BỘ MÁY GIÚP VIỆC

CÁC TÒA CHUYÊN TRÁCH

Dương Thu Phương (DS32C.038)

Page 12

PHÒNG TỔ CHứC CÁN BỘ

VĂN PHÒNG


TÒA LAO ĐỘNG

TÒA DÂN SỰ

TÒA HÌNH SỰ

TÒA KINH TẾ

TÒA HÀNH CHÌNH

TAND cấp Huyện


BÀI TẬP HỌC KỲ

MÔN: CÔNG PHÁP QUỐC TẾ

PHẦN KẾT LUẬN
Hai hệ thống cơ quan tài phán quốc tế và cơ quan tài phán quốc gia đều có
những đặc trưng nhất định. Trong phạm vi yêu cầu của đề, chúng ta cần làm nổi bật
những điểm đặc thù của hệ thống cơ quan tài phán quốc tế so với hệ thống cơ quan tài
phán quốc gia. Vai trò của các thiết chế tài phán quốc tế ngày càng trở nên quan trọng
để giải quyết các tranh chấp quốc tế của giữa các chủ thể của luật quốc tế, để giải
thích pháp luật… Có thể nhận thấy sự quan trọng đó qua sự hoạt động và phát triển
của một số tòa. Tòa án công lý quốc tế, trong hơn 60 năm tồn tại của mình, tuy số
lượng được đưa ra giải quyết tại Tòa án công lý quốc tế không lớn nhưng đối với kết
quả giải quyết của Tòa, ngoài việc xem xét các tranh chấp quốc tế phát sinh, Tòa đã
đóng góp nhiều ý kiến tư vấn về pháp lý cho Liên hợp quốc cũng như góp phần phát
triển Luật quốc tế và khoa học pháp lý quốc tế. Điều này lí giải tại sao, dù con đường
tài phán thông qua Tòa án công lý quốc tế của Liên hợp quốc không phải là phương

pháp được sử dụng thường xuyên trong quan hệ giải quyết tranh chấp giữa các chủ thể
luật quốc tế nhưng Tòa này vẫn tồn tại và phát huy vai trò của mình trong quan hệ
quốc tế hiện đại.
Qua những phân tích và rút ra những nét đặc thù của hệ thống cơ quan tài phán
quốc tế so với hệ thống cơ quan tài phán quốc gia nêu trên, chúng ta có thể đưa ra
những lời giải thích vì sao các thiết chế tài phán quốc tế lại có những điểm đặc thù
như vậy. Quốc tế - đó là một khối cộng đồng liên kết giữa các quốc gia, các vùng lãnh
thổ để cùng nhau hợp tác và phát triển. Nếu như trong cộng đồng đó nảy sinh các
tranh chấp thì đầu tiên là phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên. Vì vậy, trong thiết
chế tài phán quốc tế, sự thỏa thuận là yêu tố quan trọng. Các bên có thể thỏa thuận lựa
chọn tòa án, lựa chọn tòa trọng tài… để giải quyết các tranh chấp.
Trong quá trình làm bài với kiến thức còn nhiều hạn chế nên bài viết này của
em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy, cô
để bài làm của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
Dương Thu Phương (DS32C.038)

Page 13



×