Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Quan điểm của triết học má lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất với ý thức và việc phát huy tính năng động chủ quan của ý thức trong quá trình phát triển của bản thân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.89 KB, 22 trang )

MỤC LỤC

1


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Những thành tựu trong công cuộc đổi mới trong thời gian qua đã và
đang tạo ra một thế lực mới để nước ta bước vào một thời kì phát triển mới.
Nhiều tiền đề cần thiết về cuộc cơng nghiệp hố và hiện đại hoá đã được tạo
ra, quan hệ giữa nước ta và các nước trên thế giới ngày càng được mở rộng.
Khả năng giữ vững độc lập trong hội nhập với cộng đồng thế giới được tăng
thêm. Cách mạng khoa học và cơng nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày
càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch kinh tế và đời sống xã hội.
Các nước đều có cơ hội phát triển. Tuy nhiên,do ưu thế công nghệ và
thị trường thuộc về các nước phát triển khiến cho các nuớc chậm phát triển
đứng trước một thách thức to lớn. Nguy cơ tụt hậu ngày càng cao, mà điểm
xuất phát của nước ta quá thấp, lại phải đi lên từ mơi trường cạnh tranh quyết
liệt.
Trước tình hình đó, cũng với xu thế phát triển của thời đại, Đảng và
nhà nước cần tiếp tục tiến hành đẩy mạnh công cuộc đổi mới tồn diện đất
nước,trong đó đổi mới kinh tế đóng vai trò then chốt, giữ vai trò chủ đạo.
Đồng thời đổi mới kinh tế là một vấn đề cấp bách, bởi giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị có mối quan hệ giữa vật chất và ý thức sẽ cho phép chúng ta
vận dụng vào mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giúp cho cơng cuộc đổi
mới của đất nước ngày càng giàu mạnh.
Với ý nghĩa đó, sau một thời gian tìm hiểu em đã chọn đề tài "Với ý
nghĩa đó, sau một thời gian tìm hiểu em đã chọn đề tài " Quan điểm của triết
học Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất với ý thức và
việc phát huy tính năng động chủ quan của ý thức trong quá trình phát
triển của bản thân." Để có cái nhìn sâu và rộng hơn.



2


2. Mục tiêu nghiên cứu
Bài tiểu luận được viết với mục đích làm rõ mặt lý luận, khái niệm vật
chất, ý thức và mối quan hệ mật thiết giữa vật chất và ý thức. Từ đó vận dụng
nhằm đưa ra giải pháp nâng cao tính năng động chủ quan trong quá trình học
tập và phát triển của bản thân.
3. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận, tiểu luận sử dụng những phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng
trong đề tài này bao gồm phương pháp thống kê, phương pháp so sánh,
phương pháp phân tích tổng hợp và đối chiếu.

3


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA
VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1.1. Vật chất
1.1.1. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước C.Mác
về vật chất
* Vào thời kỳ cổ đại, ở Hy Lạp nói riêng, ở phương Tây nói chung các nhà
triết học duy vật đã đồng nhất vật chất nói chung với các dạng cụ thể nào đó của
nó.
- Vào thời kỳ cổ đại ở phương đơng quan niệm vật chất thể hiện qua
một số trường phái triết học Ân Độ và Trung hoa về thế giới. Ấn Độ có
Trường phái LOKAYATA cho rằng tất cả được tạo ra bởi sự kết hợp trong 4

yếu tố Đất- Nước - Lửa - Khí. Những yếu tố này có khả năng tự tồn tạI, tự
vận động trong không gian và cấu thành vạn vật. Tính đa dạng của vạn vật
chính là do sự kết hợp khác nhâu của 4 yếu tố bản nguyên đó. Phái Nyaya và
Vaisesia coi nguyên tử là thực thể của Thế giới.
Trung Hoa có Thuyết Âm Dương cho rằng nguyên lý vận hành đầu tiên
và phổ biến của vạn vật là tương tác của những thế lực đối lập nhau đó là âm
và dương. Trong đó âm là phạm trù rất rộng phản ánh khái quát, phổ biến của
vạn vật như là nhu, tối, ẩm, phía dưới, bên phải, số chẵn. Dương cũng là
phạm trù rất rộng đối lập với âm. Phản ánh những thuộc tính như cương,
sáng, khơ, phía trên, số lẻ, bên trái. Hai thế lực này thống nhất với nhau, chế
ước lẫn nhau tạo thành vũ trụ và vạn vật.
Thuyết Ngũ hành của Trung quốc có xu hướng phân tích về cấu trúc
của vạn vật để quy nó về yếu tố khởi nguyên với tính chất khác nhau. Theo
thuyết này có 5 nhân tố khởi nguyên là Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ.
Năm yếu tố này khơng tịn tại đọc lập, tuyệt đối mà tác động lẫn nhau
theo nguyên tắc tương sinh, tương khắc với nhau tạo ra vạn vật. Những tư
4


tưởng về âm, dương, ngũ, hành, tuy có nhưng hạn chế nhất định nhưng đó là
triết lý đặc sắc mang tính duy vật và biện chứng nhằm lý giải về vật chất và
cấu tạo của vũ trụ
- Ở phương tây, các nhà Triết học quy Thế giới vào 1 chỉnh thể thống
nhất từ đó đi tìm bản ngun vật chất đầu tiên cấu tạo nên Thế giới đó, chẳng
hạn người ta cho rằng vật chất là nước, khơng khí, lửa......Một số quan điểm
điển hình thời kỳ này là: Taket coi vật chất là nước, Anaximen coi vật chất là
khơng khí, Hêraclit coi vật chất là lửa, Anximangdo coi vật chất là hạt praton,
đây là một thực thể không xác định về chất. Đặc biệt đỉnh cao của quan niệm
về vật chất của thời kỳ Hy Lạp cổ đại là thuyết nguyên tử của Lơxip và
Đêmocrip. Theo thuyết này thì thực thể tạo nên thế giới là nguyên tử và nó là

phần tử nhỏ bé nhất và không thể phân chia được, khơg thể xâm nhập và quan
sát được, chỉ có thể nhận biết được bằng tư duy. Các nguyên tử khơng khác
nhau về chất mà chỉ khác nhau về hình dạng. Sự kết hợp các nguyên tử khác
nhau theo một trật tự khác nhau sẽ tạo nên vật thể khác nhau. Thuyết nguyên
tử tồn tại đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 mới bị khoa học đánh đổ và có hạn
chế lịch sử nhất định. Tuy nhiên nó có ý nghĩa to lớn đối với sự định hướng
cho sự phát triển khoa học nói chung đặc biệt là lĩnh vực vật lý sau này.
* Vào Thời kỳ cận đại:
Vào thế kỷ 17, thế kỷ 18 nền khoa học tự nhiên, thực nghiệm ở châu âu
có sự phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt là trên lĩnh vực vật lý học với phát minh
của Niu Ton, phương pháp nghiên cứu ở trong vật lý đã xâm nhập ảnh hưởng
rất lớn vào trong triết học. Chủ nghĩa duy vật nói chung và phạm trù vật chất
nói riêng đã có những bước phát triển mới chứa đựng nhiều yếu tố biện
chứng.
- Côbecnich chứng minh mặt trời là trung tâm đã làm đảo lộn truyền
thuyết của kinh thánh và quan điểm của thần học về thế giới.

5


- Quan điểm của Fanxitbaycơn: coi thế giới vật chất tồn tại kquan, vật
chất là tổng hợp các hạt. Ông coi tự hiên là tổng hợp của những vật chất có
chất lượng ln màu, mn vẻ.
- Qn điểm của Gatxăngdi: Phát triển học thuyết nguyên tử của thời
cổ đại cho rằng Thế giới gồm những ngun tử có tính tuyệt đối như tính kien
cố và tính ko thể thơng qua.
Thế kỷ 18 các nhà Triết học Pháp đã phát triển phạm trù vật chất lên
một tầm cao mới. Đitơro cho rằng vũ trụ trong con người, trong mọi sự vật
chỉ có 1 thực thể duy nhất là vật chấtSự sâm nhập ấy đã chi phối sự hiểu biết,
nhận thức về vật chất, mọi hiện tượng tự nhiên đã được giải thích là được tác

động qua lại giữa lực hút và lực đẩy, giữa các phần tử của vật chất, các phần
tử ấy là bất biến. Sử thây đổi của nó chỉ là mặt vị trí, hình thể trong khơng
gian. Mọi sự phân biệt về chất bị xem nhẹ và đều được quy giải chỉ sự khác
nhau về lượng. Vì vậy, các nhà triết học duy vật thời kỳ này đã đồng nhất vật
chất với khối lượng và coi vận động của vật chất chỉ là vận động cơ học và
nguyên nhân của sự vận động đó là do tác động từ bên ngoài.
Vào thế kỷ 19, trong nền triết học Đức cổ điển là Phoi ơ Bách, ông
chứng minh và khẳng định rằng thế giới này là vật chất và vật chất theo ơng là
tồn bộ thế giới tự nhiên. Nó khơng do ai sáng tạo ra mà nó tồn tại độc lập với
ý thức và không phụ thuộc vào bất cứ ý niệm, ý thức nào. Sự tồn tại của giới
tự nhiên năm ngay trong lòng của giới tự nhiên. tuy nhiên Phoi ơ Bách lại
không thấy đuợc mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, mối quan hệ giữa con
người với xã hội, con người với giới tự nhiên. Ơng đã khơng xác định đuợc
vật chất trong lĩnh vực xã hội, cung như hoạt động vật chất của con người là
gì. Mặc dù vậy những quan niệm của ơng về vật chất đã có ý nghĩa lịch sử lớn
lao trong cuộc đấu tranh CNDT và tôn giáo, trong việc khôi phục những tư
tưởng duy vật thành hệ thống. Và vì vậy, triết học duy vật của ơng đã trở

6


thành một trong nhưng tiền đề, nguồn gốc lý luận của Triết học duy vật Mác
xít sau này.
Tóm lại: Các nhà triết học duy vật trước Mác trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa duy tâm đã hết sức quan tâm giải quyết vấn đề cốt lõi là vật
chất. Họ đưa ra những kiến giải khác nhau về vật chất và qua đó đã có những
đóng góp hết sức quan trọng đối với lịch sử phát triển của triết học duy vật.
Tuy nhiên tất cả họ đều mắc phải hạn chế lớn nhất là đã đồng nhất vật chất
với vật thể hoặc một thuộc tính nào đó của vật thể, họ không thấy được sự tồn
tại của vật chất gắn liền với vận động và họ không chỉ ra được biểu hiện của

vật chất trong đời sống xã hội và chỉ đến khi triết học Mác xít xuất hiện thì
phạm trù vật chất mới được giải quyết một cách khoa học./.
1.1.2. Quan niệm của triết học Mác-Lênin về vật chất
* Định nghĩa vật chất của Lê-nin:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép
lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
* Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất:
- Phương thức của VC:
+ Vận động là phương thức tồn tại của VC, là một thuộc tính cố hữu
của VC
+ Vật chất vận động do cấu trúc, nhu cầu của sự vật hiện tượng
+ Vận động là sự biến đổi nói chung
+ Đối lập với trạng thái vận động là đứng im. Đứng im là hình thức vận
động đặc biệt, đứng im là tương đối, vận động là tuyệt đối
+ Các hình thức của vận động:
VĐ cơ học: sự di chuyển vị trí của sự vật trong không gian
7


VĐ vật lý: sự vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, của
các quá trình nhiệt, điện,…
VĐ hóa học: sự phân giải và hóa hợp của các chất
VĐ sinh vật: sự biến đổi gen, trao đổi chất giữa cơ thể sinh vật với môi
trường
VĐ xã hội: sự biến đổi trong các lĩnh vực của xã hội, sự thay thế nhau
các hình thái kinh tế - xã hội
Mỗi hình thức vận động cơ bản trên khác nhau về chất, nhưng giữa
chúng lại có mối quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó hình thức vận động cao
xuất hiện trên cơ sở của hình thức vận động thấp hơn và bao hàm trong nó

những hình thức vận động thấp hơn và các hình thức vận động có thể chuyển
hóa cho nhau.
1.1.3. Các hình thức tồn tại của vật chất
Khơng gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất:
Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một
quảng tính nhất định và tồn tại trong những mối tương quan nhất định với
những dạng vật chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là
không gian. mặt khác, sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến
đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa,…Những hình thức tồn tại như
vậy được gọi là thời gian.
Ăngghen viết: “Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và
thời gian; tồn tại ngồi thời gian thì cũng hết sức vơ lý như tồn tại ngồi
khơng gian”. Như vậy, vật chất, khơng gian, thời gian khơng tách rời nhau;
khơng có vật chất tồn tại ngồi khơng gian và thời gian; cũng khơng có khơng
gian, thời gian tồn tại ngồi vật chất vận động.

8


Là những hình thức tồn tại của vật chất, khơng tách khỏi vật chất nên
khơng gian, thời gian có những tính chất chung như những tính chất của vật
chất, đó là tính khách quan, tính vĩnh cửu, tính vơ tận và vơ hạn.
Ngồi ra, khơng gian có thuộc tính ba chiều cịn thời gian chỉ có một
chiều. tính ba chiều của không gian và một chiều của thời gian biểu hiện hình
thức tồn tại về quảng tính và q trình diễn biến của vật chất vận động.
1.1.4 Tính thống nhất vật chất của thế giới
Thế giới vật chất thể hiện hết sức phong phú đa dạng, song những dạng
biểu hiện của thế giới vật chất đều phản ánh bản chất của thế giới và thống
nhất với nhau.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật

chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Theo quan điểm đó:
Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất là cái
có trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người.
Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không sinh ra, không
mất đi.
Mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với
nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những
kết cấu vật chất, có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi
phối của những quy luật khách quan, phổ biến của thế giới vật chất. Trong thế
giới vật chất khơng có gì khác ngồi những q trình vật chất đang biến đổi
và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
Bản chất vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới là kết luận
được rút ra từ việc khái quát những thành tựu của khoa học, được khoa học và
cuộc sống hiện thực của con người kiểm nghiệm. Nó khơng chỉ định hướng
cho con người giải thích về tính đa dạng của thế giới mà cịn định hướng cho
9


con người tiếp tục nhận thức về tính đa dạng ấy để thực hiện quá trình cải tạo
hợp quy luật.
1.2. Ý thức
1.2.1. Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc của ý thức dựa vào quan điểm từ chủ nghĩa duy vật biện
chứng gồm:
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức được tạo bởi các yếu tố tự nhiên từ ý
thức chính là bộ óc và sự hoạt động cùng các mối quan hệ thế giới khách quan
và con người. Trong đó thì thế giới khách quan có sự tác động tới bộ óc của
con người tạo ra khả năng về sự hình thành ý thức từ con người đối với thế
giới khách quan. Tóm lại, ý thức là sự phản ánh về thế giới khách quan từ con

người.
Phản ánh là sự tái tạo về đặc điểm dạng vật chất này bởi dạng vật chất
khác khi tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh là 1 thuộc tính từ tất
cả các dạng vật chất nhưng phản ánh dưới nhiều hình thức như phản ánh sinh
học, phản ánh tâm lý, phản ánh vật lý hóa học, phản ánh năng động sáng tạo.
Trong đó, hình thức này sẽ tương ứng q trình tiến hóa vật chất tự nhiên.
Phản ánh về hóa học vật lý là một hình thức thấp nhất và đặc trưng cho
vật chất vô sinh. Phản ánh đó được thể hiện qua biến đổi về lý, hóa, cơ khi có
sự tác động lẫn nhau bởi các dạng vật chất vơ sinh. Hình thức được phản ánh
chưa định hướng lựa chọn mà chỉ mang tính thụ động của vật nhận tác động.
Phản ánh tâm lý: là sự phản ánh cho động vật đặc trưng đã được phát
triển đến trình độ mà có hệ thần kinh trung ương, phản ánh này thể hiện dưới
cơ chế phản xạ có điều kiện lên những tác động mơi trường sống.
Phản ánh ý thức là hình thức để phản ánh năng động và sáng tạo bởi
con người
10


Phản ánh sinh học: là hình thức được phản ánh cao hơn và đặc trưng
giới tự nhiên hữu sinh. Qúa trình phát triển giới tự nhiên hữu sinh, được thể
hiện qua tính kích thích, phản xạ và tính cảm ứng.
Nguồn gốc xã hội của ý thức
Lao động và ngôn ngữ chính là nhân tố cơ bản nhất, trực tiếp tạo thành
nguồn gốc xã hội của ý thức.
+ Lao động là một q trình con người sử dụng về cơng cụ tác động với
giới tự nhiên để thay đổi giới tự nhiên phù hợp nhu cầu con người. Trong quá
trình lao động thì con người có sự tác động tới thế giới khách quan để bộc lộ
những kết cấu, thuộc tính, quy luật vận động, theo đó biểu hiện ra những hiện
tượng nhất định để con người quan sát được.
Những hiện tượng mà con người quan sát được đó, được thể hiện thơng

qua hoạt động của các giác quan, có sự tác động vào bộ óc con người. Và
thơng qua bằng bộ não con người sẽ tạo ra khả năng để hình thành những tri
thức và ý thức.
Tóm lại, ý thức được ra đời chủ yếu bởi hoạt động cải tạo thế giới
khách quan quan q trình lao động.
+ Ngơn ngữ chính là cái vỏ của vật chất từ ý thức, hình thức vật chất
nhân tạo có vai trị trong thể hiện, lưu trữ nội dung ý thức.
Sự ra đời ngôn ngữ được gắn liền với lao động, theo đó lao động đã
mang tính tập thể ngay từ đầu. Mối quan hệ các thành viên địi hỏi có sự giao
tiếp, ý chí, trao đổi tri thức,… giữa các thành viên của cộng đồng con người.
Khi đòi hỏi các nhu cầu trên thì ngơn ngữ được khởi nguồn và phát
triển tồn tại trong lao động sản xuất, sinh hoạt xã hội. Nhờ ngơn ngữ từ đó
con người được giao tiếp và trao đổi, đồng thời truyền đạt nội dung, lưu trữ
nội dung ý thức của thế hệ này sang thế hệ khác.
11


1.2.2. Bản chất của ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng về bản chất, ý thức là sự phản
ánh khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Thể hiện rằng nội
dung của ý thức do thế giới khách quan quy định. Ý thức là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan vì nó nằm trong bộ não con người. Ý thức là cái
phản ánh thế giới khách quan nhưng nó là cái thuộc phạm vi chủ quan, là thực
tại chủ quan. Ý thức khơng có tính vật chất, nó chỉ là hình ảnh tinh thần, gắn
liền với hoạt động khái quát hóa, trừu tượng hóa, có định hướng, có lựa chọn.
ý thức là sự phản ánh thế giới bởi bộ não con người
Ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới: Ý thức là sự phản ánh hiện
thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan. Tuy nhiên, không phải cứ thế giới khách quan tác động vào bộ óc

người là tự nhiên trở thành ý thức. Ngược lại, ý thức là sự phản ánh năng
động, sáng tạo về thế giới, do nhu cầu của việc con người cải biến giới tự
nhiên quyết định và được thực hiện thông qua hoạt động lao động.
Sự phản ánh sáng tạo của ý thức biểu hiện ở sự cải biến cái vật chất di
chuyển vào trong bộ não con người thành cái tinh thần, thành những hình ảnh
tinh thần. Sáng tạo của ý thức là sáng tạo của phản ánh, dựa trên cơ sở của
phản ánh, trong khn khổ và theo tính chất, quy luật của phản ánh.
Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở
những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng
tượng ra những cái khơng có trong thực tế. Ý thức có thể tiên đốn, dự báo về
tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại, những giả thuyết, lý
thuyết khoa học hết sức trừu tượng và có tính khái qt cao.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người,
song đây là sự phản ánh đặc biệt – phản ánh trong quá trình con người cải tạo
12


thế giới. Quá trình ý thức là quá trình thống nhất của 3 mặt là: trao đổi thông
tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Tiếp đến là mô hình hóa đối tượng
trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần và cuối cùng là chuyển mơ hình từ
tư duy ra hiện thực khách quan.
Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức. Ý thức –
trong bất kỳ trường hợp nào cũng là sự phản ánh và chính thực tiễn xã hội của
con người tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng động, sáng tạo của bộ óc.
Ý thức là sản phẩm lịch sử của sự phát triển xã hội nên về bản chất là
có tính xã hội: Ý thức khơng phải là một hiện tượng tự nhiên thuần túy mà là
một hiện tượng xã hội. ý thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử-xã hội, phản ánh
những quan hệ xã hội khách quan.
1.2.3. Kết cấu của ý thức
Ý thức có kết cấu rất phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ mật

thiết với nhau; trong đó cơ bản nhất là tri thức, tình cảm và ý chí.
Tri thức là tồn bộ những hiểu biết của con ngưừi, là kết quả của quá
trình nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới
dạng các loại ngoại ngữ.
Tri thức là phương thức tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát
triển.
Căn cứ vào lĩnh vực phản ánh, tri thức có thể chia thành nhiều loại như:
tri thức về tự nhiên, tri thức về con người và xã hội. Căn cứ vào trình độ phát
triển của nhận thức, tri thức có thể chia thành: tri thức đời thường và tri thức
khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức
lý tính, V.V..
Tình cảm là những: rung động biểu hiện thái độ của con người trong
các quan hệ. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực,
được hình thành từ sự khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi
13


nhận sự tác động của ngoại cảnh. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi
lĩnh vực đời sống con người; là một yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực
thúc đẩy hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Tùy vào đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối
tượng đó mà tình cảm được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, như:
tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tơn giáo, V.V..
Ý chí là sự biểu hiện sức mạnh của bản thân mỗi con người nhằm vượt
qua những cản trở trong quá trình thực hiện mục đích. Ý chí được coi là mặt
năng động của ý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con
người tự ý thức được mục đích của hành động nên tự đấu tranh với mình và
ngoại cảnh để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn. Có thể coi ý chí là
quyền lực của con người đối với mình; nó điều khiến, điều chỉnh hành vi để
con người hướng đến mục đích một cách tự giác; nó cho phép con người tự

kiềm chế, tự làm chủ bản thân và quyết đoán trong hành động theo quan điểm
và niềm tin của mình. Giá trị chân chính của ý chí khơng chỉ thể hiện ở cường
độ của nó mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hiện ở nội dung, ý nghĩa của mục
đích mà ý chí hướng đến. V.I.Lênin cho rằng: ý chí là một trong những yếu tố
tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người trong cuộc đấu tranh giai
cấp quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau,
song tri thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức,
đồng thời là nhân tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ
biểu hiện của các yếu tố khác.
1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
1.3.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Trước khi phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì phải hiểu rõ
hai phạm trù vật chất và ý thức.
14


Vật chất theo định nghĩa của Lênin là một phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại khơng lệ thuộc vào
cảm giác.
Cịn ý thức của con người là sản phẩm của quá trình phát triển của cả tự
nhiên và lịch sử xã hội loài người. ý thức có cả nguồn gốc tự nhiên và nguồn
gốc xã hội.
Nói ý thức có nguồn gốc tự nhiên là vì phản ánh là thuộc tính chung của
mọi dạng vật chất. Tuy nhiên, do nội dung và hình thức phản ánh phụ thuộc
vào trình độ tổ chức của vật phản ánh và vật được phản ánh nên, cùng với sự
phát triển của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của vật phản ánh và vật
được phản ánh nên, cùng với sự phát triển của thế giới vật chất, thuộc tính
phản ánh cũng phát triển từ thấp đến cao. Trong các dạng phản ánh thì ý thức

của con người là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất và tổ chức
sống có dạng vật chất cao nhất của bộ não người. Nói tóm lại, não người và
sự phản ánh thế giới khách quan vào não người chính là nguồn gốc tự nhiên
của ý thức.
Nói rằng ý thức có nguồn gốc xã hội là vì lao động và ngôn ngữ là hai
nguồn gốc xã hội quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của ý
thức. Lao động đóng vai trị quyết định trong việc chuyển biến vượn thành
người, làm cho con người khác với tất cả các động vật khác, đồng thời là cơ
sở hình thành và phát triển ngôn ngữ. Sự ra đời của ngơn ngữ, tiếp đó, giúp
con người phản ánh sự vật khái quát hơn, đồng thời thúc đẩy tư duy trừu
tượng phát triển.
* Vật chất có vai trị quyết định đối với ý thức:
+ Theo triết học duy vật biện chứng, vật chất có trước, ý thức có sau.
Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức.
15


+ Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não và tổ
chức kết cấu của bộ não người. Điều này giải thớch tại sao con người cú chỉ
số thụng minh khỏc nhau. Người này nhận thức nhanh hơn người kia hay
ngược lại.
+ Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào bộ nóo của con người, là
hỡnh ảnh của thế giới khỏch quan. Vỡ thế, thế giới khỏch quan là nguồn gốc
của ý thức, quyết định nội dung ý thức.
1.3.2. Sự tác động trở lại của ý thức với vật chất
Mặc dù vật chất sinh ra ý thức nhưng ý thức không thụ động mà sẽ tác
động trở lại cật chất thông qua các hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức
sau khi sinh ra sẽ khơng bị vật chất gị bó mà có thể tác động làm thay đổi vật
chất.
Vai trị của ý thức đối với vật chất thể hiện ở vai trò của con người đối

với khách quan. Qua hoạt động của con người, ý thức có thể thay đổi, cải tạo
hiện thực khách quan theo nhu cầu phát triển của con người. Và mức độ tác
động phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhu cầu, ý chí, điều kiện, mơi trường…
và nếu được tổ chức tốt thì ý thức có khả năng tác động lớn đến vật chất.
Ý thức khơng thể thốt ly hiện thực khách quan, sức mạnh của ý thức
được chứng tỏ qua việc nhận thức hiện thực khách quan và từ đó xây dựng kế
hoạch, xác định mục tiêu ý chí để hoạt động của con người có thể tác động trở
lại vật chất. Việc tác động tích cực lên vật chất thì xã hội sẽ ngày càng phát
triển và ngược lại, nếu nhận tức không dùng, ý thức sẽ kìm hãm lịch sử.
1.3.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Vật chất là nguồn gốc khách quan của ý thức: ý thức chỉ là sự phản ánh
thế giới khách quan vào trong bộ não người. Vì vậy, trong hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn luôn luôn phải xuất phát từ thực tế khách quan,

16


tôn trọng quy luật khách quan và hành động theo quy luật khách quan. Nghĩa
là phải có quan điểm khách quan trong hành động.
Do ý thức có tính độc lập tương đối, có thể tác động trở lại vật chất
thơng qua ý thức của con người nên phải thấy được vai trị tích cực của ý thức
trong việc sử dụng cú hiệu quả cỏc điều kiện vật chất khách quan.
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, cần phải chống chủ nghĩa........
Tức là sự thụ động, ỷ lại vào điều kiện vật chất, không biết phát huy vai trị
tích cực của ý thức, tinh thần.
Cần phải chống bệnh chủ quan duy ý chí. Tức là tuyệt đối hố vai trị
của ý thức, tinh thần, ý chớ; khơng đánh giá đúng vai trò của các điều kiện vật
chất khách quan.
CHƯƠNG II: PHÁT HUY TÍNH NĂNG ĐỘNG CHỦ QUAN CỦA
Ý THỨC TRONG Q TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA BẢN THÂN.

2.1. Tính năng động chủ quan.
Trên cơ sở quan điểm về bản chất vật chất của thế giới, bản chất năng
động, sáng tạo của ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức,
chủ nghĩa duy vật biện chứng xây dựng nên nguyên tắc phương pháp luận cơ
bản, chung nhất đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người.
Nguyên tắc đó là: Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải xuất phát từ
thực tế khách quan, tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính năng động
chủ quan. Theo nguyên tắc phương pháp luận này, mọi hoạt động nhận thức
và thực tiễn của con người chỉ có thể đúng đắn, thành cơng và có hiệu quả tối
ưu khi và chỉ khi thực hiện đồng thời việc xuất phát từ thực tế khách quan, tôn
trọng khách quan với phát huy tính năng động chủ quan.
Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát từ
tính khách quan của vật chất, có thái độ tôn trọng đối với hiện thực khách
quan, mà căn bản là tôn trọng quy luật, nhận thức và hành động theo quy luật;
17


tơn trọng vai trị quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần
của con người, của xã hội. Điều đó địi hỏi trong nhận thức và hành động, con
người phải xuất phát từ thực tế khách quan để xác định mục đích, đề ra đường
lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch, biện pháp; phải lấy thực tế khách quan
làm cơ sở, phương tiện; phải tìm ra những nhân tố vật chất, tổ chức những
nhân tố ấy thành lực lượng vật chất để hành động.
Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trị tích cực, năng
động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trị nhân tố con người trong việc vật
chất hóa tính tích cực, năng động, sáng tạo ấy. Điều này địi hỏi con người
phải tơn trọng tri thức khoa học; tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri
thức khoa học và truyền bá vào quần chúng đề nó trở thành tri thức, niềm tin
của quần chúng, hướng dẫn quần chúng hành động. Mặt khác, phải tự giác tu
dưỡng, rèn luyện để hình thành, củng cố nhân sinh quan cách mạng, tình cảm,

nghị lực cách mạng để có sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính
nhân văn trong định hướng hành động.
Thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động
chủ quan trong nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải phòng, chống và khắc
phục bệnh chủ quan duy ý chí; là những hành động lấy ý chí áp đặt cho thực
tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực, lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, lấy
tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược, sách lược, V.V.. Mặt khác, cũng
cần chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường
lý luận, bảo thủ, trì trệ, thụ động, v.v. trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
2.2. Vận dụng tính năng động chủ quan trong q trình phát triển sinh
viên
Ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn
nên con người cần phải phát huy tính năng động chủ quan của mình.

18


Phát huy tính năng động chủ quan tức là phát huy vai trị tích cực, năng
động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trị tích cực của nhân tố con người
trong việc vật chất hóa tính tích cực năng động sáng tạo ấy. Bản thân ý thức
tự nó khơng trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Ý thức muốn tác động
trở lại đời sống hiện thực phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa là phải được con
người thực hiện trong thực tiễn. Điều ấy có nghĩa là sự tác động của ý thức
đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con người được bắt đầu từ khâu
nhận thức.
2.2.1. Phát triển lý tưởng cộng sản cho sinh viên
Lý tưởng giữ vai trò quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách
sinh viên, vì lý tưởng là mục đích cao nhất, đẹp nhất, tạo ra nghị lực giúp con
người vượt qua mọi thách thức đạt đến mục tiêu đề ra. Mục tiêu cao nhất mà
lý tưởng cộng sản hướng tới là xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp: Xã hội xã

hội chủ nghĩa và sau này là xã hội cộng sản chủ nghĩa. ở đó, con người được
tự do, bình đẳng và hạnh phúc. Sinh viên khi tiếp nhận những tri thức khoa
học Mác - Lênin sẽ tìm kiếm được sức mạnh từ chính bản thân tri thức ấy để
tự mình vươn lên, bồi dưỡng lý tưởng cộng sản, tin tưởng vào con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội. Có niềm tin, có hồi bão, sinh viên tất có ý chí thực hiện
lý tưởng.
2.2.2. Phát triển thế giới quan khoa học trong nhân cách sinh viên Việt Nam
Thế giới quan khoa học khơng hình thành một cách tự động, tức cứ
trang bị tri thức là có thế giới quan; trái lại, đó cịn phải là quá trình chuyển tri
thức thành niềm tin khoa học trong mỗi sinh viên. Cơ sở để hình thành và
phát triển thế giới quan là những nhận thức về tự nhiên và xã hội, là kết quả
của quá trình giáo dục và những kinh nghiệm được tích lũy trong thực tiễn
của sinh viên. Đó chính là q trình hình thành và phát triển các quan điểm,
quan niệm, niềm tin về vai trò và khả năng của con người trong quá trình

19


nhận thức và cải tạo thế giới. Nói cách khác, tri thức, niềm tin, lý tưởng và
tình cảm là những yếu tố cơ bản nhất cấu thành nên thế giới quan.
Bởi lẽ, triết học Mác - Lênin nghiên cứu những quy luật chung nhất của
tự nhiên, xã hội và tư duy, nó cung cấp cho con người một cách nhìn khoa học
đối với hiện thực khách quan và khẳng định vai trị, vị trí của con người trong
hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới. Từ đó, giúp họ có thái độ đúng đắn,
khoa học đối với hiện thực, có phương hướng chính trị vững vàng, có khả
năng nhận biết, phân tích và giải quyết các vấn đề mới nảy sinh trong thực
tiễn xã hội trên tinh thần thế giới quan Mác - Lênin.
2.2.3. Xây dựng nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho sinh viên
Xây dựng trong họ những quan niệm đúng đắn về cuộc đời, về ý nghĩa
và mục đích của cuộc sống. Cụ thể là, triết học Mác - Lênin giúp sinh viên

hiểu được mục đích cao nhất của con người là xây dựng một xã hội cơng
bằng, dân chủ, văn minh; trong đó, mọi ng¬ười đều có một cuộc sống đầy đủ
về vật chất và tinh thần. Đó là một xã hội mà "sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi ng¬ười".
Giáo dục triết học Mác - Lênin sẽ góp phần từng bước xây dựng và bồi
dưỡng nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho sinh viên thông qua việc trang
bị cho họ những kiến thức cơ bản về lý luận cách mạng xã hội, về bản chất và
chức năng của nhà nước, về con người và các quan hệ xã hội của con người,
về giai cấp, dân tộc, về xu hướng phát triển tất yếu của xã hội...

20



×