HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI :
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: …………………………………………….
NGƯỜI THƯC HIỆN:
LỚP:
HÀ NỘI,THÁNG 4 NĂM 2021
1
MỤC LỤC
2
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Triết học có vai trị rất to lớn đối với sự phát triển của khoa học cụ thể.
Và ngược lại, với mỗi gian đoạn phát triển của khoa học, nhất là khoa học tự
nhiên thì triết học cũng có một bước phát triển. Như Ph.Ăngghen đã từng
nhận định: “Mỗi khi có những phát minh của khoa học tự nhiên thì chủ nghĩa
duy vật cũng thay đổi hình thức”. Do đó, việc nghiên cứu các tư tưởng Triết
học không thể tách rời các giai đoạn phát triển của khoa học, nhất là khoa học
tự nhiên.
Sau hơn 30 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, với đường lối đổi mới
đúng đắn, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc
và sức mạnh thời đại, Đảng và nhân dân ta đã giành được những thành tựu to
lớn và rất quan trọng: Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, bước
vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; nước ta ngày càng có vị
thế cao trên trường quốc tế, có uy tín và niềm tin với bè bạn các nước trên thế
giới, tạo thế và lực mới cho sự thành công của công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đạt được kết quả đó,
chúng ta khơng thể phủ nhận một phần là do những nhận thức đúng đắn của
Đảng và nhà nước. Trên thực tế nghiên cứu khoa học cũng vậy, Nhận thực
thức chính xác và tồn diện vấn đề sẽ tạo ra những sản phẩm mang lại lợi
ích cho cộng đồng như phát minh ra điện thoại, vơ tuyến, máy vi tính.
Vấn đề thực tiễn và nhận thức khơng chỉ là vấn đề lịch sử mà cịn là
vấn đề hằng ngày giữa mỗi con người với thế giới khách quan. Nhận thức
được điều đó, tơi đã lựa chọn đề tài “ Vai trò của triết học Mác- Lê Nin
trong nhận thức và hoạt động thực tiễn” để hiểu rõ hơn về mặt lý luận cũng
như thực tế.
3
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NHẬN THỨC,
THỰC TIỄN
1.1.
Lý luận về nhận thức
1.1.1. Khái niệm
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: nhận thức chỉ là sự phức hợp những cảm
giác của con người. Sở dĩ, có quan điểm như vậy là do những người theo
trường phái này đã phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất.Điều
đó có nghĩa là:tự bản thân con người bằng cảm nhận của mình mà đưa ra
những nhận xét, đánh giá mà không cần tới những quy luật tồn tại khách
quan. Đây là quan điểm phiến diện không nhận thấy được mối liên hệ khăng
khít giữa nhận thức và thực tiễn, nói cách khác là giữa vật chất và ý thức.Phải
thừa nhận rằng nhận thức của con người chính là nhờ thực tiễn phản ánh
thông qua ý thức.Chứ không phải chỉ đơn thuần là sự phức hợp những cảm
giác. Mọi sự vật, hiện tượng đều phải trải qua quá trình và đều được phản ánh
và chịu tác động trực tiếp bởi thực tại khách quan.
Chủ nghĩa duy vật: thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của
con người và coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong
đầu óc con người.Tuy nhiên, do sự hạn chế bởi tính trực quan, siêu hình, máy
móc mà chủ nghĩa duy vật trước Mác đã coi nhận thức là sự phản ánh trực
quan, đơn giản, là bản sao chép nguyên xi trạng thái bất động của sự vật.Họ
chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.Chính vì vậy mà
C.Mác đã nhận xét rằng:”khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật
từ trước tới nay kể cả chủ nghĩa duy vật của Phơibắc là sự vật, hiện thực, cái
cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức
trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là
thực tiễn; không được nhận thức về mặt chủ quan.
4
Như vậy có thể nói, tất cả các trào lưu triết học trước Mác đều quan
niệm sai lầm hoặc phiến diện về nhận thức. Những vấn đề lý luận và nhận
thức chưa được giải quyết một cách khoa học, đặc biệt chưa thấy được đầy đủ
vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
Chỉ có Chủ nghĩa duy vật biện chứng mới có câu trả lời cho bản chất
của nhận thức.
Về bản chất. nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng
tạo thế giới khách quan vào bộ óc người trên cơ sở thực tiễn.
Có được khái niệm hoàn chỉnh như vậy là do chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã sinh ra bởi sự kế thừa những yếu tố hợp lý, phát triển một cách
sáng tạo và được minh chứng bởi những thành tựu của khoa học, kỹ thuật,
thực tiễn xã hội.
Các Mác và Ph.Ănghen đã dựa trên những nguyên tắc sau để dựng nên
học thuyết về nhận thức:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập đối với ý
thức của con người.
Hai là, thừa nhận khả năng
nhận thức được thế giới của con
người.Con nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc
của con người, là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể.Khơng có cái gì là
khơng thể nhận thức được mà chỉ có cái con người chưa nhận thức được
nhưng sẽ nhận thức được.
Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một q trình biện chứng, tích cực,
tự giác và sáng tạo.qua trình phản ánh ấy diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến
biết, từ biết ít đến biết nhiều, đi từ bản hiện tượng đến bản chất và từ bản chất
kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.
5
Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức,
là động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Như vậy, nhận thức chính là sự phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo
thế giới khách quan vào trong bộ óc con người nhưng dựa trên cơ sở thực tiến
chứ khơng phải do ý chí chủ quan của con người quyết định.
1.1.2. Quá trình nhận thức
Nhận thức là quá trình diễn ra rất phức tạp, bao gồm nhiều giai đoạn,
trình độ, vịng khâu khác nhau song đây là quá trình biện chứng đi từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.
a.Trực quan sinh động
Trực quan sinh động cịn gọi là giai đoạn nhận thức cảm tính; đây là
giai đoạn con người sử dụng các giác quan để tác động trực tiếp vào các sự
vật nhằm nắm bắt các sự vật ấy. Trực quan sinh động bao gồm 3 hình thức
là:cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện
tượng khi chúng đang tác động trực tiếp vào các giác quan của con
người.Cảm giác là nguồn gốc của sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hố
những năng lượng kích thích từ bên ngồi thành yếu tố của ý thức.Chính vì
thế mà Lênin đã viết:”Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan”.
Tri giác là hình ảnh tương đối tồn vẹn về sự vật khi sự vật đó đang
trực tiếp tác động vào các giác quan.Tri giác nảy sinh dựa trên cơ sở của cảm
giá, là sự tổng hợp của nhiều cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình
thức nhận thức cao hơn, đầy đủ hơn, phong phú hơn về sự vật.
Biểu tượng là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai
đoạn trực quan sinh động. Đó là hình ảnh có tính đặc trưng và tương đối hồn
chỉnh cịn lưu lại trong bộ óc con người về sự vật khi sự vật đó khơng cịn
6
trực tiếp tác động vào các giác quan. Biểu tượng được hình thành nhờ sự phối
hợp, bổ sung lẫn cho nhau của các giác quan nhưng đã có sự tham gia của các
yếu tố phân tích, tổng hợp và ít nhiều mang tính trừu tượng hố.
Như vậy, cảm giác, tri giác là những giai đoạn kế tiếp nhau của hình
thức nhận thức cảm tính đã tồn tại cả cái bản chất lẫn cái không bản chất, cả
cái tất yếu và ngẫu nhiên, cả cái bên trong lẫn bên ngoài sự vật.Nhưng ở đây
con người chưa phân biệt được cái gì là bản chất với không bản chất, đâu là
tất yếu với ngẫu nhiên, đâu là bên trong với bên ngoài.Yêu cầu của nhận thức
đòi hỏi phải tách ra và nắm lấy cái bản chất. tất yếu, bên trong, chỉ có chúng
mới có vai trị quan trọng cho hoạt động thực tiễn và nhận thức của con
người.Như vậy, dừng lại ở nhận thức cảm tính sẽ gặp phải mâu thuẫn giữa
một bên là thực trạng chưa phân biệt được đâu là cái bản chất, tất yếu, bên
trong, đâu là cái không bản chất, ngẫu nhiên bên ngoài với như cầu tất yếu
phải phân biệt được cái đó thì con người mới có thể nắm được quy luật vận
động và phát triển của sự vật.khi giải quyết mâu thuẫn ấy, nhận thức sẽ vượt
lên một trình độ mới, cao hơn về chất, đó là tư duy trừu tượng.
b.Tư duy trừu tượng
Tư duy trừu tượng là đặc trưng của giai đoạn nhận thức lý tính.
Nhận thức lý tính là giai đoạn phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái
quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của đối tượng.Đây là giai
đoạn nhận thức thực hiện chức năng quan trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái
bản chất của tính quy luật của sự vật, hiện tượng.Nhận thức lý tính được thể
hiện với ba hình thức : khái niệm, phán đốn và suy lý.
Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những
đặc tính bản chất của sự vật.Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái
quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay một lớp sự
vật.Vì vậy, các khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan , vừa
7
có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận động và
phát triển. Nó chẳng những rất linh động, mềm dẻo, năng động mà còn là
điểm nút của quá trình tư duy trừu tượng, là cơ sở để hình thành phán đốn.
Phán đốn là hình thức của tư duy liên kết các khái niệm lại với nhau
để khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối
tượng.Ví dụ : kháng chiến nhất định thắng lợi, non sông sẽ thu về một
mối.Đây là một phán đoán dựa trên cơ sở của thực tiễn cách mạng.Nó là sự
liên kết giữa thực tế chiến trường và sức mạnh dân tộc.
Dựa vào trình độ phát triển của nhận thức, phán đoán được chia làm 3
loại là phán đốn đơn nhất(ví dụ : sứ là vật cách điện), phán đốn đặc thù(ví
dụ :kim cương là sự liên kết của các bon) và phán đoán phổ biến( ví dụ : mọi
kim loại đều dẫn điện).Phán đốn phổ biến là hình thức thể hiện sự bao quát
rộng lớn nhất về đố tượng.
Suy lý là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút
ra tri thức mới bằng phán đốn mới.Ví dụ : nếu phán đốn ” phi kim khơng
dẫn điện thì sẽ suy ra được rằng : sứ khơng dẫn điện vì sứ cũng là phi kim.
Từ những biện chứng của qua trình nhận thức chúng ta có thể phân ra
các cấp độ của nhận thức như sau
1.1.3. Cấp độ của quá trình nhận thức
Có 2 cách phân loại.Nếu căn cứ trên mức độ thâm nhập vào bản chất
của đối tượng nhận thức, có thể chia nhận thức thành nhận thức kinh nghiệm
và nhận thức lý luận ; nếu căn cứ trên tính chất tự phát hay tự giác của q
trình nhận thức, có thể chia nhận thức thành nhận thức thơng thường và nhận
thức khoa học.
a.Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận
8
Nhận thức kinh nghiệm là loại nhận thức hình thành từ sự quan sát
trực tiếp các sự vật hiện tượng trong tự nhiên, xã hội hay các thí nghiệm khoa
học.Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm.Tri
thức này có hai loại là tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh
nghiệm khoa học.
Nhận thức lý luận(gọi tắt là lý luận) là loại nhận thức gián tiếp, trừu
tượng và khái quát về bản chất và quy luật của các sự vật, hiện tượng.Nhận
thức lý luận có chức năng gián tiếp vì nó được hình thành và phát triển trên cơ
sở của nhận thức kinh nghiệm.Nhận thức lý luận có tính trừu tượng và khái
qt vì nó tập trung phản ánh cái bản chất mang tính quy luật của sự vật, hiện
tượng.Do đó, tri thức lý luận- kết quả của nhận thức lý luận – thể hiện chân lý
sâu sắc hơn, chính xác hơn và có hệ thống hơn.
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức
khác nhau, nhưng có quan hệ biện chứng với nhau.Trong mối quan hệ đó thì
nhận thức kinh nghiệm là cơ sỏ của nhận thức lý luận.Nó cung cấp cho cho
nhận thức lý luận những tư liệu phong phú, cụ thể.Nó gắn chặt trực tiếp với
thực tiễn tạo thành cơ sở hiện thực để kiểm tra, sửa chữa, bổ sung cho lý luận
mới và tổng hợp khái quát bằng khái niệm mới.
b.Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học
Nhận thức thông thường (nhận thức tiền khoa học) là loại nhận thức
được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của
con người.Nó phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm
chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật.Vì vây, nhận thức
thơng thường mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn liền với những quan
niệm sống thực tế hàng ngày. Vì thế nó có vai trị thường xun. phổ biến chi
phối hoạt động của mọi người trong xã hội.
9
Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự
giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của
đối tượng nghiên cứu.Sự phản ánh này diễn ra dưới dạng trừu tượng, logic là
các khái niệm, các quy luật khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng ,
khái quát lại vừa có hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực.
Trong đó, nhận thức thơng thường và nhận thức khoa học là hai nấc
thang khác nhau về chất của quá trình nhận thức đạt tới những tri thức chân
thực.Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.Trong mối quan hệ đó,
nhận thức thơng thường có trước nhận thức khoa học.Mặc dù đã chứa dựng
những mầm mống của những tri thức khoa học, song nhận thức thông thường
chỉ là những nhận thức bên ngồi, ngẫu nhiên, khơng bản chất của đối tượng
và tự nó khơng thể chuyển thành nhận thức khoa học cần phải thông qua khả
năng tổng kết, trừu tượng,khái quát đúng đắn của các nhà khoa học.Ngược lại
khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học thì nó lại tác động trở lại nhận thức
thơng thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường và làm cho nhận thức
thông thường phát triển. Tăng cường nội dung khoa học cho quá trình nhận
thức thế giới của con người.
Như vậy, việc đạt tới những tri thức khoa học trong quá trình nhận thức
diễn ra theo những cấp độ khác nhau từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý
tính, từ nhận thức kinh nghiệm đến nhận thức lý luận, từ nhận thức thông
thường đến nhận thức khoa học.Tuy nhiên để chứng minh được nhận thức kia
đã đúng chưa cần phải được kiểm nghiệm trên thực tiễn.Thực tiễn là thước đo
chính xác nhất những gì nhận thức đã thu nhặt được.Vậy, thực tiễn là gì?Hãy
làm rõ vấn đề này và sau đó chúng ta sẽ có được kết luận về mối quan hệ giữa
thực tiễn và nhận thức.Qua đó, để thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận
thức.
10
1.2. Lý luận về thực tiễn
1.2.1. Khái niệm
Theo những người theo chủ nghĩa duy tâm thì: cho rằng thực tiễn chỉ là
hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới của con người một cách đơn thuần
chứ không phải hoạt động vật chất, là hoạt động lịch sử.Do họ cho rằng nhận
thức chỉ đơn thuần là sự “phức hợp những cảm giác” hay cao hơn là sự “tự ý
thức về mình của ý niệm tuyệt đối”.
Khác với quan điểm trên, do ra đời sau dựa trên cơ sở kế thừa và phát
triển sáng tạo những yếu tố hợp lý trong những quan niệm về thực tiễn của
các nhà triết học trước đó, C.Mác và Ph.Ănghen đã đưa ra một quan niệm
đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức cũng như
đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với việc đưa phạm trù
thực tiễn vào lý luận nhận thức. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mac – Lênin
đã tạo nên một bước chuyển biến cách mạng trong triết học nói chung và
trong lý luận nhận thức nói riêng.
Trên nền tảng đó các ơng đã đưa ra khái niệm thực tiễn như sau: thực
tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử – xã
hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
Thông qua hoạt động thực tiễn con người đã khơng ngừng sáng tạo,
nhờ đó lịch sử lồi người đã không ngừng phát triển. Minh chứng là con
người đã trải qua 5 hình thái kinh tế xã hội mà cái sau bao giờ cũng tiến bộ
hơn cái trước đó là: Xã hội ngun thuỷ, chiếm hữu nơ lệ, xã hội phong kiến,
xã hội tư bản chủ nghĩa, xã hội xã hội chủ nghĩa. Đã có những thời kỳ các nhà
cầm quyền muốn áp đặt ý chí của mình nhằm khuất phục người dân bằng
những khái niệm về “ thần quyền”, bằng cái gọi là “ý niệm tuyệt đối” để thui
chột ý chí đấu tranh và bằng lịng với số phận và coi đó là cái tất yếu.Tuy
nhiên, thơng qua thực tiễn quần chúng đã nhận ra bộ mặt thật của những lý
thuyết trên và họ đã tìm được lối thốt thơng qua thực tiễn đấu tranh lần lượt
11
xây dựng nên những lý luận khoa học để bảo vệ quyền lợi chính đáng của
mình.
Nó được thực hiện một cách tất yếu khách quan và không ngừng được
phát triển bởi con người qua các thời kỳ lịch sử.chính vì vậy mà thực tiễn bao
giờ cũng là hoạt động có mục đích và mang tính lịch sử – xã hội.
1.2.2. Các hình thức biểu hiện của thực tiễn
Thực tiễn được biểu hiện dưới rất nhiều hình thức khác nhau và ngày
càng phong phú, song quy lại có 3 hình thức cơ bản là: hoạt động sản xuất
vật chất, hoạt động chính trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên
của thực tiễn.Đây là hoạt động mà con người sử dụng những công cụ lao động
tác động vào giới tự nhiên để tạo ra những của cải và các điều kiện thiết yếu
nhằm duy trì sự tồn tại của bản thân và xã hội.Lịch sử cũng đã chứng minh
được rằng con người tiên hoá và thoát ra khỏi thế giới động vật và tạo thành
cộng đồng rộng lớn và chế ngự toàn địa cầu là nhờ q trình lao động.Do đó,
hoạt động sản xuất vật chất sẽ tồn tại mãi mãi cùng với sự tồn tại của xã hội
lồi người.
Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động tổ chức của cộng đồng người
khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy
xã hội phát triển.Bằng cuộc cách mạng cơng nghiệp xã hội lồi người đã thốt
khỏi “đêm trường trung cổ” để được tái sinh ở chủ nghĩa tư bản, nhưng đó
cũng vẫn chưa phải là xã hội lý tưởng với quan hệ xã hội công bằng cho số
đông những người lao động.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là hoạt động được tiến hành trong
những điều kiện do con người tạo ra gần giống, giống hoặc lặp lại những
trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật biến đổi và phát
triển của đối tượng nghiên cứu . Dạng hoạt động này ngày càng có vai trò
12
quan trọng trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là những thời lỳ cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại. Những thực nghiệm mới đây của các nhà
khoa học về y khoa như : cấy ghép mô đã mang lại sự sống cho rất nhiều
người bệnh.Thực nghiệm khoa học đã được ứng dụng như : mơ hình chính
phủ điện tử, thơng quan điện tử đã giúp ích rất nhiều cho công tác quản lý,
thời gian và chi phí cho Nhà nước và cơng dân.Vì thế, nhận thức khoa học có
vai trị ngày càng to lớn trong hoạt động thực tiễn.Chúng ta phải luôn cập nhật
và ứng dụng kịp thời nhưng tiến bộ ấy vào đời sống cũng như khoa học.
13
CHƯƠNG II: VAI TRÒ VÀ BIỆN PHÁP ỨNG DỤNG VAI TRÒ
CỦA TRIẾT HỌC MÁC- LÊ NIN TRONG NHẬN THỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN
2.1. Vai trò của triết học Mác- Lênin trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn
2.1.1. Chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận
Vai trò của triết học trong nhận thức và hoạt động thực tiễn được thể
hiện qua chức năng của triết học, như chức năng nhận thức, chức năng đánh
giá, chức năng giáo dục,... nhưng quan trọng nhất vẫn là chức năng thế giới
quan và chức năng phương pháp luận.
Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt trong cuộc sống của con người và
xã hội loài người tồn tại trong thế giới và nhận thức bản thân mình, Những tri
thức này dần dần hình thành lên thế giới quan, khi đã hình thành, thế giới
quan trở thành nhân tố định hướng cho quá trình con người tiếp tục nhận thức
thế giới. Có thể ví thế giới quan như một “Thấu kính”, qua đó con người nhìn
nhận thế giới xung quanh cũng như tự xem xét chính bản than mình để xác
định cho mình mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức hoạt động
đạt được mục đích, ý nghĩa đó.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm
cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết
kinh nghiệm thực tiễn và chi thức do các khoa học đem lại.Theo Kant “ Sự
tồn tại lịch sử của con người chúng ta như là một điểm nhỏ trên con đường
dài mà ta không thể biết được điểm khởi đầu và điểm kết thúc. Điểm khởi đầu
thì ta chỉ có thể phỏng đốn, cịn định hướng cho tương lai thì ta chỉ có thể
dùng các “lịng tin” của lý trí – mà ông gọi là “các Ý niệm tất yếu” - để soi
sáng. Còn bước đi trên con đường ấy là tiến trình của sự khai sáng “Khai sáng
là việc con người đi ra khỏi sự không trưởng thành do chính mình tự chuốc
14
lấy” Không trưởng thành là sự bất lực, không biết dùng đầu óc của mình mà
khơng có sự hướng dẫn của người khác. Cịn tự mình chuốc lấy là do thiếu
dũng khí, thiếu lịng kiên quyết và thói quen an nhàn, thoải mái. Vì thế, khẩu
hiệu của sự khai sáng là: sapere aude! (Hãy dám biết!), hãy có gan dùng chính
đầu óc của mình! Con người rất thích ở n trong tình trạng khơng trưởng
thành, vì mọi việc đã có người khác chỉ dẫn, sắp đặt, lo liệu. Thoát khỏi
“những xiềng xích êm ái” ấy, con người thấy bơ vơ và lúng túng vì khơng
quen suy nghĩ và vận động tự do. Vì thế, Kant bảo: “Chỉ có ít người thành
công trong việc vừa trưởng thành về tinh thần, vừa tự đi được một cách vững
chắc”. Nhưng, tiến trình khai sáng vẫn cứ tiếp diễn, tuy chậm chạp” . Một
cuộc cách mạng có thể lật đổ kẻ độc tài nhưng khơng phải dễ dàng mang lại
sự cải cách đích thực về lề lối tư duy. Các định kiến mới chỉ thay chỗ cho các
định kiến cũ, vì lề lối tư duy khó mà được thay đổi một cách đột ngột.
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống các quan
điểm chỉ đạo việc tìm tịi, xây dựng, lựa chọn và tận dụng các phương pháp,
do vậy “Phương pháp luận là một bộ phận không thể thiếu được trong bất kỳ
ngành khoa học nào” Xét về phạm vi tác dụng của nó có ba phương pháp luận
đó là phương pháp luận ngành, phương pháp luận chung và phương pháp luận
chung nhất.
Phương pháp luận ngành còn gọi là phương pháp luận bộ môn là
phương pháp luận của một ngành khoa học cụ thể nào đó.
Phương pháp luận chung là phương pháp luận được sử dụng cho một số
ngành khoa học.
Phương pháp luận chung nhất là phương pháp luận dùng làm điểm xuất
phát cho việc xác định các phương pháp luận chung, các phương pháp luận
ngành. Và các hoạt động khác của con người.
15
Theo Kant Triết học được xem như là sự phê phán, vừa như là “kỷ luật”
tự nguyện của tư duy tự chế ước chính mình. Ơng hiểu triết học phê phán của
mình như là một đóng góp cho đời sống chính trị-xã hội, trong chừng mực
bản thân nó có nhiệm vụ tham gia tích cực vào tiến trình khai sáng; đồng thời
như là một triết học về chính trị-xã hội, trong chừng mực tư duy chính trị-xã
hội cần được suy tưởng như con đường đi đến sự tự nhận thức tự do. “Chính
trong tư duy như thế, ta thấy sự căng thẳng giữa một bên là ý thức về sự yếu
đuối, bất lực nhất thời, và bên kia là lòng tin.
Vai trị của triết học trong đời sống chính trị-xã hội xuất phát từ cách
hiểu như thế về triết học. Theo Kant, việc thiết lập, lãnh đạo và quản lý đời
sống chính trị-xã hội – được ơng gọi là “hiến chương dân sự” – là cơng việc
của những nhà chính trị. Điều cần có nơi họ là: “quan niệm đúng đắn về bản
tính của một hiến chương khả hữu”, “một sự dày dạn từng trải” và sau cùng
“một thiện chí để kết hợp được hai điều ấy lại”. Họ không phải là những nhà
triết học chun nghiệp, vì Kant khơng chờ đợi và cũng khơng mong muốn
mơ hình của Platon: vua phải là triết gia và triết gia phải… làm vua, bởi ơng
biết rằng “việc nắm giữ quyền lực khó mà khơng làm hư hỏng phán đốn tự
do của lý tính”. Tuy nhiên, theo cách nói của ơng, “bậc vương giả” hay “các
dân tộc vương giả” (königliche Völker) - tức các dân tộc biết tự cai trị chính
mình theo các quy tắc của sự bình đẳng – cần lắng nghe những nhà triết học.
Trong khi phác họa các “điều khoản" cho một “nền hịa bình vĩnh cửu”, Kant
đề nghị ghi thêm một “điều khoản bí mật”, đó là: “Các quốc gia vũ trang cần
phải tham vấn các châm ngôn của các nhà triết học về các điều kiện để bảo
đảm hịa bình”. Tại sao phải là điều khoản “bí mật”? Vì thật bất tiện khi yêu
cầu kẻ cầm quyền phải công khai “hạ cố” tham vấn các triết gia! Cho nên,
điều kiện để thực hiện “điều khoản bí mật” ấy chỉ là hãy để cho các triết gia
được ăn nói tự do và công khai. Một mặt, ông biết rằng trong lịch sử (nói
riêng ở châu Âu), vị trí của triết học vốn khiêm tốn và chơng chênh. Nó
16
không những đứng sau pháp gia [nhà cầm quyền] mà cịn bị thần học [hệ tư
tưởng chính thống] bắt làm “con sen” nữa. “Chỉ có điều khơng rõ là “con sen”
này có nhiệm vụ cầm đèn đi trước soi đường hay lẽo đẽo đi sau nâng váy cho
bà chủ”! Mặt khác, ông lại thấy các triết gia – do bản chất tự do của công việc
suy tưởng của họ – khơng bao giờ hình thành nên một phe nhóm hay tầng lớp,
nghĩa là khơng hề có quyền lực. “Trong nhân dân, họ không thỏa thuận riêng
với nhau (như tầng lớp giáo sĩ) mà chỉ đề ra các dự phóng với tư cách là
người công dân” và “họ chứng minh một cách hồn tồn khơng khả nghi rằng
họ chỉ quan tâm đến chân lý mà thôi”. Các ý tưởng rất nghiêm túc đằng sau
cách nói hóm hỉnh ấy về vị trí và vai trò của triết học trong đời sống cộng
đồng xuất phát từ quan niệm rất sâu sắc của ông về bản chất của triết học.
Kant phân biệt giữa triết học như là “quan niệm trường ốc” với triết học
như là “quan niệm toàn hoàn vũ” Triết học trường ốc là chỉ đi tìm “một hệ
thống kiến thức với mục đích duy nhất là tính hồn chỉnh về lơgíc”, tức chỉ
nhằm đưa ra các quy tắc sử dụng lý trí cho bất kỳ mục đích nào, hầu mang lại
kỹ năng, tài khéo chứ khơng cần biết kiến thức ấy đóng góp gì vào cứu cánh
tối hậu của lý tính con người và hạnh phúc của nhân loại. Ngược lại, triết học
“toàn hoàn vũ” là khoa học về các cứu cánh tối hậu của con người, là quan
niệm mang lại “phẩm giá, tức giá trị tuyệt đối” cho triết học. Mục đích của ta
thì có nhiều, nhưng cứu cánh tối hậu thì chỉ có một, đó là tồn bộ vận mệnh
của con người, và nền triết học về điều này chính là đạo đức học theo nghĩa
rộng nhất. Vì thế, với tư cách là quan niệm “toàn hoàn vũ”, triết học “liên
quan đến mọi con người". Nó cao xa nhưng giản dị, vì “khơng có một nền
triết học cao siêu nào có thể hướng dẫn cho ta bằng sự hướng dẫn mà Tự
nhiên đã phú bẩm cho lương năng bình thường nhất”.
Tác dụng tiêu cực, phủ định của triết học phê phán, do đó, chỉ là một
phương diện của tồn bộ triết học. Những nhà khoa học riêng lẻ đều chỉ là
những nhà chuyên môn, thiện nghệ trong việc sử dụng lý tính. Nhưng, “đứng
17
lên trên tất cả cịn có một Bậc Thầy lý tưởng sử dụng họ như những công cụ
phục vụ cho sự tăng tiến của các cứu cánh cơ bản của lý tính con người. Chỉ
có bậc thầy lý tưởng này mới xứng danh là “Triết gia”, song lại không tồn tại
thật sự ở đâu cả. Tuy nhiên, ý niệm về quyền năng ban bố luật lệ của Triết gia
vẫn lắng đọng trong đáy sâu tâm hồn của mỗi người chúng ta… Trong ý
tưởng cao cả này, thật quá tự cao nếu tự xưng mình là triết gia và dám cho
rằng mình đã đứng ngang hàng với hình ảnh nguyên mẫu của bậc triết nhân
chỉ có thể có trong Ý niệm” Vậy, theo Kant, “Nhà hiền triết đích thực” – như
là bậc thầy của sự hiền minh bằng chính hình ảnh mẫu mực của mình – là lý
tưởng để được mãi mãi vươn tới của nền giáo dục nhân bản và khai phóng
Triết học có vai trị rất lớn trong việc định hướng sự phát triển của các
Ngành khoa học không đi sai lệch để đi tới thành quả cao nhất mà nó có thể
đạt được dựa trên mối quan hệ giữa thế giới quan và phương pháp luận, ngoài
ra triết học cịn giúp con người tự giác trong q trình trau dồi phẩm chất
chính trị, tinh thần và năng lực tư duy sáng tạo, đáp ứng những đòi hỏi cấp
bách của công cuộc đổi mới, phục vụ sự nghiệp xây dựng thành cơng xã hội
chủ nghĩa.
2.1.2 Vai trị của triết học Mác - Lê nin trong đời sống
Triết học Mác - Lênnin kế thừa và phát triển những thành tựu quan
trọng nhất của tư duy triết học nhân loại. Nó được C.Mác và Ph. Ăngghen
sáng tạo ra và V.I.Lênin phát triển một cách xuất sắc. Đó là chủ nghĩa duy vật
biên chứng trong việc xem xét giới tự nhiên cũng như xem xét đời sống xã
hội đặc biệt là đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn
* Với tư cách là một hệ thống nhận thức khoa học có sự thống nhất hữu
cơ giữa lý luận và phương pháp: triết học Mác-Lênin như Lê nin nhận xét:
“Là một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị” và “là một công cụ nhận thức vĩ
đại”, triết học Mác-Lênin là cơ sở triết học của một thế giới quan khoa học, là
18
nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, là
nguyên tắc xuất phát của phương pháp luận.
+ Trong triết học Mác - Lênin, lý luận và phương pháp thống nhất hữu
cơ với nhau. Chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện
chứng là phép biện chứng duy vật. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để, và phép biện
chứng trở thành lý luận khoa học; nhờ đó triết học mácxít có khả năng nhận
thức đúng đắn cả giới tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người.
+ Nắm vững triết học triết học Mác-Lênin không chỉ là tiếp nhận một
thế giới quan đúng đắn mà còn là xác định một phương pháp luận khoa học.
Nguyên tắc khách quan trong sự xem xét đòi hỏi phải biết phân tích cụ thể
theo tinh thần biện chứng, đồng thời nó ngăn ngừa thái độ chủ quan tuỳ tiện
trong việc vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn.
* Trong quan hệ với các khoa học cụ thể, mối quan hệ giữa triết học
Mác- Lênin và các khoa học cụ thể là mối quan hệ biện chứng, cụ thể là: các
khoa học cụ thể là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của triết học. Đến
lượt mình, triết học Mác- Lênin cung cấp những cơng cụ phương pháp luận
phổ biến, định hướng sự phát triển của các khoa học cụ thể. Mối quan hệ này
càng đặc biệt quan trọng trong kỷ nguyên cách mạng khoa học kỹ thuật và
cơng nghệ.
Chính vì vậy, để đẩy mạnh phát triển khoa học cụ thể cũng như bản
thân triết học, sự hợp tác chặt chẽ giữa những người nghiên cứu lý luận triết
học và các nhà khoa học khác là hết sức cần thiết. Điều đó đã được chứng
minh bởi lịch sử phát triển của khoa học và bản thân triết học.
Ngày nay trong kỷ nguyên cách mạng khoa học cơng nghệ, sự gắn bó
càng trở nên đặc biệt quan trọng. Trong kỷ nguyên này, cuộc đấu tranh chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm không bị thủ tiêu mà vẫn tiếp tục diễn ra
19
với những nội dung và hình thức biểu hiện mới. Trong tình hình đó, lý luận
triết học sẽ trở nên khô cứng và lạc hậu, nếu không được phát triển dựa trên
sự khái quát khối tri thức hết sức lớn lao của khoa học chuyên ngành. Ngược
lại, nếu không đứng vững trên lập trường duy vật khoa học và thiếu tư duy
biện chứng thì đứng trước những phát hiện mới mẻ người ta có thể mất
phương hướng và đi đến kết luận sai lầm về triết học.
Tuy nhiên, triết học Mác không phải là đơn thuốc vạn năng chứa sẵn
mọi cách giải quyết các vấn đề đặt ra trong hoạt động nhận thức cũng như
hoạt động thực tiễn. Để có thể tìm lời giải đáp đúng đắn cho những vấn đề đó,
bên cạnh tri thức triết học cần có hàng loạt những tri thức khoa học cụ thể
cùng với những tri thức kinh nghiệm do cuộc sống tạo nên một cách trực tiếp
ở mỗi con người. Thiếu tri thức đó, việc vận dụng những ngun lý triết học
khơng những khó mang lại hiệu quả, mà trong nhiều trường hợp có thể cịn
dẫn đến những sai lầm mang tính giáo điều.
Do vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần
tránh cả hai thái cực sai lầm:
+ Xem thường triết học sẽ sa vào tình trạng mị mẫm, dễ bằng lòng với
những biện pháp cụ thể nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn
xa trơng rộng, thiếu chủ động và sáng tạo trong công tác;
+ Tuyệt đối hóa vai trị của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp
dụng một cách máy móc những nguyên lý, những quy luật vào từng trường
hợp riêng mà khơng tính đến tình hình cụ thể trong từng trường hợp riêng và
kết quả là dễ bị vấp váp, thất bại.
Bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng để
phòng và chống chủ nghĩa chủ quan, tránh phương pháp tư duy siêu hình, đó
vừa là kết quả vừa là mục đích trực tiếp của việc nghiên cứu lý luận triết học
nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng.
20