Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Khủng hoảng tài chính tiền tệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.97 KB, 37 trang )

Lời nói đầu
Trớc tháng 7- 97, tức là trớc thời điểm xẩy ra cơn bão tài chính tiền tệ ở
Châu á mà tâm điểm là khu vực Đông Nam á, nhiều nớc thành viên
ASEAN đã kỳ vọng đến việc rút ngắn thời hạn hoàn thành AFTA vào năm
2000. Đối với Việt Nam, nhiều ngời cũng hy vọng sẽ rút ngắn tiến trình
thực hiện AFTA vào năm 2003 thay cho mốc thời gian dự kiến ban đầu là
2006. Lý do căn bản là Việt nam và các nớc ASEAN đều muốn đẩy nhanh
tiến trình AFTA nhằm nhanh chóng biến khu vực ASEAN thành một khu vực
kinh tế mở có năng lực thích ứng cao nhất với các xu thế do hoá và toàn cầu
hoá đang diễn ra hết sức nhanh chóng của nền kinh tế thế giới.
Tuy vậy, sau khi cơ bão tài chính tiền tệ xảy ra vào tháng 7 năm 1997 và
lan truyền ra toàn khu vực theo hiệu ứng Đôminô với những tác động hết
sức nghiêm trọng đến nền kinh tế các nớc ASEAN và nền kinh tế toàn cầu đã
khiến không ít ngời nghi ngờ về tính khả thi của AFTA theo lịch trình đã
cam kết của các nớc.
Vì vậy đối với Việt nam tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
đến tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới là điều không tránh khỏi.
Trong một nỗ lực tổng hợp và phân tích, nghiên cứu và đánh giá, bài viết
xin trình bày một số những vấn đề về cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở
Đông Nam á.Cụ thể là :
Phần I : Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu á và tác động đến Nội
dung của đề tài sẽ đi sâu phân tích những nguyên nhân, tác động của cuộc
khủng hoảng, từ đó so sánh với hiện trạng của nền kinh tế Việt nam trên các
lĩnh vực: đầu t, xuất nhập khẩu, tỷ giá hối đoái, thị trờng chứng khoán trên
cơ sở đó đề xuất những giải pháp chống đỡ và thoát khỏi cuộc khủng hoảng
nhằm thực hiện tiến trình cải cách nền kinh tế, đạt đợc những mục tiêu đã đề
ra: phát triển nhanh và bền vững, thúc đẩy tiến trình hội nhập nền kinh tế
1
Việt nam với các nớc trong khu vực và trên. thế giới, đa nớc ta thành một nớc
công nghiệp vào năm 2020
Nội dung


Phần I : Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á và những tác động tới
nền kinh tế Việt nam.
A/ Khủng hoảng tài chính tiền tệ
I. Diễn biến cuộc khủng hoảng.
Những triệu chứng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á bắt
nguồn từ Thái lan. Từ cuối năm 1996 nền kinh tế Thái lan đã biểu hiện
những dấu hiệu của khủng hoảng : tăng trởng kinh tế chỉ đạt 6,4% so với
mức 8,6% năm 1995, lạm phát cao 7% so với 4,5% năm 1995, xuất khẩu chỉ
tăng 7% so với 28% năm 1995, thâm hụt ngân sách trên 7%, cán cân thanh
toán vãng lai thâm hụt 8,2% GDP. Nợ nớc ngoài lên tới gần 100 tỷ USD
trong đó 40% là nợ ngắn hạn trong khi dự trững ngoại tệ giảm chỉ còn 26,6%
GDP( 1994:31,6%GDP, 1995: 29,5%GDP). Cơn bão khủng hoảng tài chính
tiền tệ đã bùng nổ ở Thái lan không phải từ trên trời rơi xuống. Sức mạnh tàn
phá của nó đã đợc tích luỹ, dồn nén từ nhiều năm và đến đầu năm 1997
những mầm bệnh trong nền kinh tế Thái lan đã phát tác gây sức ép nặng nề
cho sự phá giá tiền tệ.
Ngày 2 tháng 7 Chính phủ Thái lan sau những cố gắng tuyệt vọng buộc
phải tuyên bố thả nổi đồng Baht, chấm dứt thời kỳ chế độ tỷ giá cố định kéo
dài gần 14 năm. Giá đồng Baht giảm tới mức thấp nhất trong 12 năm qua
(29,55 Baht/1USD).
Sau đó giá trị đồng Baht tiếp tục giảm (ngày 1-8 : 32 Baht/1USD), ngày
29-8 : 34,15 Baht/1USD), và nguy cơ khủng hoảng ngày càng lan rộng sang
các lĩnh vực : kinh tế , chính trị, xã hội.
Ngày 28-7 : Thống đốc ngân hàng trung ơng Thái lan từ chức.
2
Ngày 5-8 : Chính phủ Thái lan đình chỉ hoạt động của 42 ngân hàng và
công ty tài chính.
Cùng ngày, Thái lan chấp nhận kế hoạch cứu vãn nền kinh tế do *** đề
nghị.
Ngày 10-8: 58/91 công ty tài chính và ngân hàng tại Thái lan đã bị đóng

cửa.
Ngày 11-8 : Hội nghị tài trợ đa phơng quốc tế tại Tokyo đa ra một cam
kết viện trợ cả gói 16,7 tỷ USD cho Thái lan kèm theo hàng loạt cac điều
kiện yêu cầu Thái lan phải thực hiện.
Ngày 15-10 : So với trớc khi đợc thả nổi, đồng Baht đã bị mất giá hơn
40% và đạt mức 36,72 Baht/1USD.
Ngay sau khi sự kiện thả nổi tỷ giá ở Thái lan một phản ứng dây truyền
đã xảy ra tại các nớc trong khu vực, nhất là các nớc đang có sẵn nhiều vấn
đề nội tại trong phát triển kinh tế nh Philippines, Malaysia, Indonexia, và
tác động đến cả nền kinh tế khoẻ mạnh của Singapore.
Ngày 11-7 : Chính phủ Philippines tuyên bố thả nổi đồng peso. Đồng
này sụt giá ngay trong ngày đến 11,6% so với đôla Mỹ (29,45peso/1USD)
Trong vòng 10 ngày sau đó, Ngân hàng trung ơng Philippines phải đa
vào thị trờng 1,58 tỷ USD để chống đỡ cho đồng peso trớc sự tấn công của
các nhà đầu cơ tiền tệ, khiến cho dự trữ ngoại tệ của ngân hàng này xuống
còn 9,7 tỷ USD.
Ngày 18-7 : Đồng đôla Singapore giảm giá nhẹ : 1,4680đôla
Singapore/1USD.
Ngày 21-7 : Inđonesia buộc phải cho đồng Rupiah rớt giá còn 2,640
rupiah/1USD.
Ngày 11-8 : Đồng Ringgit tại Malaysia sụt giá nhanh : 2, 7060 runggit
đổi đợcv 1USD so với 2,6505 của ngày 8-8. Đây là mức thấp nhất kể từ 40
tháng qua.
3
Ngày 14-8 : chính phủ Inđonesia quyết định thả nổi đồng rupiah (đồng
tiền này bị mất giá tới 19% so với đồng đôla Mỹ, trên 3000 rupiah/1USD).
Ngày 14-9 : Đồng ringgit của Malaysia lại xuống giá nhanh, sau khi có
các lời chỉ trích lẫn nhau giữa thủ tớng Mahathir và nhà tài chính George
Soros.
Ngày 3-11 : Chính phủ Inđonesia dới sức ép của IMF (xem nh một

trong các điều kiện tiên quyết để nhận khoản kinh phí khổng lồ 23 tỷ USD
giúp vợt qua khủng hoảng) đã đóng cửa 16 ngân hàng trong đó có ba ngân
hàng do con trai, em cùng cha và con gái của Tổng thống Suharto là cổ đông
chính.
Ngày 9-11 : Ông Chuan Leekpai đợc nhà vua Thái lan phê chuẩn làm
thủ tớng thay ông Chavalit.
Ngày 8-12 : Chính phủ Thái lan ra lệnh đóng cửa 56 trên tổng số 58
công ty tài chính đã bị tạm thời đình chỉ hoạt động từ tháng 7. Đây là một
trong những biện pháp nhằm thoả mãn điều kiện của IMF.
Ngày 6-1-1998 : Đồng peso của Philippines giảm còn 46,50/1USD.
Ngày 15-1-1998 : Tổng thống Suharto của Inđonesia ký thoả thuận 50
điểm với IMF để đổi lấy khoản vay nhằm vợt qua khủng hoảng.
Ngày 22-1-1998 : Đồng rupiah của Inđonesia rớt giá xuống còn
12.050/1USD.
Ngày 18-2-1998 : Inđonexia lên tiếng kêu gọi cộng đồng quốc tế đặc
biệt là các nớc châu Âu giúp đỡ các nớc Đông Nam á giải quyết cuộc khủng
hoảng tiền tệ.
Kể từ thời điểm các nớc Tháilan, Indonesia, Philippines, Maylaysia
tuyên bố thả nổi tiền tệ hay không can thiệp vào thị trờng ngoại hối đồng tiền
của các nớc này lập tức bị mất giá nghiêm trọng, chỉ số chứng khoán giảm
mạnh mặc dù đã có những biện pháp mang tính tình thế để đối phó và có sự
giúp đỡ của cộng đồng tài chính quốc tế. Mức độ mất giá đồng tiền và sự suy
4
giảm về giá trị chứng khoán của các nớc bị khủng hoảng đợc thể hiện trên
Bảng 1 đến Bảng 4 .
Bảng 1 : Mức độ mất giá của các đồng tiền ASEAN từ tháng 4 năm 1997
đến 3 năm 1998
Đơn vị tính : %- Thời điểm gốc là đầu tháng 4/97
Nguồn : Asia Week March 6 -1998
Đầu tháng Malaysia

Ringgit
Indonesia
Rupiah
Singapore
Dollar
Philipine
Peso
Thailand
Bath
4/97
5
6
7
8
9
10
11
12
1/98
2
3
0
-1
-2
-3
-7
-15
-29
-26
-30

-37
-45
-32
0
-1
-2
-2
-9
-19
-30
-36
-39
-58
-85
-74
0
0
0
0
-2
-5
-7
-9
-11
-15
-17
-13
0
0
+3

+3
-9
-14
-24
-25
-25
-35
-40
-35
0
0
+3
+3
-19
-23
-27
-35
-37
-44
-53
-42
Bảng 2 : Tỷ giá các đồng tiền ASEAN trớc khi bị khủng hoảng so với USD
Thời điểm đầu tháng 4/97
Nguồn : Tin tham khảo hàng ngày
Malaysia
Ringgit
Indonesia
Rupiah
Singapore
Dollar

Philippines
Peso
Thailand
Baht
2,52 2415 1,43 26,2 25,5
5
Bảng 3 : Chỉ số chứng khoán các nớc trớc khi bị khủng hoảng
Thời điểm đầu tháng 2 năm 97
Nguồn : Tin tham khảo hàng ngày
Bangkok
SET
Manila
Composite
Jakarta
Composite
Kuala Lumpur
Composite
Singapore
ST Indl
710,45 3295,45 638,806 1260,20 2178,27
Bảng 4 : Mức độ sụt giảm của chỉ số chứng khoán trên thị trờng các nớc
ASEAN
Đầu
tháng
Bangkok
SET
Manila
Composite
Jakarta
Composite

Kuala
Lumpur
Composite
Singapore
ST Indl
2/97
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
1/98
2
3
0
-8
-5
-20
-30
-20
-13
-40
-40
-47
-49

-55
-39
-30
0
-4
-10
-22
-18
-19
-21
-29
-32
-40
-45
-49
-40
-35
0
0
-8
-4
0
+5
+3
-30
-25
-29
-40
-45
-25

-29
0
-1
-6
-7
-7
-11
-14
-20
-34
-35
-45
-55
-60
-42
0
0
-7
-10
-10
-10
-12
-15
-14
-29
-23
-30
-43
-31
Nguồn : ASIA Week March 6,1998

6
Nh vậy rõ ràng theo nh số liệu bảng trên thì luận điểm cho rằng sự phá
giá của đồng tiền các nớc này nh là một phơng thức trả lại giá trị đích thực
cho chúng nhằm tạo dựng lại niềm tin vào các điều kiện kinh tế vĩ mô của
nền kinh tế các nớc, đã hoàn toàn trở nên thiếu sức thuyết phục. Đồng tiền
các nớc đã không điều chỉnh để mất giá từ 20-30% nh IMF đã cảnh báo vào
năm 1996 mà hơn thế, mức độ mất giá đã lên tới 45-85%. Do đó những tác
động của cuộc khủng hoảng đến bản thân các nớc là hết sức to lớn và thể
hiện trên nhiều chỉ tiêu khác nhau.
II. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu á năm 1997 có nhiều
nguyên nhân hết sức cơ bản và có liên quan mật thiết với nhau. Hội nghị Bộ
trởng tài chính của các nớc thành viên ASEAN vào ngày 2-12 tại Kulalampur
đã chỉ ra ba nguyên nhân cơ bản sau :
1/ Sự mất cân đối vĩ mô gắn liền với thiếu hụt lớn về thanh toán và sự
giảm sút đáng kể và tăng trởng kinh tế và xuất khẩu.
2/ Sự lệ thuộc nặng nề vào các khoản nợ ngắn hạn bên ngoài và cùng
với sự tăng nhanh tín dụng và các khoản vay không hiệu quả trong công
nghiệp ngân hàng đã làm suy yếu năng lực hoạt động của hệ thống ngân
hàng tài chính.
3/ Nhiều nguồn vốn lớn không công khai đã giữ vai trò chi phối các thị
trờng tiền tệ và gây sức ép với thị trờng khi quy mô của thị trờng lại nhỏ.
Diễn giải các nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở
châu á bao gồm các điểm cơ bản sau :
Thứ nhất : Nền kinh tế phát triển hớng ngoại quá lệ thuộc vào nớc
ngoài.
Sau những năm 70 các nớc bị khủng hoảng đã thực hiện chính sách công
nghiệp hoá hớng về xuất khẩu. Bản chất của chính sách này là đẩy mạnh quá
trình xuất khẩu để thu ngoại tệ. Trên thực tế chiến lợc phát triển kinh tế theo
7

chính sách này đã tỏ ra thành công trong suốt thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 ,
giúp cho các nớc này duy trì đợc tốc độ tăng trởng cao. Song do quá đề cao
chiến lợc phát triển hớng về xuất khẩu nên nền kinh tế các nớc đã lệ thuộc
rất nhiều vào xuất khẩu . Chẳng hạn ở Malaysia kim ngạch xuất nhập khẩu
chiếm tới 90% GDP . Trong khi đó các nớc này lại tập trung quá mức vào
một số mặt hàng chủ chốt nh điện tử , may mặc làm cơ cấu các mặt hàng
sản xuất nghèo nàn, mất cân đối. Bình quân từ năm 1994 , 1995 và đầu năm
1996 khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu của Singapore là hàng điện tử chiếm
gần 50% GDP, đối với Malaysia tỷ lệ này là 50% GDP và Hàn Quốc là
33,3% GDP, Thái lan 21,2% GDP và Philipin là 43,5% GDP. Trong bối cảnh
ngày càng có nhiều nớc cũng tập trung vào các mặt hàng này dẫn đến sự
cạnh tranh ngày càng lớn , thị trờng có xu hớng bão hoà . Đặc biệt phải kể
đến Trung quốc , sau những năm 80 Trung quốc tiến hành giảm giá NDT .
Trong vòng 10 năm từ năm 1980 trở lại đây Trung quốc đã 4 lần giảm giá
NDT , so với USD mức mất giá lên tới 212,6% trong vòng 6 năm ( từ 1981-
1987) vì vậy hàng hoá xuất khẩu của Trung quốc tăng nhanh và cạnh tranh
mạnh mẽ với hàng hoá của Thailand và các nớc ASEAN do giá rẻ . Năm
1996 xuất khẩu của Trung quốc đã đạt tới 150 tỷ USD gần bằng tổng giá trị
xuất khẩu của cả 4 nớc Malaysia. Thailand, Indonexia. Philipine cộng lại.
Đầu năm 1997 xuất khẩu của Trung Quốc tăng 25% trong khi đó xu thế đối
với các nớc ASEAN lại giảm. Nhịp độ tăng xuất khẩu của cả khu vực
ASEAN đã giảm từ 20% năm 1995 xuống còn cha đầy 10% năm 1996, hầu
hết các nớc phải gánh chịu những tổn thất to lớn khi tổng cầu đối với các sản
phẩm điện tử giảm mạnh , tổng thu nhập tính theo USD từ xuất khẩu đồ điện
tử chỉ tính từ 12/1995 đến tháng 7/1996 giảm 10% trong đó Hàn quốc giảm
22,5%, Singapo giảm 6,5%, đài loan giảm 13%
2
. Xuất khẩu giảm dẫn tới
thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai tại các nớc này ngày càng lớn . Khoản
thâm hụt này năm 96 của cả Malaysia và Thái lan đều đạt mức 13,5 tỷ USD

tơng ứng chiếm 5,5% và 7,9% so với GDP , đối với Indonesia vào khoảng 8,7
tỷ USD chiếm 3,4% GDP .
8
Thứ hai : Vay nợ nớc ngoài đặc biệt là nợ ngắn hạn của các doanh
nghiệp quá cao và đầu t bất hợp lý (chủ yếu vào lĩnh vực bất động sản) của
các nớc Đông Nam á : Do cán cân các nớc này bị thâm hụt nên gánh nợ nớc
ngoài tăng vọt. Mức nợ này của các công ty Thái lan là 60 tỷ USD, của các
công ty Indonesia là 130 tỷ USD. Xem xét riêng ở Thái lan cho thấy năm
1993 nợ quá hạn đã lên tới 40% GDP, năm 1994 con số này là 45% GDP,
năm 95 chiếm 50% GDP đến năm 1996 mức nợ quá hạn là 52% GDP. Vay
nợ nớc ngoài đã tăng mạnh ở các nớc ASEAN trong những năm gần đây .
Năm 1997 nợ nớc ngoài của Indonesia bằng 188,7 % GDP, Malaysia là
88,9% GDP, Philipine bằng 79,7% GDP và Thái lan là 97,1% GDP. Số nợ
phải trả của các nớc đã vợt quá 10% GDP .
Bên cạnh đó, điều nguy hiểm hơn là Chính phủ không kiểm soát đợc nợ
của các Ngân hàng và các doanh nghiệp. Nợ nớc ngoài bao nhiêu chính phủ
không nắm rõ. Thêm vào đó, chính phủ lại không xây dựng đợc khuôn khổ
pháp luật về năng lực giám sát trong quá trình tự do hoá tài chính. Trong cơ
chế quản lí bảo thủ và yếu kém nh vậy các doanh nghiệp sản xuất đua nhau
vay nợ một cách liều lĩnh, số nợ vợt quá tổng số vốn của doanh nghiệp từ
200% đến 400% .
Mặt khác các khoản vay nớc ngoài với lãi suất thấp lại đợc đầu t cho vay
với lãi suất cao ở hai khu vực không sinh lời trong ngắn hạn là đầu t bất động
sản và chứng khoán. Do việc đầu t quá mức vào bất động sản đã khiến cho
thị trờng này mang tính chất của một thị trờng bong bóng . Các ngân hàng
và tổ chức tài chính xuất phát từ sự tin tởng vào chế độ tỷ giá cố định đã
không dùng số ngoại tệ đợc vay để tài trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu
mà không ngừng đầu t và bất động sản và chứng khoán. Kết quả là khi thị tr-
ờng bất động sản mất giá các khoản vốn đầu t này đã trở thành những khoản
nợ khó đòi hoặc không thể đòi đợc. Vì vậy bản chất của cuộc khủng hoảng

phần nào là một cuộc khủng hoảng nợ do vay vốn không đợc kiểm soát và
đầu t thiếu hiệu quả .
9
Thứ ba : Duy trì tỷ giá hối đoái cố định một cách cứng nhắc theo USD
của các nớc có nền kinh tế có dấu hiệu chững lại hoặc đi xuống, trong khi
nền kinh tế của Mỹ đang phát triển đã khiến cho các nớc này thay vì để đồng
tiền của mình sụt giảm theo đúng giá trị của nó lại phải tiêu tốn hàng chục tỷ
USD để cố gắng duy trì mức cân bằng giả tạo tới mức không thể kiềm giữ đ-
ợc nữa. Đặc biệt là Thái lan, việc 13 năm liền Chính phủ Thái lan duy trì tỷ
giá cố định giữa đồng Baht và USD ( khoảng 25 Baht/1USD) là hết sức phi
kinh tế, bởi trong khoảng thời gian này, các quá trình kinh tế thế giới và khu
vực diễn ra rất mạnh mẽ, đồng đôla Mỹ ngày càng mạnh lên, đồng Baht yếu
dần, cho đến trớc thời điểm xảy ra khủng hoảng, đồng Baht đã giảm xuống
còn 30,27 Baht/1USD. Lợi dụng điều này, các nhà đầu t đã tạo ra mức bán
khổng lồ hàng chục tỷ Baht để mua vài tỷ USD. Sức mạnh theo kiểu bán
khống đã nâng cầu USD lên 100 lần so với bình thờng và đẩy tỷ giá vợt xa tỷ
giá thực. Kết quả đồng Baht bị bẻ gãy.
Thứ t : Hệ thống ngân hàng tài chính yếu kém, công tác quản lý ngoại
hối lỏng lẻo : Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ ở cả Đông Nam á, Hàn
quốc và Nhật đã dẫn đến một số lợng nợ lòng vòng khổng lồ mà không kịp
phát hiện kịp thời. Các nớc có thị trờng tiền tệ khủng hoảng đều có mức nhập
siêu quá lớn, trong khi tỷ lệ dữ trữ ngoại tệ trên nợ nớc ngoài là quá thấp.
Trong năm 1996, tỷ lệ này của Hàn quốc là 31%, Inđonesia chỉ khoảng 12%
và Thái lan là 43,1%
Bảng 8 : Dự trữ ngoại tệ của các nớc ASEAN .
dự trữ ngoại tệ các nớc ASEAN
Năm Indonexia Malaysia Philippines Xingapore Thailan
Tháng 1
Tháng 2
Tháng 3

Tháng 4
Tháng 5
19,83
19,86
19,87
20,38
20,99
28,40
28,70
29,10
28,30
27,70
11,00
11,79
11,83
11,56
11,42
77,45
77,36
78,82
78,99
80,54
38,20
37,20
37,10
36,30
32,20
10
Tháng 6
Tháng 7

Tháng 8
21,08
21,67
20,38
28,00
23,30
21,10
-
9,60
-
81,85
79,51
78,05
31,40
30,40
25,90
Nguồn : Viện Phatra. Thái lan , tháng 9/1997
Cuối cùng chính sách tỷ giá cố định cứng nhắc tại các nớc này đặc biệt mâu
thuẫn với cơ chế tự do di chuyển vốn trong nền kinh tế các nớc từ đó làm hạn
chế và sai lệch khả năng kiểm soát các dòng vốn của Chính phủ .
***Thứ t : Hệ thống ngân hàng - tài chính yếu kém, công tác quản lí
ngoại hối lỏng lẻo .
Nhìn chung hệ thống ngân hàng - tài chính tại các nớc bị khủng hoảng
cha đáp ứng đợc yêu cầu của nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao . Trong
một thời gian dài sự yếu kém của hệ thống ngân hàng tài chính tại các nớc
này đợc che dậy bởi những thành tựu kinh tế của các nớc dẫn đến các thông
tin phản ánh bị lệch lạc , méo mó. Sự yếu kém của hệ thống ngân hàng do
nhiều nguyên nhân đem lại song theo chúng tôi có thể do một số nguyên
nhân chính nh :
Thứ nhất : Chính phủ các nớc có sự can thiệp ( mức độ khác nhau ) vào hoạt

động kinh doanh của các ngân hàng và các công ty tài chính nhằm hớng các
hoạt động ngân hàng vào hỗ trợ cho chính sách phát triển kinh tế . Điều này
dẫn đến việc quản lí tín dụng lỏng lẻo và mở rộng đầu t quá mức khiến cho
hiệu quả kinh tế thấp.
Hai là : Bản thân các ngân hàng chậm trễ trong việc đổi mới hoạt động và
bảo thủ trong việc hiện đại hoá các hoạt động nghiệp vụ của mình và phụ
thuộc rất lớn vào sự trợ giúp của chính phủ .
Sự yếu kém trong hoạt động của hệ thống ngân hàng - tài chính
thể hiện trớc hết trong việc quản lí và cấp tín dụng trong nớc đợc coi là
kém hiệu quả và không chặt chẽ . Trên cơ sở của đà phát triển kinh tế đã
11
tạo dựng tốc độ mở rộng tín dụng đã tăng nhanh , vợt ra khỏi tầm kiểm soát.
Tại các nớc này trong những năm gần đây tốc độ cho vay đã vợt quá tốc độ
tăng tiền gửi ở các ngân hàng thơng mại. Các ngân hàng tại các nớc này đã
chi và đầu t mà không tính đến khả năng cạnh tranh với nớc ngoài, ngân hàng
thơng mại trong nớc cho vay một cách ồ ạt không cần giới hạn bằng hình
thức quan hệ tín chấp thay cho quan hệ thế chấp tài sản .
Bên cạnh đó việc phân bổ vốn còn bị chi phối nhiều bởi yếu tố
chính trị . Trong khi đó lợng vốn tín dụng khổng lồ này lại đợc chủ yếu
đầu t vào các lĩnh vực đòi hỏi vốn lớn song chu kì vốn lại chậm mà điển
hình là lĩnh vực bất động sản và đầu t chứng khoán . Tại Malaysia tính
từ cuối năm 1992 đến tháng 12 năm 1996 tổng các khoản tín dụng dành
cho khu vực bất động sản và cổ phiếu tăng 2 lần , từ 34,24 tỷ Ringgit lên
68,32 tỷ Ringgit trong khi tín dụng dành cho khu vực chế tạo chỉ tăng
88%. Tại Indonexia tình trạng cho vay đầu cơ bất động sản cũng diễn ra
mạnh mẽ , chiếm tới 25% tổng tín dụng. ở Thái lan thực trạng đầu t
cũng không lấy gì làm sáng sủa. Vốn vay qua hệ thống ngân hàng thái
lan đợc tập trung phần lớn vào lĩnh vực bất động sản và đầu t tài
chính(Bảng dới )***
Bảng 9 : Việc sử dụng các khoản vay mợn qua các ngân hàng Thái lan ( giá

trị ròng )
Đơn vị : 100 tỷ Bath.
Các ngành 1993 1994 1995
Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ Giá trị Tỷ lệ
Thực phẩm
Luyện kim
Hoá chất
Sx đồ dùng gia đình
Dệt
SXVL xây dựng
60,0
53,9
47,2
52,1
32,5
24,5
7,2
6,4
5,6
6,1
3,8
2,9
51,8
62,6
81,3
92,6
44,4
62,2
3,3
3,9

5,1
5,8
2,8
3,9
55,0
123,3
125,3
56,3
54,8
78,8
4,5
10,1
10,3
4,6
4,5
6,5
12
Sx máy móc
Dầu khí
Xây dựng
Thơng mại
Đầu t chứng khoán
Khai thác mỏ
Dịch vụ
Bất động sản
Những ngành khác
24,0
2,0
22,9
147,9

66,4
0,7
55,3
116,4
140,4
2,8
0,2
2,7
17,5
7,8
0,1
6,5
13,7
16,6
81,5
47,8
38,4
268,9
263,5
-3,5
83,3
160,3
254,3
5,1
3,0
2,4
16,9
16,6
-0,2
5,2

10,1
16,0
18,6
36,5
45,9
153,6
226,1
3,4
-16,4
115,6
142,3
1,5
3,0
3,8
17,6
18,5
0,3
-1,3
9,5
11,7
Tổng cộng 847,0 100,0 1589,5 1218,9 100,0
Nguồn : Nền kinh tế TháI lan đối mặt với điều chỉnh cơ cấu - Nhóm nghiên
cứu kinh tế Châu á FUMYUKI-TESTUJI SANO , Viện Nomura.
Điều nguy hiểm hơn là các khoản tín dụng trên do nhiều lí do đã không
đợc bảo đảm. Chính vì vậy khi nền kinh tế bị đình đốn, xuất khẩu giảm sút
làm cho các doanh nghiệp vay vốn không có khả năng hoàn trả đã đa các tổ
chức ngân hàng đến bờ vực của sự phá sản, gây lên các cú sốc trong hệ thống
tài chính ngân hàng và và khởi đầu cho sự khủng hoảng.
Thêm vào đó, chính sách quản lí nợ của hệ thống ngân hàng các nớc bị
khủng hoảng cha đợc coi trọng đúng mức. Trong khi thị trờng tài chính tại

các nớc này có mức độ tự do hoá mạnh, các luồng vốn đợc di chuyển dễ dàng
thì cơ chế quản lí, giám sát của NHNN đối với các NHTM và của NHTM đối
với các doanh nghiệp lại lỏng lẻo và không kiểm soát dẫn đến tình trạng vạy
nợ nớc ngoài tràn lan. Tại hầu hết các nớc bị khủng hoảng đều duy trì chính
sách lãi suất trong nớc cao hơn nhiều so với lãi suất bên ngoài nên càng
khuyến khích hàng loạt các công ty vay nợ từ nớc ngoài để hởng chi phí vốn
thấp. Chẳng hạn, tại Thái lan 9/10 công ty do Viện Pharta Thankit thống kê
đã vay nợ tại nớc ngoài với lãi suất là 8,5% năm thấp hơn rất nhiều so với lãi
suất trong nớc là 13,5% / năm.
13
Đồng thời hệ thống ngân hàng tại các nớc này đã không điều chỉnh hợp
lí tỷ lệ vay nợ ngắn hạn và dài hạn. Khoản vay ngắn hạn ngày càng gia tăng.
Chỉ tính riêng ở Thái lan đã tăng gần 42% trong vòng 2 năm từ 29,3 tỷ USD
năm 1994 lên đến 41,5 tỷ USD năm 1996. Còn đối với Indonesia theo ớc tính
số nợ nớc ngoài ngắn hạn chiếm 34,3 tỷ USD trong tổng số 120,5 tỷ vay nợ
nớc ngoài. Trong khi đó các nớc đều duy trì tỷ giá cố định theo USD vì vậy
khi nền kinh tế các nớc bị lâm vào tình trạng sa sút về xuất khẩu , tăng trởng
chậm kéo theo tình trạng thiếu ngoại tệ để thanh toán nợ nớc ngoài đã đến
hạn. Tình hình đó dẫn đến sức ép về phá giá đồng bản tệ ngày càng mạnh.
Điều này càng xấu thêm khi những lời đồn đại về khả năng phá giá đồng bản
tệ đã thúc dục các công ty và cá nhân đổ xô đi mua ngoại tệ nhằm trang trải
các khoản nợ. Hành động này cộng hởng với sự gia tăng đầu cơ càng làm
tăng sức ép đối với đồng bản tệ vốn đợc coi là bị đánh giá quá cao trong bối
cảnh nền kinh tế đình đốn của các nớc.
Sự yếu kém của hệ thống ngân hàng các nớc này còn thể hiện trong việc
chậm trễ có các giải pháp đối phó với tình trạng di chuyển vốn ngoại tệ một
cách khá tự do. Chính sách quản lí ngoại hối quá lỏng lẻo đã tạo điều kiện
cho sự chuyển đổi dễ dàng giữa đồng bản tệ và ngoại tệ dẫn đến không kiểm
soát đợc sự rời đi của các dòng vốn do sự bán tháo đồng nội tệ để lấy USD
khi xuất hiện các dấu hiệu bất ổn định trên thị trờng tiền tệ .

Tóm lại, theo chúng tôi khủng hoảng tiền tệ tại các nớc Châu á năm
1997 là kết quả của một nền kinh tế hớng ngoại bị lệ thuộc nặng nề vào một
số ngành công nghiệp xuất khẩu và vào các khoản vay nợ, đặc biệt là các
khoản vay ngắn hạn bên ngoài không đợc kiểm soát. Trong khi đó các nớc lại
duy trì một chính sách tỷ giá hối đoái cố định một cách cứng nhắc với sự vận
hành của hệ thống ngân hàng tài chính yếu kém.
III/ Tính chất của cuộc khủng hoảng
14
Tính chất của cuộc khủng hoảng ở Châu á hiện nay cũng là một vấn đề
quan trọng đợc bàn cãi. Ban đầu khi cuộc khủng hoảng bắt đầu nổ ra ngời ta
cho rằng đó là sự biến động tiền tệ hay khủng hoảng tiền tệ thông thờng, dần
dần với mức độ tác động mạnh và ngày càng sâu rộng nhiều quan điểm nhận
định đây là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ rồi khủng hoảng tài chính.
Theo chúng tôi cần thiết phải có quan điểm đúng về tính chất của cuộc khủng
hoảng, cùng với xác định đúng nguyên nhân việc xác định chuẩn xác tính
chất của cuộc khủng hiện nay sẽ là cơ sở để các nớc đề ra các biện pháp phục
hồi lại nền kinh tế và đối với các nớc chịu ảnh hởng ít sẽ là cơ sở để có các
biện pháp ngăn chặn. Căn cứ vào diễn biến và nguyên nhân cơ bản của cuộc
khủng hoảng đã phân tích ở trên chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng
cuộc khủng hoảng hiện nay đã thực sự trở thành cuộc khủng hoảng kinh tế
-tài chính và mang tính quốc tế hoá sâu sắc. Cuộc khủng hoảng diễn ra theo
cơ chế hình sóng, lan toả từng đợt và tác động, xâm nhập vào các nền kinh tế
khác theo cơ chế Đôminô theo nguyên tắc càng xa, càng cách biệt trong
quan hệ kinh tế thì mức độ càng nhẹ.
B. Những tác động
I/ Đối với các nớc trong khu vực.
Sự phá giá của đồng Baht và các đồng tiền khác của các nớc Đông Nam
á gây ra hậu quả nghiêm trọng lâu dài và tác động xấu đến mọi hoạt động
của đời sống kinh tế xã hôị của đất nớc.
Trong thời gian trớc và trong khủng hoảng, các nớc đều phải tiêu tốn số l-

ợng ngoại tệ lớn để chống đỡ giữ cho đồng tiền không bị mất giá quá mức.
Thái lan sử dụng 15 tỷ USD trong tổng số 33 tỷ USD dự trữ ngoại tệ của Nhà
nớc để cứu nguy cho đồng Baht, Philippines cũng sử dụng 20% tổng số dự
trữ để hỗ trợ cho đồng peso. Các nớc khác nh Malaysia, Indonesia cũng sử
dụng nhiều tỷ đôla Mỹ vào mục đích nói trên.
15
Nợ nớc ngoài tính bằng ngoại tệ tăng lên khoảng 25-40 % tuỳtheo mức
độ phá giá của đồng tiền. Nh vậy, nợ nớc ngoài của Thái lantừ 85 tỷ USD
lên 119 tỷ USD ; Malaysia từ 29 tỷ lên 36,5 tỷ USD ; Philippines từ 43, 5
tỷ lên 54,4 tỷ USD ; Indonesia từ 109,3 tỷ lên150,5 tỷ USD.
Hoạt động đầu t, kinh doanh bị đình đốn. Hàng loạt các doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán hoặc bị phá sản.
Do đồng tiền bị mất giá, nền kinh tế vĩ mô không ổn định, nguồn đầu t n-
ớc ngoài sẽ bị giảm sút và có thể sẽ chuyển sang khu vực khác ổn định và
có nhiều lợi thế hơn nh Trung quốc, khu vực Mỹ Latinh
Hệ thống tài chính đổ vỡ gây sức ép lớn tới lạm phát, giảm thu nhập của
ngời lao động, tác động xấu đến các mặt của đời sống chính trị, xã hội.
Cuối cùng để khắc phục đợc hậu quả khủng hoảng, ổn định trở lại nền kinh
tế trên thế cân bằng mới, các quốc gia này phải tiêu tốn một lợng tài chính rất
lớn, theo ớc tính vào khoảng trên dới 10% GDP. Đây là khó khăn lớn nhất
không thể giải quyết ngay đợc trong một thời gian ngắn.
Bên cạnh những tác động tiêu cực, cuộc khủng hoảng cũng có những yếu tố
tích cực sau :
Giảm giá đồng tiền lại góp phần khuyến khích xuất khẩu, hàng
xuất khẩu của các nớc này có thêm cạnh tranh lớn trên thị trờng
quốc tế nhất là trong tơng quan so sánh với các mặt hàng cùng loại
của các nớc trong khu vực có đồng tiền ổn định hơn.
Các yếu tố đầu vào tính bằng ngoại tệ, bao gồm tiền lơng, đất đai,
dịch vụ giảm một cách tơng đối cao so với các nớc khác, nên khi
khủng hoảng kết thúc thì chính các nớc này lại có lợi thế thu hút

vốn đầu t, cả đầu t trực tiếp và đầu t gián tiếp.
Nếu xét về lâu dài, thì đây là dịp các nớc này rút ra đợc các bài học
điều chỉnh lại các chính sách vĩ mô, điều chỉnh lại cơ quan phát
16
triển kinh tế. Những kết quả của các cải cách này sẽ tạo ra động lực
thúc đẩy sự phát triển một cách bền vững hơn.
Không chỉ ảnh hởng tới các nớc trong khu vực châu á, cuộc khủng
hoảng còn có tác động tới nền kinh tế khoẻ mạnh của Mỹ. Năm 1997 là năm
sức khoẻ nền kinh tế Mỹ tốt hơn bao giờ hết. Giới kinh doanh Mỹ tự nhủ nếu
không có khủng hoảng châu á, năm 1998 này họ đã có thể dễ dàng tiên đoán
thêm một năm ăn nên làm ra nữa. Cuộc khủng hoảng đang làm các nhà xuất
khẩu Mỹ đau đầu : thâm hụt mậu dịch chừng 115 tỷ USD trong năm 1997 sẽ
tăng vọt quá con số kỷ lục là 153 tỷ USD nh năm 1987, nếu các công ty Mỹ
không tìm đợc thị trờng mới ở châu á và châu Mỹ để bù đắp vào xuất khẩu
sang châu á đang giảm sút.
Vì vậy, tăng trởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) chỉ khoảng 2,4 % so
với 3,7 % của năm 1997, năm có mức tăng trởng cao nhất của Mỹ kể từ
1988. Lạm phát trong năm 1997 chỉ còn 2,1%, thấp nhất kể từ năm 1965, nh-
ng nhiều ngời tin rằng con số này sẽ tăng lên 2,5% năm nay. Tỷ lệ thất
nghiệp đã xuống còn 4,6 % vào tháng 11 năm ngoái, cũng là mức thấp nhất
trong vòng 24 năm qua, sẽ nhích lên 5% vào đầu năm 1998
II/ Đối với Việt Nam
Là một quốc gia nằm trong khu vực khủng hoảng, trong bối cảnh quốc
tế hoá cao nh hiện nay, rõ ràng Việt Nam không tránh khỏi những tác động
trực tiếp và gián tiếp, ngắn hạn và dài hạn, tốt và xấu của nó đến tất cả các
lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nớc.
Ban đầu khi cuộc khủng hoảng vừa bùng nổ nhiều ý kiến phân tích nhận
định rằng nền kinh tế Việt nam sẽ không bị ảnh hởng hoặc ảnh hởng không
đáng kể , căn cứ của luận điểm trên mới chỉ dừng ở sự phân tích bề ngoài nh :
+ Đồng tiền Việt nam cha phải là đồng tiền đợc chuyển đổi dễ dàng ,

cha tham gia vào thị trờng tiền tệ khu vực.
17
+ Việt nam cha có thị trờng chứng khoán
Tuy nhiên theo chúng tôi việc phân tích các tác động của cuộc khủng
hoảng tiền tệ ở Châu á đến nền kinh tế Việt nam phải xuất phát từ góc độ
Việt nam đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN , bớc đầu gia nhập
AFTA và tới đây trong xu thế hội nhập sẽ gia nhập APEC , WTO . Chỉ có
nh vậy mới có thể đa ra đợc những đánh giá mang tính khoa học.
Đối với Việt nam cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực đã
có những tác động ở mức độ khác nhau trên nhiều lĩnh vực chủ yếu nh : th-
ơng mại, đầu t , tâm lí xã hội và vấn đề nợ nớc ngoài. Sau đây ta sẽ di xem
xét những ảnh hởng trên từng lĩnh vực cụ thể :
1/ Thơng mại
So với các nớc, tỷ trọng thơng mại của Việt nam với các nớc trong khu
vực Châu á đóng một vai trò hết sức quan trọng. Trong đó về nhập khẩu các
nớ ASEAN chiếm tỷ trọng trên 25%, các nớc Châu á khác chiếm trên 45%
tổng kim ngạch nhập nhẩu của Việt nam. Tính chung lại thì hàng năm Việt
nam nhập khẩu từ các nớc Châu á với tỷ trọng lớn trên 70%. Các mặt hàng
chủ yếu nhập khẩu từ các nớc này vào Việt nam gồm : xăng dầu, sắt thép,
phân bón, xi măng, linh kiện điện tử, ôtô, xe máy. Về xuất khẩu, đối với thị
trờng các nớc ASEAN kim ngạch xuất khẩu của Việt nam chiếm tỷ trọng
không dới 20%, thị trờng Châu á chiếm 40% trong tổng kim ngạch xuất khẩu
của Việt nam. Tính chung, Việt nam xuất khẩu hàng hoá sang các nớc Châu
á chiếm khoảng trên 60% tổng kim ngạch xuất khẩu, các mặt hàng xuất khẩu
chủ yếu gồm : dầu thô, than đá, cao su, cà phê hạt, gạo, dệt may, da giầy và
hải sản .
Bảng 10: Tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt nam và ASEAN .
Nguồn : Bộ thơng mại
18
Các nớc Năm 1996 Năm 1997

Nhập khẩu Xuất khẩu Nhập khẩu Xuất khẩu
Trị giá Tỷ
trọng
Trị giá Tỷ
trọng
Trị giá Tỷ
trọng
Trị
giá
Tỷ
trọng
Tổng số 11.668 100 7.350 100 11.150 100 8.760 100
Các nớc
Asean
2.948 25,2 2.252 30,6 3.098 27,8 1.787 20,4
Các nớc
Châu á
khác
5.537 47,4 2.177 37,0 5.391 48,3 3.740 42,7
Phần còn
lại
3.195 27,4 2.379 32,4 2.661 23,9 3.323 36,9
Dới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á hoạt động
xuất nhập khẩu của Việt nam cũng có một số biến động.
Thứ nhất : Về xuất khẩu. Do đồng nội tệ của các nớc bị khủng hoảng
mất giá hơn so với Việt nam Đồng nên theo nguyên lí xuất khẩu hàng hoá
của Việt nam sang các nớc này sẽ bị hạn chế do giá của các hàng hoá này trở
lên đắt tơng đối và nhu cầu nội địa tại các nớc bị khủng hoảng giảm sút. Bên
cạnh đó nh phần trên đã chỉ ra cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt nam cũng
giống nh cơ cấu hàng xuất của các nớc ASEAN do đó chắc chắn vễ xuất

khẩu của Việt nam hiện tại và trong tơng lai sẽ có sự sụt giảm đáng kể. Điều
này đợc phản ánh qua số liệu tình hình xuất nhập khẩu năm 1997 khi cuộc
khủng hoảng bắt đầu nổ ra và lan rộng, xuất khẩu của Việt nam thời gian này
giảm từ 2.252 triệu USD năm 1996 xuống còn 1.787 triệu USD ( bảng trên ) ,
mức giảm là 465 triệu USD. Đặc biệt phân tích tình hình xuất khẩu cho thấy
thị trờng xuất khẩu hàng hoá của Việt nam đang có xu hớng bị thu hẹp. Năm
1997 kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang các nớc ASEAN, Nhật và Hàn
Quốc đạt khoảng 42,2 % tổng kim ngạch xuất khẩu trong đó trên 24% là
sang các nớc ASEAN nhng trong đó 65-79% là hàng xuất sang Singapore
19
một quốc gia bị ảnh hởng ít của cuộc khủng hoảng. Dự đoán của các chuyên
gia sang năm 1998 và kéo dài ít nhất 1-2 năm nữa mức ảnh hởng của cuộc
khủng hoảng đến xuất khẩu của Việt nam còn lớn hơn . Số liệu đầu năm
1998 ( tháng 1/98) cho thấy xuất khẩu của Việt nam sang các nớc ASEAN đã
giảm 57% so với tháng 12 năm 1997 , xuất khẩu sang Hàn Quốc giảm 24%
và sang Đài loan giảm 50%, theo báo cáo của NHNN xuất khẩu trong 6
tháng đầu năm 1998 chỉ tăng 10,2% ( trong khi đó cùng kì năm 1997 tăng
32%). Vì vậy trong thời gian tới Chính phủ cần có các biện pháp kịp thời
nhằm hạn chế những tác động của cuộc khủng hoảng và thúc đẩy xuất khẩu .
Thứ hai : Về nhập khẩu. Theo lí thuyết thì nhập khẩu của Việt nam từ
các nớc bị khủng hoảng Châu á sẽ tăng mạnh song thực tế ngay từ đầu năm
1997 Chính phủ Việt nam đã áp dụng các biện pháp để hạn chế nhập siêu,
đặc biệt là đối với các mặt hàng trong nớc có khả năng đáp ứng và những mặt
hàng tiêu dùng. Vì vậy qua tình hình nhập khẩu năm 1997 cho thấy các mặt
hàng nhập khẩu vào Việt nam bao gồm các loại vật t, nhiên liệu, máy móc
phục vụ cho sản xuất đều đợc nhập khẩu khá dễ dàng nhờ thuế suất thấp, rõ
ràng đây là mặt lợi mà cuộc khủng hoảng trong khu vực đem lại cho Việt
nam. Theo báo cáo của Bộ thơng mại giá máy móc thiết bị giảm từ 20-40%
so với trớc khi xảy ra khủng hoảng, giá nguyên liệu nhựa giảm 10-30%, linh
kiện điện tử giảm 10-30%, bông xơ các loại giảm 10-15%. Đây thực sự là

điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt nam tận dụng để giảm chi phí
đầu vào .
Bên cạnh đó do tác động của cuộc khủng hoảng tệ nạn buôn lậu ngày
càng gia tăng do giá cả hàng hoá tại các nớc này rẻ so với hàng hoá tại Việt
nam và các nớc không bị ảnh hởng mạnh. Điều này nếu không có sớm các
biện pháp ngăn chặn sẽ tạo ảnh hởng không tốt đến quá trình sản xuất của
các doanh nghiệp trong nớc.
Theo chúng tôi, hiện nay có thể áp lực của cuộc khủng hoảng đối với
nhập khẩu không là đáng kể song trong thời gian tới mức độ tác động sẽ lớn
20
hơn khi Việt nam phải thực hiện các chơng trình cắt giảm thuế quan nhập
khẩu theo quy định của AFTA .
2/ Đối với đầu t nớc ngoài.
Đầu t dới dạng ODA : Thực tế về huy động vốn đầu t ODA của Việt
nam cho thấy hiện nay đang diễn ra quá trình cạnh tranh và giành giật hết
sức quyết liệt giữa các nớc nghèo, các nớc đang phát triển nguồn vốn ODA từ
các nớc phát triển và các tổ chức tài chính quốc tế. Số liệu cho thấy trong các
hiệp định cho vay đa phơng thì WB ( World Bank ) chiếm 22% tổng số vốn
cam kết, tiếp sau là ADB 16%. Nh vậy sau khi xảy ra khủng hoảng chắc chắn
mức cam kết của ADB sẽ giảm xuống. Các nớc trớc đây thờng cho Việt nam
vay vốn ODA nh Nhật Bản, Hàn Quốc cũng đang bị ảnh hởng nặng nề của
cuộc khủng hoảng nên việc gia tăng các nguồn vốn ODA từ các nớc này
cũng sẽ rất khó khăn .
Nh vậy việc huy động nguồn vốn ODA sẽ ngày càng trở nên khó khăn
hơn dới tác động của cuộc khủng hoảng.
Về thu hút đầu t dới dạng FDI ( Foreign Direct Invesment ) : Đầu t ở
Việt nam từ sau khi ban hành Luật khuyến khích đầu t trực tiếp nớc ngoài
( năm 1987 ) đã ngày càng tăng mạnh cả về chất và lợng.
Bảng 11 : Tình hình đầu t trực tiếp nớc ngoài ở Việt nam
Chỉ tiêu 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997

Số dự án cấp phép 155 193 272 362 404 501 479
Vốn đăng kí
( Tr.USD)
1388 2271 2987 4071 6616 9212 5548
Số dự án giải thể 38 48 34 58 56 52 55
Số vốn giải thể 293 401 79 217 477 1024 243
Số dự án tăng vốn 6 10 51 73 122 134 143
Số vốn tăng 7,7 49 222 504 1247 684 1095
Vốn thực hiện 221 398 1106 1952 2652 2371 2950
Tỷ lệ VTH/VĐK(%) 24 22,7 28 34,1 34,8 33 53,1
21
Nguồn : Bộ kế hoạch và đầu t
Số liệu năm 1997 cho thấy đầu t trực tiếp nớc ngoài ở Việt nam đã có
dấu hiệu chững lại.
3/ Tâm lí xã hội
Cơn bão tài chính tiền tệ tại các nớc Châu á mà tâm điểm là khu vực
Đông Nam á nổ ra đã tác động mạnh đến tâm lí của ngời dân Việt nam.
Những ảnh hởng này thể hiện rõ nhất qua việc rút tiền tiết kiệm hàng loạt của
dân c và các tổ chức kinh tế quy đổi sang ngoại tệ hoặc các loại tài sản khác
nh vàng, đá quý vì lo sợ sự mất giá nghiêm trọng của VNĐ. Trong cơ cấu
tiền gửi tại ngân hàng tiền gửi bằng Việt nam đồng có xu hớng tăng chậm
trong khi tiền gửi bằng ngoại tệ tăng khá nhanh kể cả tiền gửi ngoại tệ của
dân chúng và của các doanh nghiệp.
Tuy nhiên theo chúng tôi tác động tâm lí mạnh nhất của cuộc khủng
hoảng là đã có không ít những quan điểm cho rằng : cơn bão tài chính tiền tệ
chỉ xảy ra và lan truyền theo hiệu ứng đến những quốc gia có nền kinh tế
đang trong thời kỳ tự do hoá và hội nhập vào khu vực và trên thế giới và nh
vậy, để tránh một cuộc khủng hoảng tơng tự Việt nam không vội vàng gì phải
đẩy nhanh quá trình hội nhập và toàn cầu hoá nền kinh tế, và cuối cùng cần
phải xem lại mô hình và đờng lối phát triển kinh tế của Việt nam. Thêm nữa,

sau khi nhận thấy một trong những nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng là
do việc điều hành chính sách tỷ giá không hợp lí tại các nớc bị khủng hoảng
không ít những nhà kinh tế đã lên tiếng cho rằng việc giữ ổn định tỷ giá hiện
nay của Việt nam là sai lầm và cần phải phá giá VNĐ để trả lại giá trị đích
thực cho đồng bản tệ , chỉ có nh vậy mới có thể thúc đẩy xuất khẩu. Về gián
tiếp, những quan điểm này đã tác động mạnh đến xu hớng đầu cơ và tích trữ
ngoại tệ ở Việt nam trong thời gian này .
4/ Sản xuất trong nớc
22
Do biến động của tỷ giá VNĐ/USD và hiệu ứng tâm lí của cuộc khủng
hoảng làm cho quá trình đầu t trong nớc có xu hớng giảm. Khi có biến động
về tiền tệ các khoản tiết kiệm sẽ chuyển thành các ngoại tệ mạnh và các loại
taì sản quý để tích trữ điều này gây khó khăn cho hoạt động huy động vốn
trong nớc của ngành ngân hàng. Mặc dù qua số liệu năm 1997 lợng vốn huy
động trong nớc qua hệ thống ngân hàng thơng mại tiếp tục tăng trởng 21
nghìn tỷ đồng so với cuối năm 1996 ( tăng 25% ), trong đó tốc độ tiền gửi
ngoại tệ tăng 27,9%, tiền gửi bằng VNĐ tăng 24,8% đa tỷ lệ tiền gửi so với
GDP tăng từ 25% năm 1996 lên 28%. Song hiện tại ngân hàng mới chỉ đáp
ứng đợc đợc khoảng 45-46% nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp quốc
doanh. Trong khi đó việc các nớc trong khu vực phá giá đồng nội tệ đã làm
cho hàng sản xuất từ các nớc này trở lên rẻ tơng đối và cạnh tranh gay gắt với
hàng sản xuất của Việt nam. Nh vậy cuộc khủng hoảng đã làm cho việc đầu
t mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp gặp khó khăn do thiếu vốn và bị
cạnh tranh gay gắt bới hàng hoá rẻ từ các nớc trong khu vực.
5/2 Ngân sách Nhà nớc
Về thu ngân sách : Nh đã phân tích ở phần trên, do tác động của cuộc
khủng hoảng lợng hàng nhập sẽ có xu hớng gia tăng vì vậy thu thuế từ nhập
khẩu sẽ tăng lên. Song theo chúng tôi, xét về dài hạn thì mức tăng thêm sẽ
không nhiều vì để đảm bảo các điều kiện cho quá trình hội nhập về kinh tế
Việt nam phải cắt giảm hàng loạt thuế các mặt hàng nhập khẩu. Do tác động

của cuộc khủng hoảng sẽ dẫn đến thu ngân sách Nhà nớc có hai hiệu ứng trái
ngợc nhau :
Một là : có khả năng tăng thu thuế xuất nhập khẩu.
Hai là : gánh nặng nợ nần và chi phí nguyên vật liệu tăng lên có thể làm
cho các doanh nghiệp sản xuất Việt nam bị đình đốn thậm chí là phá sản và
nh vậy tác động của khủng hoảng sẽ làm giảm thu ngân sách.
23
Về chi ngân sách : Trong thời gian tới do VNĐ mất giá 10-15% do ảnh
hởng của cuộc khủng hoảng lên việc chi ngân sách Nhà nớc sẽ tăng lên để
đối phó với lạm phát có thể lên cao và chi trả nợ nớc ngoài. Các khoản nợ
tính bằng VNĐ của Nhà nớc và các doanh nghiệp sẽ tăng lên do VNĐ mất
giá sẽ là gánh nặng cho các doanh nghiệp và Nhà nớc, làm giảm đáng kể dự
trữ quốc tế của Việt nam.
6/ Tác động đến lĩnh vực ngân hàng - tài chính :
Cuộc khủng hoảng đã gây ra sức ép giảm giá đồng Việt nam trên thị trờng
hối đoái. Do đồng tiền của các nớc trong khu vực mất giá từ 30-70% nên trên
thực tế VNĐ đã lên giá so với đồng tiền các nớc này và gây sức ép phá giá.
Thực tế, tâm lí lo sợ VNĐ phá giá đã dẫn đến việc vội vàng chuyển từ VNĐ
sang USD để tích trữ, đẩy tỷ giá USD trên thị trờng tự do tăng mạnh trong
một thời gian, có thời điểm lên tới 1USD=14.600 VNĐ. Để đối phó lại
NHNN đã phải dùng nhiều biện pháp để đối phó nh tung ngoại tệ ra bán,
nâng mức biên độ dao động, tăng cờng các biện pháp kiểm soát ngoại hối.
Cơ cấu tiền gửi tại hệ thống ngân hàng cũng chịu ảnh hởng mạnh của
cuộc khủng hoảng. Vào thời điểm đầu năm 1998, lợng tiền gửi bằng VNĐ
tăng chậm trong khi đó tiền gửi bằng ngoại tệ tăng khá nhanh ( kể cả tiền gửi
của dân c và của các doanh nghiệp ). Nhiều doanh nghiệp giữ lại ngoại tệ
trên tài khoản mà không bán lại cho NHNN để tránh rủi ro do sự mất giá của
VNĐ. Tình hình trên đã gây mất cân đối ngoại tệ ở từng thời điểm, gây sức
ép đến tỷ giá VNĐ và sự ổn định của thị trờng hối đoái.
Ngoài ra ảnh hởng của cuộc khủng hoảng còn đợc thể hiện rõ qua hoạt

động giao dịch ngoại tệ. Trên thị trờng ngoại tệ liên ngân hàng tính từ đầu
năm đến tháng 3/1998, các hoạt động giao dịch có chiều hớng giảm sút , các
ngân hàng thơng mại chỉ tiến hành mua vào mà không bán ra ngoại tệ dẫn
đến cầu vợt xa cung gây mất cân đối cung cầu ngoại tệ từ đó gây sức ép tăng
24
lãi suất và dễ làm mất ổn định hệ thống ngân hàng. Ngoại tệ tăng giá làm
tăng nhu cầu vay vốn bằng Việt nam đồng do lãi suất thấp và tránh rủi ro về
tỷ giá song khi nhu cầu vay vốn bằng VNĐ tăng lên tạo sức ép tăng lãi suất
VNĐ, lãi suất tăng sẽ ảnh hởng đến việc khuyến khích đầu t trong khi đó hệ
thống ngân hàng Việt nam hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn về huy
động vốn, cho vay và khả năng thanh toán trong nớc và quốc tế.
B/ Tác động đối với tiến trình hội nhập kinh tế Việt nam vào AFTA ,
APEC và WTO.
Theo các mục tiêu của AFTA : tăng chu chuyển thơng mại nội bộ giữa
các nớc ASEAN và thế thơng lợng cạnh tranh thơng mại của toàn ASEAN
với thế giới, tạo lập khu vực hấp dẫn đầu t trực tiếp nớc ngoài vào khu vực và
làm cho nền kinh tế ASEAN thích ứng với mọi biến đổi của nền kinh tế thế
giới thì cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực đã hoàn toàn ảnh
hởng đến mục tiêu và các định hớng đặt ra. Do đó tiến trình rút ngắn thời hạn
thực hiện AFTA của một số nớc thành viên trong bối ảnh hiện nay là hết sức
khó khăn. Vì vậy đối với Việt nam tiến trình hội nhập vào nền kinh tế khu
vực và thế giới bằng việc gia nhập ASEAN, APEC, WTO chắc chắn sẽ không
tránh khỏi những trở ngại.
Nh phần trên đã phân tích xét về lâu dài những tác động của cuộc khủng
hoảng trong khu vực đối với nền kinh tế Việt nam không phải là nhỏ, thêm
vào đó ở trong nớc, Việt nam cũng đang vấp phải những hiện tợng kinh tế có
những nét tơng tự giống nh tình hình của các nền kinh tế ASEAN trớc khi bị
khủng hoảng nh : hệ thống ngân hàng yếu kém, xuất hiện các khoản nợ khó
đòi trong hệ thống các ngân hàng thơng mại, thâm hụt ngoại thơng và thâm
hụt cán cân thanh toán quốc tế, đầu t trực tiếp nớc ngoài giảm sút Những

dấu hiệu này sẽ ảnh hởng và làm giảm sút khả năng phát triển kinh tế của
việt nam vào những năm tới. Theo đó, lộ trình thực thi AFTA mà Việt nam
cam kết hoàn thành vào năm 2006 sẽ không dễ dàng thực hiện chứ cha nói gì
25

×